Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Lý luận chung về dự án đầu tư (DAĐT) và thẩm định DAĐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.33 KB, 25 trang )

Lý luận chung về dự án đầu tư (DAĐT) và thẩm định DAĐT.
I.Đầu tư và dự án đầu tư
1.Đầu tư
a.Khái niệm:
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành hoạt
động nào đó nhằm thu về cho chủ đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là
tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động hay trí tuệ...
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các
tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm
lực mới cho nền kinh tế-xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
b.Các đặc trưng của hoạt động đầu tư phát triển
-Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn này năm khê
đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện dự án.
-Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện: thời gian
để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác
dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng; thời gian vận hành các kết quả đầu tư
cho đến khi thu hồi được vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra
cũng thường kéo dài nhiều năm.
-Các kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố không ổn định của tự nhiên, của kinh tế xã hội. Do đó, hoạt động đầu
tư phát triển là hoạt động mang nặng yếu tố rủi ro.
-Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ
hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng lên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa
hình tại đó sẽ ảnh hưởng đến sự hoạt động của các kết quả đầu tư sau này.
Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư phát triển đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội
cao thì phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong


quá trình soạn thảo DAĐT.
2.Dự án đầu tư (DAĐT)
a.Khái niệm
-Theo nghị định 52/1999/NĐ-CP định nghĩa, DAĐT là một tập hợp những đề
xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở
vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến,
nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định
(chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp).
b.Vai trò của DAĐT
*Đối với chủ đầu tư:
-DAĐT giúp cho chủ đầu tư biết có nên đầu tư hay không.
-Xác định được cơ hội đầu tư tốt, giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí cơ hội.
-Cơ sở (sau khi đã quyết định đầu tư) cho các nhà đầu tư xây dựng các kế họach đầu tư, theo dõi, đôn đốc vầ
kiểm tra quá trình thực hiện dự án.
-Là công cụ để tìm kiếm các đối tác liên doanh, tài trợ vốn cho dự án.
-Là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên doanh ngay sau khi hợp tác với nhau.
-Là căn cứ để giải quyết các mối quan hệ tranh chấp giữa các đối tác trong quá
trình thực hiện dự án.
*DAĐT đối với Nhà Nước:
-Là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét duyệt cấp giấy phép đầu tư.
-Là căn cứ để toà án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các bên tham
gia đầu tư.
*DAĐT đối với tổ chức tài trợ vốn: đối với các tổ chức tài trợ vốn, chẳng hạn như các NHTM
-một nhà tài trợ lớn thường xuyên và quan trọng, ngoài những ý nghĩa được hcú trọng trên đây,
DAĐT là căn cứ để các tổ chưc này xem xét tính khả thi của dự án, từ đó quyết định có tài trợ
vốn hay không, tài trợ đến mức độ nào cho dự án, nhằm đảm bảo thu hồi được vốn, hận chế tối đa
mọi rủi ro. Trong thực tế, có thể nói đó chính là điều bận tâm lớn nhất và cũng hầu như là duy nhất
đối với các chủ Ngân hàng. Để đạt được mục tiêu đó, trên cơ sở các DAĐT, các nhà tài trợ, chủ
Ngân hàng sẽ xem xét, thẩm định một cách kỹ lưỡng trên nhiều phương diện dự án bằng các
phương pháp, nhiêm vụ khác nhau.

c.Những yêu cầu đối với một DAĐT: Với đặc điểm phát triển nền kinh tế thị
trường hiện nay, một DAĐT có sức thuyết phục đòi hỏi phải đảm bảo đầy đủ
những yêu cầu chủ yếu sau đây:
*Tính khoa học:
Tính khoa học của một DAĐT được thể hiện trên các mặt sau:
-Về số lượng thông tin phải đảm bảo trung thực, tức là phải chứng minh nguồn
gốc và xuất xứ của những thông tin và số liệu đã thu thập được.
-Về phương pháp tính toán phải đảm bảo tính chính xác của các số liệu. Việc sử
dụng các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ.
-Về phương pháp lý giải phải đảm bảo thật hợp lý, logíc và chặt chẽ giữa các nội dung riêng lẻ trong dự án.
-Về hình thức phải đảm bảo sạch, đẹp và rõ ràng.
*Tính khả thi:
Tính khả thi của DAĐT được thể hiện ở chỗ nó có khả năng ứng dụng và khai triển trong thực
tế.
Thật vậy, một DAĐT khi không có tính khả thi, tức là một dự án không phản ánh đúng hiện
thực, thiếu các yếu tố cần thiết để lượng định được biên độ an toàn khi bỏ vốn đầu tư. Vì vậy,
muốn bảo đảm yêu cầu tính khả thi, đòi hỏi dự án phải phản ánh đúng mục tiêu đầu tư, tức là phải
xây dựng trong những hoàn cảnh điều kiện cụ thể về thời gian, mặt bằng, vốn, nguồn nguyên
liệu...đặc biệt đối với những dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài, để bảo đảm tính khả thi của nó đòi
hỏi việc soạn thảo dự án phải hết sức tranh thủ ý kiến tư vấn của các văn phòng làm dịch vụ đầu tư
ở các nước tiếp nhận đầu tư. Vì lẽ, họ là người am tường khá đầy đủ mọi đặc điểm môi trường đầu
tư ở nứơc họ.
*Tính pháp lý.
Tính pháp lý của DAĐT được thể hiện ở chỗ nó không vi phạm những điều cấm kỵ về mặt an ninh, quốc phòng,
môi trường sinh thái, thuần phong mỹ tục, cũng như không chứa đựng những điều trái với pháp luật và chính sách
của Nhà nước. Để có một DAĐT đáp ứng đầy đủ tính pháp lý đòi hỏi trước tiên phải nghiên cứu đầy đủ hệ thống
pháp luật có liên quan đến lĩnh vực dự định đầu tư như: luật lao động, luật đất đai, luật thuế, các văn bản pháp lý
dưới luật, các chính sách, chế độ...
*Tính hiệu quả.
Tính hiệu quả của DAĐT được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận và những

chỉ tiêu nói lên lợi ích kinh tế-xã hội mà dự án mang lại. Thật vậy, không một nhà
đầu tư nào khi bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh mà không nghỉ đến lợi
nhuận của mình được hưởng. Song, cần nhận thấy rằng phần lời ích mà nhà đầu tư
được hưởng chỉ có hiệu quả khi nó không gây ảnh hưởng xấu hoặc vi phạm đến lợi
ích của xã hội. Vì vậy, để đảm bảo tính hiệu quả của DAĐT đòi hỏi khi soạn thảo
dự án cần tính toán kỷ lưỡng và nắm chắc số lượng các yếu tố đầu vào, đầu ra
cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án.
Nói tóm lại, DAĐT đảm bảo đầy đủ 4 yếu tố nói trên, một mặt sẽ giúp nhà đầu
tư giảm thiểu được những rủi ro trong quá trình thực hiện; Mặc khác, giúp cho cơ
quan thẩm định dễ dàng chấp nhận ra quyết định cấp GPĐT.
II.Thẩm định DAĐT.
1.Khái niệm:
Thẩm định DAĐT là quá trình kiểm tra, đánh giá lại dự án (đã được soạn thảo) một cách kỹ
lưỡng trên nhiều phương diện bằng các kỷ thuật phân tích dựa trên căn cứ, dữ liệu và chuẩn mức
khác nhau để đi đến các quyết định liên quan việc triển khai thực hiện dự án hay không.
2.Sự cần thiết phải thẩm định DAĐT.
-Đầu tư là hy sinh nguồn lực hiện tại để mưu cầu lợi ích trong tương lai. Một khi vốn đã bỏ ra thực hiện đầu tư
thì việc sữa chữa sai lầm là rất khó.
-Soạn thảo dự án mang tính chủ quan. Vì người soạn thảo có cái nhìn hẹp, còn người thẩm định
có tầm nhìn rộng hơn trong đánh giá “do vị trí của người thẩm định tạo nên.”
-Thẩm định DAĐT là để phát hiện và hiệu chỉnh các khiếm khuyết.
-Điều phối giữa các đối tác tham gia dự án hướng tới mục tiêu chung.
Do đó, thẩm định là không thể thiếu trước khi thực hiện dự án.
3.Mục đích của thẩm định DAĐT.
-Thẩm định giúp cho chủ đầu tư, các tổ chức tài chính tín dụng, các cơ quan Nhà Nước lựa chọn được phương
án tốt nhất đánh giá được tính hợp lý, hiệu quả dự án trên các giác độ khác nhau.
-Phân tích làm sáng tỏ một loạt các vấn đề có liên quan đến tính khả thi trong
quá trình thực hiện dự án.
-Đánh giá tính phù hợp của dự án. Ở tầm vĩ mô là xem xét chương trình dự án
và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.

-Đánh giá tính hợp pháp hình thành nên tài sản vốn đầu tư.
-Giúp các tổ chức tài chính tín dụng ra quyết định chính xác về cho vay hay tài
trợ vốn cho dự án.
-Giúp mọi người nhìn nhận rõ cái lợi, cái hại của dự án trên các quan điểm khác
nhau để khai thác hay khống chế.
-Xác địng rõ quyền hạn và trách nhiệm của các đối tác tham gia thực hiện dự án.
-Đánh giá tính thực thi của dự án.
4.Các chủ thể thẩm định dự án:
DAĐT được thẩm định bởi các chủ thể khác nhau và với các mục đích khác nhau.
-Đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước:Thẩm định dự án đầu tư là một bộ phận công tác quản
lý quá trình đầu tư, từ bước xây dựng DAĐT để có cơ sở thực hiện đầu tư đến cả quá trình đưa dự
án vào khai thác, sử dụng đạt mục tiêu đã định. Thẩm định DAĐT trên góc độ quản lý Nhà nước
chính là xem xét các lợi ích kinh tế-xã hội (với các tiêu chuẩn thẩm định của nó) mà dự án mang
lại có phù hợp với các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước hay không.
-Đối với chủ DAĐT, ngoài hiệu quả của dự án(khả năng sinh lời cao hay thấp)
mục đích thẩm định còn là xem xét đến những rủi ro, những trở ngại có thể gặp
phải khi đi vào thực hiện dự án nhằm có các đối pháp quản lý thích hợp.
-Đối với các nhà tài trợ dự án, ngoài những điều trên họ còn quan tâm đến tuổi thọ và khả năng
hoàn vốn một cách cụ thể của dự án.
-Đối với NHTM, một trong những nhà tài trợ chủ yếu cho các DAĐT, thì nghiệp vụ mang lại
lợi nhuận chủ yếu chính là hoạt động cho vay. Cho vay để kiếm được lợi nhuận cũng là cơ sở để
các NHTM tiến hành hoạt động huy động vốn. Nếu không có triển vọng mở rộng cho vay thì
NHTM cũng không giám đẩy mạnh huy động vốn để tránh rủi ro ứ đọng vốn. Thế nhưng, dẫu biết
rằng cho vay là để thu lãi, nhưng tất cả các NHTM trên thế giới đều e sợ thêm một rủi ro thứ hai,
là khách hàng không có khả năng hoàn trả vốn vay do làm ăn thua lỗ. Lúc đó thì mất cả chì lẫn
chài, chẳng những không thu được lãi mà còn mất cả vốn. Biểu hiện của tình trạng này là nợ quá
hạn ngày càng nhiều hơn cho đến khi hoàn toàn mất khả năng chi trả. Để đề phòng cho loại rủi ro
thứ hai này, một trong các biện pháp truyền thống của ngành Ngân Hàng là yêu cầu các khoản bảo
đảm cho món vay như cầm cố, thế chấp các loại tài sản khác...Nhưng biện pháp này rõ ràng là một
biện pháp “chữa cháy”, có tính tiêu cực. Biện pháp tích cực hơn là phải làm sao đảm bảo nguồn

vốn tài trợ của Ngân hàng không nhầm “địa chỉ”, cho vay đúng các dự án sản xuất kinh doanh có
hiệu quả. Do vậy, nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
cho vay nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung của NHTM.
Việc thẩm định DAĐT sẽ giúp đánh giá chính xác hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội
của việc đầu tư, ngăn ngừa trước, hạn chế bớt rủi ro, tránh gây thất thoát, không thu hồi được vốn
đầu tư, gây thiệt hại lớn cho chủ đầu tư, nhà tài trợ cũng như xã hội. Kết quả thường thấy ở nhiều
DAĐT không được thẩm định kỹ lưỡng là kỷ thuật lạc hậu, công nghệ lỗ thời, máy móc thiết bị
thiếu đồng bộ, thời gian xây dựng kéo dài, thiếu vốn xây dựng cơ bản, nguồn nguyên liệu cung cấp
thiếu đảm bảo về số lượng và chất lượng, không có thị trường tiêu thụ, gây ô nhiểm môi trường...
5. Cơ sở và phương pháp thẩm định dự án đầu tư.
a. Cơ sở thẩm định:
Dự án đầu tư được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định khi hồ sơ của dự án được xem là đầy
đủ và đúng thủ tục sau:
- Đơn xin đầu tư.
- Ý kiến của cấp quản lý trực tiếp chủ đầu tư.
- Bản dự án ( nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi), các báo cáo chuyên đề, bản vẽ,
bản đồ.
- Ý kiến của Bộ quản lý ngành, UBND tỉnh, thành phố quản lý lãnh thổ và các
ngành có liên quan.
- Các căn cứ có giá trị pháp lý về khả năng huy động các nguồn lực.
- Các căn cứ pháp lý khác.
b. Các phương pháp thẩm định dự án
Một dự án sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có các phương pháp thẩm định khoa học,
kết hợp với kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định có
thể được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào từng nội dung của dự án cần
xem xét.
* Phương pháp so sánh các chỉ tiêu
Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án được so
sánh với các dự án đã và đang được xây dựng hoặc đang hoạt động. Sử dụng phương pháp này
giúp cho việc đánh giá tính hợp lý và chính xác các chỉ tiêu của dự án. Từ đó có thể rút ra các kết

luận đúng đắn về dự án để đưa ra quyết định đầu tư được chính xác. Phương pháp so sánh được
tiến hành theo một số chỉ tiêu sau:
- Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do Nhà nước quy định
hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được.
- Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị, trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc
gia, quốc tế.
- Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi.
- Các chi tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư.
- Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công, tiền
lương, chi phí quản lý ... của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật hoặc các chỉ tiêu kế hoạch
và thực tế.
- Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư ( ở mức trung bình và tiên tiến).
- Các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với các hướng dẫn, chỉ đạo
của Nhà nước, của ngành đối với các doanh nghiệp cùng loại.
- Các chỉ tiêu trong trường hợp có dự án và chưa có dự án.
Trong việc sử dụng phương pháp so sánh cần lưu ý, các chỉ tiêu dùng làm căn cứ so sánh phải
được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và doanh nghiệp, cần hêt sức
tranh thủ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, chuyên gia (kể cả thông tin trái ngược), tránh
khuynh hướng so sánh máy móc.
* Phương pháp thẩm định theo trình tự.
Việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự từ tổng quát đến chi
tiết, kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau.
- Thẩm định tổng quát:
Là việc xem xét tổng quát các nội dung cần thẩm định của dự án, qua đó phát
hiện các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý cần phải đi sâu chi tiết. Thẩm định tổng
quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự
án. Vì xem xét tổng quát các nội dung của dự án, do đó ở giai đoạn này khó phát
hiện các vấn đề cần phải bác bỏ, hoặc các sai sót của dự án cần phải bổ sung hoặc
sửa đổi. Chỉ khi tiến hành thẩm định chi tiết, những vấn đề sai sót của dự án mới
được phát hiện.

- Thẩm định chi tiết:
Được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định này được tiến hành với
từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến phân tích hiệu
quả tài chính và kinh tế - xã hội của dự án. Mỗi một nội dung xem xét đều đưa ra
những ý kiến đánh giá đồng ý hay cần phải sửa đổi thêm hoặc không thể chấp nhận
được. Tuy nhiên mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có thể khác nhau tuỳ
theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án.
Trong bước thẩm định chi tiết, kết luận rút ra nội dung trước đó có thể là điều
kiện để tiếp tục nghiên cứu. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có
thể bác bỏ dự án mà không cần phải đi vào thẩm định toàn bộ các chỉ tiêu tiếp theo
sau. Chẳng hạn, thẩm định mục tiêu dự án không hợp lý, nội dung phân tích kỹ
thuật và tài chính không khả thi thì dự án sẽ không thể thực hiện.
III. Nội dung thẩm định DAĐT xin vay vốn tại các Ngân hàng thương mại
(NHTM).
1.Sự ra đời của NHTM.
Như chúng ta đã biết, nghề Ngân hàng trên thế giới đã bắt đầu rất sớm. Từ
những năm giữa thề kỷ 20 đến nay, hệ thống Ngân hàng mỗi quốc gia đều định
hình thành hai bộ phận rõ rệt: NHTW- thực hiện chức năng quản lý Nhà Nước về
tiền tệ, tín dụng và các Ngân hàng trung gian. Tuỳ thuộc mỗi quốc gia, hệ thống
Ngân hàng trung gian có nhiều loại hình khác nhau với những tên gọi khác nhau.
Song khái quát có thể chia thành ba loại chính:
• Ngân hàng thương mại (commercial Bank)
• Ngân hàng đặc biệt (Special Bank)
• Ngân hàng tiết kiệm (saving Bank)
Ngân hàng thương mại còn được gọi là Ngân hàng ký thác, là loại hình ra đời sớm nhất. Với
mục đích kinh doanh (khác với các Ngân hàng đặc biệt trên đây), hoạt động chủ yếu của Ngân
hàng này là nhận tiền gửi và cho vay.
Ngày nay, các hoạt động cơ bản của NHTM thường bao gồm các hoạt động như
sau:
2.Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường.

a.Hoạt động tạo lập vốn:
Hoạt động này tạo nên nguồn vốn cho Ngân hàng. Nguồn vốn của Ngân hàng là tất cả các
phương tiện tiền tệ của xã hội mà Ngân hàng thu hút, quản lý để cho vay, đầu tư và thực hiện các
dịch vụ khác. Nguồn vốn của NHTM có ý nghĩa quyết định đến quy mô hoạt động và hiệu quả
kinh doanh của NHTM, là cơ cở đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động tiêu dùng và đầu tư trong nền
kinh tế, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng. Nguồn vốn của NHTM có thể bao gồm:
- Vốn tự có: đây là nguồn vốn mà Ngân hàng có thể sử dụng dài hạn vì mang
tính ổn định cao, nó quyết định quy mô hoạt động và đảm bảo khả năng an toàn
của Ngân hàng trong suốt quá trình kinh doanh.
- Các loại tiền gửi: bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền
gửi tiết kiệm. Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền gửi với thời gian không xác
định, nhằm đảm bảo an toàn tài sản, thực hiện chi trả trong sản xuất kinh doanh và
tiêu dùng. Đây không phải là tiền để dành mà là tiền cho thanh toán và phần lớn
các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng séc. Do đó người ta còn gọi tiền gửi
không kỳ hạn là tiền gửi thanh toán hay tiền gửi tài khoản séc. Tiền gửi có kỳ hạn
là khoản tiền gửi với thời gian xác định nhằm hưởng lãi. Lãi suất tiền gửi có kỳ
hạn cao hơn so với lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và thời hạn gửi càng dài thì lãi
suất càng cao. Tiền gửi tiết kiệm là những khoản tiền gửi của dân cư dưới hình
thức để dành với mục đích sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai, bao gồm
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền thu do phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu Ngân hàng.
Đây là hình thức huy động vốn của Ngân hàng, song không thường xuyên, chỉ khi
có nhu cầu.
- Vốn đi vay ở NHTW hoặc các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này được
hình thành bởi các tổ chức tín dụng có quan hệ vãng lai với nhau hoặc giữa các tổ
chức tín dụng với NHTW nhằm bù đắp thiếu hụt trong thanh toán, chi trả hoặc dự
trữ pháp định.
b.Hoạt động cho vay:
- Bên cạnh một bộ phận nguồn vốn của Ngân hàng được để lại dưới dạng dự trữ
ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng chi trả tiền gửi, đảm bảo chi tiêu cho Ngân

hàng, phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng được sử dụng để cho vay và đầu tư.
- Ngày nay, các hình thức tài trợ tín dụng của Ngân hàng rất đa dạng và ngày
càng phát triển. Hoạt động cho vay của NHTM, gồm ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn, luôn là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng song cũng chứa đựng rủi ro
nhiều nhất.
- Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Đây là
loại hình cho vay phổ biến của NHTM, nhằm giúp các doanh nghiệp bổ sung vốn
tạm thời thiếu hụt, đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của dân
cư. Với loại hình này, Ngân hàng có khả năng đảm bảo thanh toán hơn và hạn chế
được rủi ro do khách hàng gây nên. Cho vay trung hạn và dài hạn là loại hình cho
vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án sản xuất kinh doanh, phát
triển kinh tế-xã hội có thời hạn trên 12 tháng. Loại cho vay này ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn bởi nó không chỉ đáp ứng yêu cầu vốn trung và dài hạn cho xã hội mà
còn phù hợp với khả năng huy động ngày càng tăng của NHTM.
- Ngoài nghiệp vụ cho vay kiếm lời, để đa dạng hoá các loại tài sản nhằm phân
tán rủi ro, nâng cao mức doanh lợi vốn, các NHTM còn tiến hành đầu tư vào các
dạng tài sản khác như: hùn vốn liên doanh hoặc góp cổ phần, kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh ngoại tệ và các tài sản khác...
- Ngoài ra, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng để hưởng hoa
hồng mà không phải sử dụng vốn một cách trực tiếp như: thanh toán, thu chi hộ
khách hàng, bão lãnh, tư vấn, môi giới, cho thuê tủ sắt, quản lý hộ tài sản, môi giới
chứng khoán...Ngày nay ở phần lớn các quốc gia, mặt bằng lãi suất đã tới ngưỡng,
vì vậy các Ngân hàng chủ yếu tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng các dịch vụ tài chính
cung cấp cho khách hàng.
3.Trình tự và nội dung thẩm định DAĐT của các NHTM:
a.Trình tự: Để đảm bảo tính hiệu quả, công tác đầu tư thường phải trải qua một trình tự gồm các
bước với nội dung nhất định. Các bước và nội dung cụ thể cũng còn tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh
thẩm định, nhưng thường bao gồm các bước căn bản sau:
-Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ dự án có đầy đủ và đúng quy định chưa.
-Thu thập các thông tin tài liệu và các quy định có liên quan làm cơ sở cho quá

trình thẩm định
-Tiến hành thẩm định DAĐT trên các phương diện khác nhau.
-Lập báo cáo (tờ trình) thẩm định để cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.
b.Nội dung:
Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu của DAĐT: đây là bước đầu tiên quan trọng,
là tiền đề cho các bước tiếp theo. Ở bước này phải trả lời cho được một cách cụ thể
các câu hỏi: vì sao cần phải tiến hành dự án? thực hiện dự án nhằm tới mục tiêu cụ
thể nào?
Thẩm định tính pháp lý của dự án: xem xét dự án có mâu thuẩn với các quy định trong các văn
bản của Nhà nước, có đi ngược với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội hay không. Ngoài những quy
định chung trên, DAĐT còn bị điều tiết, chi phối bởi các văn bản pháp lý khác. Do đó đòi hỏi
phải xem xét một cách cụ thể.
Thẩm định phương diện thị trường: Lợi nhuận là một mục tiêu quan trọng của dự
án, nếu sản phẩm của dự án được sản xuất ra mà thị trường không chấp nhận xem

×