Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH TRONG GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.57 KB, 30 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH TRONG GIAI ĐOẠN ĐẾN
NĂM 2010.
Từ trước đến nay khái niệm của Lâm trường quốc doanh chưa được hiểu rõ
ràng gây khó khăn cho việc đề ra các giải pháp để khắc phục. Hiện nay, theo dự
thảo Nghị định của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm
trường quốc doanh do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì thì Lâm
trường quốc doanh (bao gồm công ty, xí nghiệp, lâm trường thuộc loại hình doanh
nghiệp Nhà nước), được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao, cho thuê rừng và
đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp
1
.
3.1 Quan điểm, phương hướng sắp xếp đổi mới và phát triển
các Lâm trường quốc doanh
3.1.1 Quan điểm đổi mới.
3.1.1.1 Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải đặt trong bối cảnh cải cách
doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn và nhất quán của
Nhà nước. Thực chất của quá trình đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là đa dạng
hoá sở hữu, là quá trình chuyển dịch quyền sở hữu từ phía Nhà nước sang các
thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Mục đích của đổi mới các
doanh nghiệp Nhà nước:
2
 Góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo
1 Dự thảo Nghị định về tiếp tục sắp xếp, đổi mới v phát trià ển Lâm trường quốc doanh, Bộ Nông nghiệp v phátà
triển nông thôn, 2004.
2 Lee Kang Woo, Quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nh nà ước ở Việt Nam giai đoạn 1986-2000, 2001.
động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có
hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
 Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển


doanh nghiệp.
 Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng
cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi ích
của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Theo Nghị quyết 05-NQ- TW, Kỳ họp thứ 3 Đại hội Đảng XI, 24/9/2001
đều nhất trí quan điểm cho rằng: Xu thế hiện nay trong đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước là thực hiện kế hoạch 5 năm sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước với mục tiêu
cổ phần hoá 1/3 tổng số các doanh nghiệp Nhà nước trên toàn quốc, sát nhập hoặc
giải thể các doanh nghiệp nhỏ; cấm thành lập các doanh nghiệp mới, trừ các ngành
công nghiệp Nhà nước cần giữ độc quyền hay các doanh nghiệp có ý nghĩa lớn về
nhiều mặt về xã hội
3
mà các thành phần kinh tế khác không muốn điều hành quản
lý; củng cố tăng cường các ngành công nghiệp chủ lực của Nhà nước “để đảm bảo
phát triển cân đối, đảm bảo cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế đất
nước và phục vụ xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế”
4
.
Vì vậy, khi tiến hành sắp xếp và đổi mới Lâm trường quốc doanh không thể
áp dụng máy móc dập khuôn những hướng dẫn chung về sắp xếp, đổi mới và phát
triển doanh nghiệp Nhà nước mà phải xuất phát từ đặc điểm vốn có của Lâm
trường quốc doanh, cơ chế tổ chức và quản lý, điều kiện cụ thể của lâm trường
hiện tại mà vận dụng những nguyên tắc, quy định chung cho phù hợp.
3 Quản lý đầu nguồn v các khu rà ừng phòng hộ xung yếu khác thuộc loại n y.à
4 Nghị quyết 05- TW, Kỳ họp thứ 3 Đại hội Đảng IX, 24/9/2001.
3.1.1.2 Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải gắn liền với đặc thù sản xuất
nông, lâm nghiệp.
5
- Bảo đảm cho Lâm trường quốc doanh nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững

tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng, vườn cây lâu năm và cơ sở vật chất- kỹ thuật
hiện có; hình thành các vùng sản xuất nông sản, lâm sản hàng hoá tập trung, thâm
canh qui mô lớn gắn liền với chế biến và thị trường tiêu thụ; nâng cao hiệu quả sản
xuất và sức cạnh tranh; tăng thu nhập cho người lao động, bảo vệ môi trường sinh
thái xoá đói và xoá đói giảm nghèo.
- Lâm trường quốc doanh phải chuyển hẳn sang sản xuất và hạch toán kinh
doanh theo cơ chế thị trường có sự hỗ trợ cần thiết và có điều kiện của Nhà nước.
Những Lâm trường quốc doanh phải đảm nhận một phần chức năng xã hội và an
ninh, quốc phòng thì Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích hợp.
- Lâm trường quốc doanh phải có được cơ chế quản lý mới và hình thức tổ
chức phù hợp để thúc đẩy ứng dụng nhanh và có hiệu quả các tiến bộ khoa học,
công nghệ vào sản xuất lâm nghiệp; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phân bổ lại lực lượng lao động và dân cư; góp phần phát triển kinh tế- văn hoá-
xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải gắn với đổi mới về cơ chế quản lý
theo hướng phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích.
3.1.2 Nguyên tắc sắp xếp, đổi mới Lâm trường quốc doanh.
5 Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn, Dự thảo Nghị định của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới v à
phát triển Lâm trường quốc doanh, 2004.
Việc sắp xếp lại các Lâm trường quốc doanh hiện có phải gắn với việc rà
soát lại diện tích đất và các loại rừng lâm trường đang quản lý, sử dụng; phân biệt
rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích; Kết hợp lợi ích của người
dân- lâm trường- xã hội, xã hội hoá việc trồng rừng, giao đất cho dân.
6

- Tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển các Lâm trường quốc doanh ở những
vùng đất quy hoạch trồng rừng nguyên liệu tập trung quy mô lớn hoặc gắn với các
cơ sở chế biến, có tác dụng là hạt nhân phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh trên địa bàn.

- Xoá bỏ bao cấp trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của lâm trường,
bảo đảm cho lâm trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình
đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật.
Giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa người lao động với Nhà nước và
lâm trường, giữa lâm trường với địa phương.
- Những lâm trường quốc doanh quản lý chủ yếu là rừng tự nhiên và rừng
trồng, đất trồng quy hoạch là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chuyển thành đơn
vị sự nghiệp có thu (Ban quản lý rừng).
- Những lâm trường sản xuất, kinh doanh thua lỗ kéo dài, quản lý yếu kém,
không có khả năng đổi mới; những lâm trường không có nhu cầu giữ lại thì kiên
quyết chuyển đổi sang các loại hình sở hữu khác hoặc giải thể theo quy định chung
của Nhà nước.
- Chỉ thành lập mới lâm trường quốc doanh ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo để làm nhiệm vụ bức thiết về phát triển kinh tế- xã hội, bảo
6 Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn, Dự thảo Nghị định của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới v à
phát triển Lâm trường quốc doanh, 2004.
đảm an ninh quốc phòng, nơi đó các thành phần khác khó có khả năng thực hiện và
cần được Nhà nước quản lý đầu tư.
3.1.3 Phương hướng sắp xếp và đổi mới Lâm trường quốc doanh
Căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh; mục đích sử dụng của từng loại
rừng, vai trò của Lâm trường quốc doanh trên điạ bàn để sắp xếp, phát triển theo
hướng
7
:
- Những đơn vị đang quản lý chủ yếu là rừng trồng và đất trồng rừng kinh
tế, gắn với chế biến gỗ và lâm sản; sản xuất, kinh doanh có lãi được duy trì, củng
cố và phát triển để hoạt động theo cơ chế kinh doanh.
- Những đơn vị đang quản lý chủ yếu là đất rừng tự nhiên và đất trống quy
hoạch trồng rừng phòng hộ sẽ chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu.
- Những đơn vị quản lý diện tích đất lâm nghiệp ít, phân bố xen kẽ với đất

nông nghiệp và gần khu dân cư, đang gặp khó khăn trong sản xuất, không gắn với
chế biến thì chuyển sang làm dịch vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp, sản xuất cây
giống, xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
- Những đơn vị nhiều năm sản xuất, kinh doanh không có hiệu quả, không
có yêu cầu làm dịch vụ kỹ thuật, nông nghiệp thì giải thể hoặc chuyển đổi sang
hình thức sở hữu khác.
Theo phương hướng trên dự kiến sắp xếp các lâm trường như sau:
Bảng 9: Phương hướng sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh.
Loại hình sắp xếp Của địa phương Của Bộ Nông nghiệp và phát triển
7 Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn, Dự thảo Nghị định về tiếp tục sắp sếp, đổi mới v phát trià ển các Lâm
trường quốc doanh, 4-2004.
nông thôn
Số lượng % Số lượng %
Tổng số 368 100 368 100
Duy trì 283 76,9 113 30,7
Loại hình khác 0 0,0 18 4,9
Ban quản lý rừng 68 18,5 214 58,2
Sáp nhập 6 1,6 12 3,2
Giải thể 11 3,0 11 3,0
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Việc sắp xếp các Lâm trường quốc doanh sang các loại hình khác có sự khác
nhau giữa các tỉnh và Trung ương (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) là do
có hai quan điểm:
8

 Việc hạn chế về vốn để thực hiện chức năng công ích (bảo vệ rừng) dẫn tới
việc lựa chọn phương án Lâm trường quốc doanh theo hướng kinh doanh, dẫn đến
bao cấp chéo trong kinh doanh và trồng rừng. Trong khi đó ít tỉnh thấy được cần
thiết phải tách biệt chức năng kinh doanh và công ích. Hơn nữa việc Nhà nước
nhận thấy việc cần và áp dụng chỉ tiêu khai thác gỗ từ đó làm mất nguồn thu của

nhiều Lâm trường quốc doanh (đóng cửa rừng).
 Trên tầm vĩ mô, Nhà nước nhận thức rằng chỉ những Lâm trường quốc
doanh hoạt động hiệu quả mới đủ tiêu chuẩn chuyển thành Lâm trường quốc doanh
kinh doanh và việc tách biệt chức năng công ích (Bảo vệ rừng) khỏi chức năng
kinh doanh là cần thiết. Đồng thời, cấp ngân sách thích đáng cho hoạt động của
Ban quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu ngân sách Trung ương
có đủ khả năng cấp cho không khi mà “cái bánh” ngân sách Trung ương đã quá
nhỏ bé.
Thực hiện đổi mới các Lâm trường quốc doanh thì nhiệm vụ chính của lâm
trường được xác định như sau:
9
8 Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn v Ngân h ng thà à ế giới (WB),Hội nghị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới v à
phát triển Lâm trường quốc doanh, 4-2004.
 Gây rừng, bảo vệ môi trường rừng.
 Khai thác, chế biến gỗ và lâm sản; cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế
biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân.
 Dịch vụ vật tư, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp cho các hộ
dân trên địa bàn.
Ngoài các nhiệm vụ chính, các lâm trường được kinh doanh tổng hợp nông,
lâm, ngư, công nghiêp và dịch vụ để sử dụng có hiệu quả lao động, đất đai và vốn
rừng được giao.
Các lâm trường phải làm nòng cốt trong việc thực hiện ký kết hợp đồng sản
xuất, tiêu thụ lâm sản theo Quyết định số 80/ QĐ- TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002
của Thủ tướng Chính phủ.
3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
đối với Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến năm
2010.
Từ những thực trạng của Lâm trường quốc doanh trong quá trình đổi mới đã
xuất hiện các vướng mắc cần phải giải quyết cùng với những mục tiêu đặt ra đối
với phát triển lâm nghiệp như tỷ lệ đóng góp vào GDP, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ

môi trường,… tuy đã có một số văn bản pháp luật ban hành như: Quyết định
187/TTg ngày 16/9/ 1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ chế
quản lý Lâm trường quốc doanh; Quyết định 178/2001/ QĐ- TTg của Thủ tướng
Chính phủ về quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình và cá nhân được giao, cho thuê
và nhận khoán bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp; Nghị định số 163/1999/NĐ-CP về
việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng
9 Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn, Báo cáo tiếp tục sắp xếp, đổi mới v phát trià ển các Nông, Lâm trường
quốc doanh, 2004.
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; và mới đây là Nghị quyết số 28 NQ- TW ngày
16/6/ 2003 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Nông, Lâm
trường quốc doanh”,…Tuy nhiên vẫn chưa giải quyết thoả đáng các vấn đề đặt ra
cho Lâm trường quốc doanh trong thời gian tới. Việc hoàn thiện cơ chế chính sách
đối với các Lâm trường quốc doanh cần tập trung vào các vấn đề :
 Hoàn thiện về tổ chức và cơ chế quản lý trong lâm trường: Hoàn thiện về
tổ chức quản lý Lâm trường quốc doanh; Hoàn thiện cơ chế quản lý.
 Hoàn thiện các chính sách trong lâm trường quốc doanh: Chính sách đất
đai; chính sách tài chính, tín dụng; chính sách đầu tư; chính sách lao động; chính
sách khoa học và công nghệ.
Những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới:
 Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải có lợi cho dân, tách bạch rõ ràng
chức năng công ích và chức năng kinh doanh, rừng sản xuất- rừng phòng hộ.
 Có tiêu chí cơ cấu lại Lâm trường quốc doanh thật rõ ràng, cụ thể: Đất
rừng và rừng tự nhiên, luôn đặt câu hỏi quản lý đất và rừng tự nhiên ai làm tốt hơn:
cộng đồng dân cư, lâm trường hay Ban quản lý; Yêu cầu về đất của nhân dân địa
phương; Năng lực sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh dựa trên kế
hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý và có tính đến nhu cầu và khả năng thị trường.
 Tách dịch vụ công và quản lý rừng tự nhiên khỏi sản xuất kinh doanh và
hạn chế tối đa bao cấp chéo. Đồng thời, giải quyết thích đáng các chế độ cho Ban
quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng (Chỉ thành lập mới Lâm trường quốc
doanh ở những nơi thật sự cần thiết).

 Rà soát tình hình sử dụng đất và giao đất sử dụng kém hiệu quả cho dân
phải là phần chính trong đổi mới Lâm trường quốc doanh- Kế hoạch là năm 2005
hoàn thành.
 Phân loại rừng và lập kế hoạch sử dụng đất đai dài hạn (như Quyết định
187 đã thực hiện).
 Thí điểm các mô hình đổi mới (Cổ phần hoá, công ty 1 thành viên).
 Có kế hoạch hành động với mục tiêu và cơ chế theo dõi, đánh giá cụ thể.
3.2.1 Giải pháp về hoàn thiện tổ chức và cơ chế quản lý trong lâm trường.
3.2.1.1 Giải pháp về hoàn thiện tổ chức.
a/ Phân định rõ cấp quản lý và trách nhiệm của các Lâm trường quốc doanh.
Các lâm trường đã hình thành vùng tập trung chuyên canh, sản xuất nông
sản hàng hoá xuất khẩu hoặc vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến thì tổ
chức Tổng công ty Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhưng
phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Lâm trường còn
lại giao cho cấp tỉnh quản lý.
- Đối với các Lâm trường quốc doanh Trung ương do Tổng công ty quản lý,
công ty trực thuộc các Bộ, ngành trực tiếp quản lý.
- Đối với các Lâm trường quốc doanh địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh trực tiếp quản lý hoặc giao cho các công ty thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
quản lý.
Việc phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của lâm trường là rất
cần thiết, tránh chồng chéo và xác định quyền đích thực của lâm trường.
b/ Sắp xếp lại hệ thống Lâm trường quốc doanh hướng đi vào sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi.
Những lâm trường làm ăn thua lỗ liên tục có thể giải thể giao lại đất cho địa
phương, liên kết liên doanh, cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần. Các lâm trường
(trừ các doanh nghiệp công ích) cũng phải đi vào hoạt động kinh tế, địa giới quản
lý rừng, bảo vệ rừng nên gọn trong 1 huyện hoặc 1 xã.
Trên cơ sở đánh giá lại tình hình hoạt động, vai trò và hiệu qủa của các Lâm
trường quốc doanh đang bố trí ở các khu nguyên liệu công nghiệp để xây dựng các

lâm trường trở thành những Lâm trường quốc doanh theo hướng kinh doanh. Đối
với những Lâm trường quốc doanh ở những khu vực đã được quy định xây dựng
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu, có tầm quan trọng lớn thì
chuyển thành các ban quản lý rừng phòng hộ hoặc đặc dụng và hoạt động như một
đơn vị sự nghiệp có thu.
Cần tách riêng hoạt động sự nghiệp và hoạt động kinh doanh của Lâm
trường quốc doanh, tránh tình trạng chồng chéo giữa hai chức năng kinh doanh và
chức năng công ích. Thực tế cho thấy nếu hai chức năng này không rõ ràng thì lâm
trường sẽ hoạt động không hiệu quả. Hệ thống tiêu chí phân loại Lâm trường quốc
doanh cũng cần phải xem xét lại, ngoài diện tích rừng sản xuất và rừng phòng hộ,
những tiêu chí xác định năng lực kinh tế và khả năng sinh lời của Lâm trường quốc
doanh cần được bổ sung thêm. Đối với hoạt động sự nghiệp hình thành các công ty
công ích và Ban quản lý rừng do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc Uỷ
ban nhân dân các tỉnh quản lý, đối với sản xuất kinh doanh thì hoạt động theo các
hình thức công ty theo luật doanh nghiệp Nhà nước.
Tiếp tục đổi mới phương hướng kinh doanh của các Lâm trường quốc
doanh, chuyển hướng kinh doanh của các lâm trường từ chỗ lấy khai thác tài
nguyên rừng làm chính sang tăng cường quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển
vốn rừng làm trọng tâm, chuyển từ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp theo kế hoạch
Nhà nước giao sang hướng phải có tầm nhìn, chiến lược lâu dài, kinh doanh toàn
diện, tổng hợp từ khâu tạo rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, nông- lâm kết
hợp,… để khai thác hợp lý các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên rừng, đất rừng.
Đối với lâm trường có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thì đất đai lâm trường
đang quản lý phải chuyển sang thuê đất và được hưởng chính sách quy định tại
Nghị định số 51/1999/NĐ- CP, ngày 8/7/1999 của Chính phủ; tổ chức khoán rừng
và đất đai cho cán bộ, công nhân viên lâm trường và hộ nông dân trên địa bàn; thực
hiện việc tiêu thụ lâm sản thông qua hợp đồng với người nhận khoán và nhân dân
trong, ngoài vùng của lâm trường.
Đối với lâm trường chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu thì được Nhà nước
giao đất để quản lý và tổ chức sản xuất theo quy hoạch. Nhà nước giao biên chế bộ

máy quản lý phù hợp với nhiệm vụ và có chính sách đầu tư cho lâm trường, phần
thu trong các hoạt động được để lại cho đơn vị.
Trong trường hợp Lâm trường quốc doanh làm ăn thua lỗ liên tục từ 3 năm
trở lên, quản lý yếu kém; lâm trường không đủ năng lực quản lý, vốn, lao động để
sản xuất, kinh doanh có diện tích dưới 1.000 ha và không có nhu cầu chuyển sang
các đơn vị hành chính sự nghiệp như: Trạm, trại, trung tâm,… và các đơn vị dịch
vụ thì giải thể, tài sản của lâm trường có thể giao lại cho Lâm trường quốc doanh
khác và lâm trường này có thể tiếp tục được sát nhập, hay một doanh nghiệp mới
có thể tham gia thị trường sau khi lâm trường bị giải thể. Các lâm trường đã hình
thành vùng tập trung chuyên canh, sản xuất nông sản hàng hoá xuất khẩu hoặc
vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến thì tổ chức Tổng công ty Nhà nước
để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhưng phải gắn với quy hoạch phát
triển kinh tế- xã hội của địa phương. Lâm trường còn lại giao cho cấp tỉnh quản lý.
Việc giải thể các lâm trường làm ăn không có lãi cũng cần được khuyến
khích bằng cách đưa ra một quy trình giải thể thật rõ ràng minh bạch. Tài sản quý
nhất của Lâm trường quốc doanh là đất đai, cần phải được định giá thoả đáng và
phân bổ lại để sử dụng một cách công khai và công bằng.
c/ Thực hiện thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng và các hoạt động chế biến
lâm sản trong Lâm trường quốc doanh.
Từ thực tiễn cho thấy phần lớn các Lâm trường quốc doanh ở tình trạng
thiếu vốn sản xuất, quản lý tài nguyên rừng yếu kém. Tuy một số tỉnh đã mở rộng
liên doanh trồng rừng dưới hình thức Lâm trường quốc doanh góp vốn, hộ gia đình
góp công và chuyển thành giá trị. Lợi nhuận trong kinh doanh rừng được phân chia
theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Đây là mô hình xây dựng rừng được nhiều địa
phương đánh giá có hiệu quả cao và là hình thức ban đầu để tiến tới thực hiện cổ
phần hoá Lâm trường quốc doanh. Việc thực hiện “cổ phần hoá vườn cây, rừng
trồng, các hoạt động chế biến lâm sản” được coi là một giải pháp quan trọng để thu
hút vốn đầu tư, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các Lâm trường quốc doanh và phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.

Cần đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh của lâm trường trên cơ
sở phát huy lợi thế về đất đai, tài nguyên rừng, lao động, kinh nghiệm sản xuất.
Các Lâm trường quốc doanh và các doanh nghiệp lâm nghiệp rất cần được tham
gia trong các dự án thí điểm để thử nghiệm mô hình cổ phần hoá dưới công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, Công ty liên doanh. Cổ phần hoá
các nhà máy, cơ sở chế biến của Lâm trường quốc doanh theo Nghị định số
64/2002/NĐ- CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ về “Chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần”; thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng
trồng của lâm trường, không cổ phần hoá rừng tự nhiên vì đó là tài sản quốc gia,
không phải là tài sản của lâm trường nên không tiến hành cổ phần hoá loại rừng
này, kể cả rừng tự nhiên có mục đích sản xuất; ưu tiên bán cổ phần cho cán bộ,

×