KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG KINH
DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NHNT
I. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH THẺ Ở NHNT
1. Triển vọng phát triển thị trường thẻ tín dụng trong những năm tới
Các nhà kinh tế đã nhận định: đến năm 2010, GDP bình quân đầu người tăng
gấp đôi năm 2000 và sẽ đạt khoảng 700 USD/năm. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm đạt khoảng 6 - 8%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5 -
5%, công nghiệp 14 - 15%, dịch vụ 12 - 13%, xuất khẩu khoảng 28%. Tỷ lệ đầu
tư/GDP khoảng 25%. Năm 2010, nông nghiệp chiếm khoảng 14 - 15%, công
nghiệp và xây dựng 34 - 35%, dịch vụ 49 - 50% GDP. Trong những năm tới, với
môi trường kinh tế và xã hội phát triển như vậy, có thể nói rằng thẻ tín dụng là một
dịch vụ hứa hẹn sinh lời, không chỉ hấp dẫn những nhà ngân hàng mà nó còn có
sức thu hút với người dân, những nhà doanh nghiệp hay những công ty tài chính.
Cung cầu hứa hẹn chắc chắn sẽ có triển vọng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam
Trước hết là công nghệ tin học đang có điều kiện phát triển và ứng dụng
rộng rãi ở Việt Nam. Đây là một cơ sở có tính then chốt tạo ra sự phát triển của
dịch vụ thẻ thanh toán của các ngân hàng thương mại Việt nam. Nhận thức cũng
như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ được thay đổi theo hướng tích cực
hơn. Đầu năm 2002 vừa qua NHNT đã triển khai thêm máy ATM lên tới 50 máy và
trang bị một số thiết bị cần thiết cho các Merchant sẽ thu hút thêm số lượng khách
hàng có nhu cầu.
Với dự báo như trên thu nhập của dân cư sẽ tăng từ 300 USD/năm lên 700
USD/năm trong những năm tới. Tuy vẫn là một nước có thu nhập bình quân thấp,
khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn còn xa nhưng chắc chắn sẽ có
một bộ phận dân cư có thu nhập khá. Thêm vào đó, ngoài việc kiến thức xã hội về
công nghệ được phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hội nhập và bước
tiến của khoa học, ở Việt Nam sẽ có những thay đổi đáng kể về mặt nhân khẩu học
theo hướng thuận lợi cho việc ứng dụng sản phẩm mang tính định hướng công
nghệ như dịch vụ thẻ thanh toán. Hiện nay dân cư các đô thị Việt nam chiếm
khoảng 25-30% dân số cả nước trong đó đã có một tỷ lệ cao những người đang học
tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin học và có khả
năng tiếp các dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy sau 5-7 năm nữa,
đối tượng có khả năng tiếp nhận sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra lứa tuổi dưới
50-52 tuổi và sẽ chiếm tỷ trọng lớn những người trong độ tuổi lao động ở thành thị.
Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người dân cũng tăng tạo
điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng và phương
tiện thanh toán mới.
Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các
trung tâm thương mại, dịch vụ, các siêu thị, các cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi
tập quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng công cụ thanh toán không
dùng tiền mặt.
Một nhân tố nữa không thể bỏ qua là môi trường pháp lý sẽ ngày càng được
hoàn thiện hơn tạo nền tảng cho việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Ngân
hàng Nhà nước sẽ có những chủ trường mang tính nguyên tắc mở đường cho các
ngân hàng thương mại mạnh dạn đầu tư, phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng
mới nhằm tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập của các ngân hàng thương
mại Việt nam. Thêm vào đó ngày 1/4/2002 vừa qua NHNN Việt Nam đã ban hành
quyết định cấm các hoạt động thanh toán bằng ngân phiếu sẽ kích thích và thu
hút khách hàng sử dụng dịch vụ thẻ.
2. Định hướng phát triển thị trường kinh doanh thẻ tín dụng của NHNT trong
những năm tới.
Lĩnh vực kinh doanh thẻ là một lĩnh vực mới, điều kiện thị trường hết sức đa
dạng và liên tục, đòi hỏi phải có sự phản ứng nhanh chóng, chính xác từ phía ngân
hàng. Hiện nay kinh doanh thẻ tín dụng chưa phải là nghiệp vụ lớn tại NHNT nếu
so sánh lợi nhuận thu được từ hoạt động này so với lợi nhuận của toàn ngân hàng.
Tuy nhiên trong chiến lược phát triển của ngân hàng, ban lãnh đạo vẫn coi đây là
một trong những nghiệp vụ quan trọng.
Trước hết ngân hàng tập trung nỗ lực đẩy mạnh công tác phát hành thẻ tín
dụng, đưa ra các sản phẩm mới đa dạng phong phú phù hướng tới nhiều đối tượng
khách hàng khác nhau đưa nghiệp vụ thẻ thực sự trở thành một hình thức cho vay
mới của ngân hàng. Thực hiện liên kết với các đối tác để phát hành thẻ liên kết,
trước mắt là thẻ tín dụng liên kết Amex Blue Box cùng với Vietnam Airlines sau đó
sẽ phát triển thẻ liên kết thương hiệu Visa hoặc Mastercard cùng với Bảo hiểm,
Viễn thông, Petrolimex. Hạn mức tín dụng của thẻ sẽ giảm để mở rộng cho thị
trường nội địa. Mặt khác ngân hàng còn triển khai thực hiện thẻ công ty theo yêu
cầu của các công ty cho nhân viên. Bên cạnh đó ngân hàng sẽ đẩy mạnh công tác
xúc tiến khách hàng đưa sản phẩm thẻ chiếm lĩnh thị trường tạo được lòng tin của
công chúng.
Với nhu cầu sử dụng thẻ phát triển, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ cũng sẽ
mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thẻ sẽ được chấp nhận để trả tiền dịch
vụ điện, nước, xăng dầu, gaz, thanh toán cước phí điện thoại, thanh toán học phí, ...
Dịch vụ thương mại điện tử cũng sẽ phát triển và thẻ là phương tiện thanh toán
thuận lợi nhất trong loại hình giao dịch này. Duy trì và tiếp tục đầu tư để nâng cao
chất lượng thanh toán thẻ ở các Merchant. Lượng giao dịch thanh toán thẻ được xử
lý tự động đảm bảo an toàn và phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ sẽ đạt tới
khoảng 90%.
Đặc biệt cho đến năm 2005, ngân hàng sẽ xây dựng một trung tâm thanh
toán thẻ độc lập để mang lại tính chủ động, linh hoạt nâng cao hiệu quả hoạt động
của lĩnh vực dịch vụ thẻ. Thực hiện mục tiêu với số thẻ tín dụng quốc tế là 30.000
với số đơn vị chấp nhận thẻ là 20.000 cùng với doanh số thanh toán thẻ tín dụng
quốc tế là 180 triệu USD/năm, doanh số sử dụng thẻ: 500 tỷ VNĐ/năm đưa sản
phẩm thẻ phát triển rộng rãi trong công chúng.
II. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG THẺ TÍN DỤNG CHO NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
1. Giải pháp cho VCB
1.1/ Giải pháp về công nghệ kỹ thuật
Tiện ích của thẻ tín dụng được tạo ra và gắn liền với các thành tựu của công
nghệ thông tin. Sự ứng dụng các thành tựu kỹ thuật đã làm thời gian cập nhật giao
dịch toàn cầu chỉ còn tính bằng giây. Đó chính là cơ sở để thẻ tín dụng đem lại cho
khách hàng sự hài lòng trên phạm vi toàn thế giới. Thẻ tín dụng được đánh giá là
phương tiện thanh toán an toàn vì nó có hệ thống mã hoá bảo mật.Với lợi thế của
người đi sau, có điều kiện để tiếp thu những công nghệ mới nhất, Vietcombank và
tất cả các ngân hàng kinh doanh thẻ ở Việt Nam cần lựa chọn phát triển hệ thống
máy móc đầu cuối theo hướng tương thích với hệ thống của thế giới. Vì vậy
Vietcombank cần lập chiến lược phát triển công nghệ theo định hướng.
1.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu và có các chính sách phù hợp.
Thẻ tín dụng là một thị trường không có ranh giới rõ ràng về mặt địa lý. Các
thành tựu kỹ thuật ứng dụng với thời gian giao dịch nhanh nhất đã xoá đi khoảng
cách về mặt không gian địa lý. Vì vậy không thể dùng các phương thức phân đoạn
thị trường cổ điển để định hướng chiến lược phát triển thị trường. Ngân hàng cần
lập một chiến lược phát triển thị trường là cần chú ý tới các phân tích thống kê
nhân khẩu và thu nhập. Trong thời gian tới, ở Việt Nam nhóm khách hàng có tiềm
năng nhất cho phát hành thẻ tín dụng vẫn là những người có độ tuổi trẻ và trung
bình. Nhiều trong số họ có thu nhập cao, có học vấn và có nhu cầu thường xuyên
ra nước ngoài. Vietcombank có thể căn cứ vào các điều tra thống kê nhân khẩu học
và thu nhập để dự báo trước được quy mô thị trường khai thác, từ đó chủ động
được trong kế hoạch phát triển thẻ của mình. Bên cạnh đó ngân hàng không chỉ
chú trọng đầu tư trang bị hệ thống máy móc thiết bị tại những trung tâm thành phố
lớn mà chủ động nghiên cứu các kế hoạch phát triển chi nhánh. Lắp đặt hệ thống
máy móc tại những nơi có tiềm năng phát triển như các khu đô thị mới, những
vùng kinh tế trọng điểm, các khu du lịch để nắm bắt thị trường này.
1.3 /Nhóm giải pháp nâng cao tiện ích của công cụ thẻ.
Cách đề cập đến tiện ích của công cụ thẻ ở đây không xét dưới góc độ các
ứng dụng mới áp dụng vào thẻ tín dụng mà là trên góc độ cải cách cách thức kinh
doanh để làm tăng tính hấp dẫn của thẻ tín dụng đôí với các khách hàng tiềm năng
trên thị trường. Với phần đông người Việt Nam hiện nay, thẻ tín dụng là một sản
phẩm lạ lẫm. Họ chưa hiểu và chưa biết khai thác hết các tiện ích vốn có của thẻ
tín dụng. Trong điều kiện như vậy, việc quy định một mức phí và lãi cao như hiện
nay là không hợp lý để phát triển thị trường.
Mảng thanh toán là một tác nghiệp mang lại nhiều lợi nhuận cho
Vietcombank và các ngân hàng khác. Tận dụng được một lượng lớn khách nước
ngoài sử dụng thẻ tín dụng do các ngân hàng nước ngoài phát hành, các ngân hàng
Việt Nam đã có một mức tăng trưởng kỷ lục về doanh số (200% /năm ). Nhưng
ngay khi có biến động, dòng khách du lịch và doanh nhân giảm xuống, doanh số
thanh toán thẻ cũng giảm liên tục. Muốn khắc phục tình trạng này, phương thức lâu
dài nhất là chú trọng phát hành thẻ tín dụng nội địa, nâng cao tỷ lệ doanh số thanh
toán trong nước.
Trong giai đoạn hiện nay, khách hàng là người Việt Nam đại bộ phận đều
cho rằng tỷ lệ phí, lãi áp dụng cho giao dịch thẻ của Vietcombank là quá cao, lập
luận đơn giả của họ là đem ra so sánh với mức lãi suất cho vay dài hạn. Và vì thế
họ cho rằng thẻ tín dụng không kinh tế. Mặc dù mức phí, lãi này hoàn toàn tương
xứng với các tiện ích mà thẻ tín dụng mang lại nhưng khách hàng vẫn chưa hiểu
hết nên việc phát triển thị trường rất khó khăn . Tạm thời, để kiến tạo một thị
trường ban đầu, Vietcombank nên xem xét giảm bớt mức phí, lãi áp dụng để
khuyến khích khách hàng, khi quá trình kinh doanh đã đi vào thế ổn định có thể
xem xét việc tăng mức phí, lãi sau.
Một điểm nữa cần cải cách để tăng tính tiện ích của thẻ tín dụng đối với
khách hàng là việc phát triển mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ. Số lượng điểm tiếp
nhận thời gian qua đã tăng nhanh nhưng vẫn chỉ tập trung vào các khách sạn, nhà
hàng, siêu thị ... có nhiều khách nước ngoài lui tới. Vì vậy phần đông người Việt
Nam đều cho rằng các cơ sở chấp nhận thẻ thực tế chỉ để phục vụ người nước
ngoài. Trong khi đó mục đích chính của phát triển thẻ tín dụng là nhằm thay thế
tiền mặt trong các giao dịch tiêu dùng. Vì vậy Vietcombank cần chú ý phát triển
mạng lưới Merchant tới các đơn vị có số lượng người đến mua hàng hoá dịch vụ
lớn dù không phải là khách nước ngoài , khi đó tự khắc khách hàng sẽ có cách nhìn
nhận khác về thẻ tín dụng.