Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Những bài văn chọn lọc lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.83 KB, 112 trang )

Lu Đức Hạnh (Chủ biên)
Lu Tuyết Hiên - Nguyễn Mai Hơng - Lê Văn Khải
Trịnh Trọng Nam - Trịnh Duy Tuân - Nguyễn Anh Thơ
Những bài văn chọn lọc
lớp 10 chơng trình phân ban
Nhà xuất bản
1
Lời nói đầu
Từ năm học 2006 - 2007, tất cả các trờng Trung học phổ thông bắt đầu
thực hiện đại trà Chơng trình phân ban.
Việc dạy và học môn Ngữ Văn có những điểm thay đổi cơ bản sau đây :
Thứ nhất, các loại văn bản đợc học theo cách "đọc hiểu". Ngoài việc rèn
luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn tập trung rèn luyện hai năng lực phân
tích và cảm thụ. Nhất là cảm thụ văn bản văn học.
Thứ hai, phần viết bài văn (xây dựng văn bản), chơng trình lớp 10 học
sinh phải tạo đợc các kiểu :
+ Cảm nghĩ về đời sống, về văn học
+ Kể chuyện có yếu tố miêu tả và biểu cảm
+ Tóm tắt văn bản tự sự
+ Kể chuyện có yếu tố h cấu
+ Thuyết minh (giới thiệu) về đời sống và văn học từ chính xác đến hấp
dẫn.
Cuốn sách này đợc biên soạn bám sát chơng trình Ngữ Văn 10 nhằm giúp
học sinh nâng cao năng lực phân tích , cảm thụ văn học và tạo lập các văn bản
theo kiểu loại mà chơng trình yêu cầu.
Rất mong các em sử dụng sách có hiệu quả.
Các tác giả

2
Đề số 1
Đức tính trung thực


Bài làm
Không trung thực là một hiện tợng ta vẫn thờng gặp trong cuộc sống, nó đã và
đang diễn ra quanh ta, nhất là trong lớp trẻ. Nó trở thành một cách sống phổ biến. Vậy
trung thực là gì ?
Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải, sống ngay thẳng,
thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mắc khuyết điểm.
Ngời trung thực là ngời thật thà, ngay thẳng chân thành trong cách đối xử với
mọi ngời, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống, luôn tôn trọng và
bảo vệ chân lí, bảo vệ lẽ phải.
Do vậy, ngay từ tuổi ấu thơ, tuổi học trò, chúng ta cần đợc và tự bản thân xây
dắp, rèn luyện tính trung thực. Nhng đây đó vẫn còn nhiều hiện tợng học sinh thiếu
trung thực. Cứ nhìn vào các giờ kiểm tra, các kì thi cử, hay tự hỏi, mình đã một lần nói
dối bố mẹ, thầy cô giáo cha là rõ. ấy thế mà nhiều bạn còn rủ rê nhau, bao che cho
nhau.
Ngoài xã hội cũng vậy. Trong kinh doanh, trong công việc, trong chính trị họ vẫn
thờng lợi dụng lòng tin của mọi ngời để trục lợi cá nhân, lừa đảo kiếm tiền hay tham
nhũng, che giấu tội ác trớc pháp luật. Một dẫn chứng điểm hình dễ thấy nhất là trong
khi nhà nớc đang phải bồi thờng cho ngời dân mang gà đi tiêu huỷ thì tại Đông Anh -
Hà Nội các cán bộ đã khai khống lên đến hàng nghìn con gà, vịt các loại. Họ là những
cán bộ đại diện cho dân, cho nớc mà lại thiếu trung thực. Rồi gian lận thuế, ăn cắp bản
quyền, khai tăng thiệt hại hay thành tích, xử án gian lận, dối trên lừa dới... Không
trung thực chính là nguyên nhân, mầm mống của các tiêu cực xã hội, gây băng hoại
đạo đức, làm mất lòng tin, xói mòn đời sống tốt đẹp mọi ngời đang chung tay xây đắp.
Bởi vậy cần phải trung thực, không vì cái lợi trớc mắt mà bán rẻ lơng tâm. Nhất là
những ngời cầm quyền phải là ngời chí công vô t, cơng trực, thẳng thăn thì mới đa đất
nớc vững mạnh đi lên, tiến tới công bằng, dân chủ, văn minh. Rồi trong các mối quan
hệ hợp tác sản xuất kinh doanh, tính trung thực sẽ giúp có đợc lòng tin ở mọi ngời, từ
đó có uy tín trong sản phẩm. Thiếu trung thực sẽ gây ra hậu quả không thể lờng trớc đ-
ợc. Những tai biến xã hội từ nạn làm hàng giả hay ngộ độc thực phẩm, bằng cấp
giả...hẳn ai cũng thấy.

Tính trung thực cần đợc chú trọng giáo dục, rèn luyện ngay từ những ngày còn
cắp sách tới trờng mà điểm đầu rèn luyện là thành thực với chính bản thân mình. Bởi
vì, Phải thành thật với mình, có thể mới không dối trá với ngời khác (Uy-li-am Sếch-
xpia).
Trung thực là cốt lõi, xoay quanh nó còn nhiều đức tính khác mà quan trọng nhất
là thái độ thẳng thắn, tinh thần, hành động dũng cảm. Không có đức tính này, trung
thực chỉ nh của quý bị dấu kín. Thảng thắn, dũng cảm lại phải chân thành, khéo léo.
Nêu không trung thực - thẳng thắn - dũng cảm sẽ không có tác dụng hoặc bị hạn chế
tác dụng. Ta nên rút ra một điều : rèn luyện tu dỡng các tính tốt là rất cần nhng thể
hiện nó trong xử thế còn quan trọng hơn.
3
Chẳng hạn, không nhất thiết ta phải thể hiện rõ, đôi lúc ta cũng phải có ứng xử
khéo léo để tránh cho ngời khác nỗi đau đớn về một sự thật phũ phàng nào đó. Nói nh
vậy có nghĩa là ta không cần phải cứng nhắc, rập khuôn mà phải biết c xử sao cho hợp
lí, hợp tình.
Đức tính trung thực là điều mà con ngời, nhất là con ngời trong xã hội hiện đại
cần phải có, cần phải đợc rèn luyện. Vậy sao ta không rèn luyện nó ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trờng để khi ra đời ta sẽ xem nó là một trong những điều cần thiết
nhất để bớc vào cuộc sống hiện đại ngày nay.
Đề số 2
Lòng biết ơn thầy cô giáo
Bài làm
Không thầy đố mày làm nên, một triết lí dân gian đã đợc lu truyền từ bao đời
nay. Điều này cho chúng ta thấy ngời thầy có vai trò to lớn đối với con đờng học vấn
của mỗi học trò. Dẫu là học trò bán tự, nhất tự (có câu "nhất tự vi s, bán tự vi s" - một
chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy), huống hồ chi, chúng ta, trong đời ai chẳng là học
trò hơn một lần "nhất tự" hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm này. Nhng điều tôi muốn
nói đến ở đây là một mặt khác nữa của câu tục ngữ - Đó cũng là lời nhắn nhủ, khuyên
răn chúng ta phải nhớ ơn thầy cô.
Mỗi ngời có đợc công danh, sự nghiệp thành đạt đều nhờ công ơn dạy dỗ của

thầy cô. Những ngời chiến sĩ trong cuộc chiến sinh tử với giặc ngoại xâm, trong hành
trang tinh thần mang ra mặt trận cũng có lời thầy cô. Chúng ta, hẳn đã nhiều ngời đọc
nhật kí của anh Nguyễn Văn Thạc (Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản dới nhan đề
Mãi mãi tuổi hai mơi) học sinh trờng cấp 3 (THPT) Yên Hòa B - Từ Liêm, Hà Nội.
Trang nhật kí ngày 24/5/1972, ghi trớc khi anh hi sinh tại chiến trờng Quảng Trị hai
tháng, bảy ngày sau đó, ngời học trò này đã nhớ lời dạy thầy giáo cũ - thầy Lu, và nói
rằng, cho đến lúc này, anh mới hiểu hết lời dạy của thầy. Xin đợc trích đoạn nguyên
văn "Lòng tin tởng ở con ngời cũng chính là một nét riêng rất độc đáo của lòng nhân
đạo - Điều này thầy Lu đã nói rất nhiều lần với mình từ 3 năm trớc, từ hơn 2 năm trớc -
Nhng đến giờ mình mới hiểu một cách sâu xa và đầy đủ nhất". Ngời học trò Nguyễn
Văn Thạc hiểu và xác định đúng đắn lẽ sống của đời mình. "Có thể ngày mai, cuộc đời
sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho
cuộc dời một tâm hồn chính trực và cao cả - Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn trong cái
bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao th-
ợng, vơn lên trên tất cả những những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải,
mình phải sống nh vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn nh thế - Đây là mơ ớc,
là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm". Chính vì
thế ta không thể quên đợc công ơn của thầy cô.
Thầy cô giáo là ngời hớng dẫn, bồi dỡng, truyền đạt cho ta những kinh nghiệm
mà nhân loại đã tích luỹ trong suốt quá trình lịch sử lâu dài về khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và kinh nghiệm sống để mở rộng trí óc cho chúng ta. Thầy cô không chỉ
cho chúng ta tri thức mà còn rèn luyện cho chúng ta bài học làm ngời. Lúc còn bé thơ
4
thầy cô dạy ta từng chữ cái, từng con số, rồi theo năm tháng chúng ta dần lớn lên thầy
cô dạy ta những điều hiểu biết cao hơn, rộng hơn để giáo dục ta thành ngời có tri thức,
có đạo đức. Các thầy cô đã Vì lợi ích trăm năm trồng ngời, đào tạo chúng ta thành
những ngời hữu ích. Tại sao danh họa ý Lê-ô-na đơ Vanh xi (1452 - 1519) có thể trở
thành đỉnh cao của thời Phục hng và thế giới. Vì ông có ngời thầy là họa sĩ Vê-rô-ki-ô.
Thoạt đầu thầy bắt cậu bé học trò vẽ quả trứng gà mấy chục ngày liền. Bởi ông muốn
cho nhà họa sĩ thiên tài tơng lai biết "trong một nghìn cái trứng, không bao giờ có hai

cái hoàn toàn giống nhau...Do vậy nếu không cố công luyện tập thì không vẽ đúng đợc
đâu...Đó còn là cách luyện mắt cho tinh, luyện tay cho dẻo". Các thầy cô giáo là ngời
"mài sắt nên kim", công lao biết bao ! Thật đúng nh nhà thơ Bùi Đăng Sinh, hiện nay
đã là nhà giáo kì cựu, lúc còn ngồi trên ghế nhà trờng đã viết :
Đồi cao thắm sắc ti gôn
Trồng hoa thầy đã trồng luôn cả ngời
Các thầy, các cô đang làm một nghề cao quý nhất, nghề dạy học, nghề mà dân
tộc ta vốn rất coi trọng, quan tâm và biết ơn. Ông cha ta thờng nói :
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy
Vì học sinh thân yêu, các thầy giáo, cô giáo đã luôn luôn quan tâm đến sự tiến
bộ, vui sớng trớc sự trởng thành của chúng ta, trăn trở trớc thiếu sót mà chúng ta mắc
phải. Từ cái nôi là nhà trờng, tình cảm gắn bó giữa chúng ta và các thầy cô là một tình
cảm đặc biệt, sâu sắc. Tình cảm đó sẽ cùng đi suốt cuộc đời, động viên, nâng đỡ chúng
ta trởng thành. Mọi ngời chúng ta phải khắc ghi và biết ơn. Phải ghi nhớ trong lòng,
đạo thầy trò là một trong những đạo lớn, giữ cho xã hội lành mạnh, vững chắc. Lại xin
kể với các bạn một câu chuyện mà nhân vật học trò hiện vẫn đang sống và là một nhà
thơ nổi tiếng của chúng ta. Chuyện của nhà thơ Hoàng Cầm, thi sĩ yêu thơng của miền
Kinh Bắc, cái nôi của văn hóa Việt Nam. Nhà thơ đã làm cho con sông Đuống thành
dòng sông trữ tình, dòng sông thi ca. Năm học 1935 - 1936, Hoàng Cầm học với thầy
Hoàng Ngọc Phách, cũng là một nhà văn (tác giả Tố Tâm, thiên tiểu thuyết lãng mạn
vào loại mở đầu văn chơng lãng mạn). Ai ngờ sau đó ít lâu, lại lấy chị gái họ thầy giáo
mình. Một ngày tết ở thị xã Bắc Ninh, khi hai vợ chồng thi sĩ đi chúc tết họ hàng, vào
nhà thầy, theo tôn ti trật tự, thầy cứ một điều "tha bác", hai điều "tha bác". Vợ nhà thơ
cũng thản nhiên "cậu câu, tôi tôi" mặc dù kém đến trên 20 tuổi. Song Hoàng Cầm thì
không dám. Ông lễ phép xng "con", gọi "thầy". Về nhà, bà vợ phàn nàn :
- Sao mình lại xng "con" với cậu ấy ? Cậu ấy là em mình chứ !
Hoàng Cầm đã quả quyết trả lời :
- Anh phải tôn trọng cái điều có trớc. Trớc khi anh là chồng em, anh đã là học trò
của ông Phách từ lâu rồi. Ngời thầy giáo ấy đã có công lớn đào tạo đợc ra anh hôm nay

đấy em ạ !
Lòng biết ơn thầy cô là phải biết giữ đúng "Đạo". Nhng cao hơn, phải đợc thể
hiện bằng hành động cụ thể. Muốn vậy chúng ta phải học tập tốt, đạt nhiều thành tích
cao. Đây cũng chính là đạo lí làm ngời, là cách ứng xử của ngời có nhân cách. Đất nớc
ta có rất nhiều tấm gơng đáng để noi theo nh ngời học trò con vua Thủy Tề của thầy
Chu Văn An. Biết là trái mệnh Ngọc Hoàng, tất bị chết chém, nhng vẫn tuân theo lời
dạy bảo nhân nghĩa của thầy.
5
Bác Hồ từng dạy : Kẻ có tài mà không có đức là ngời vô dụng, ngời có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó. Nền tảng của con ngời vẫn là đạo đức, đạo đức
kết hợp với tài năng thì làm chuyện gì cũng thành công. Xã hội hiện đại ngày nay, vấn
đề đạo đức đang còn nhiều cái để quan tâm, đó là tình trạng học sinh vô lễ, vô ơn bạc
nghĩa với thầy cô. Thậm chí có hành vi lăng mạ, côn đồ. Tất cả đều bị chê trách, lên án
gay gắt.
Trong bối cảnh nh thế, thiết nghĩ, lòng biết ơn là món quà giá trị nhất, là bông
hoa tơi thắm nhất để các thế hệ học sinh dâng tặng thầy cô kính yêu. Đây không phải
chỉ là bổn phận và nghĩa vụ mà còn là thứ tình cảm cao quí, thiêng liêng, ở đâu, lúc
nào cũng cần gìn giữ, nêu cao.
Đề số 3
Xin mẹ hãy yên tâm
Bài làm
Con đã mời lăm tuổi rồi mẹ ơi, đã lớn khôn, con biết rằng mẹ rất lo lắng cho con
khi con đi đâu, nhng mẹ ơi, con biết mình phải làm gì khi không có bố mẹ ở bên và
xin mẹ hãy yên tâm về con.
Tôi có một ngời mẹ tuyệt vời, mẹ rất khéo tay, mẹ nấu ăn cũng khá ngon. Nhng
tôi không đợc lấy một phần của mẹ. Con gái lớn rồi mà tôi rất vụng về, trớc khi làm
việc gì mẹ cũng dặn tôi cặn kẽ. Lúc nào mẹ cũng lo lắng vì ở cái tuổi đang phát triển,
cái tuổi dậy thì, mẹ sợ sức khoẻ bị giảm sút, tình cảm chông chênh, suy nghĩ cha chín
chắn ảnh hởng tới học tập. Rồi mẹ sợ, đời sống phát triển, càng ngày phơng tiện giao
thông càng tấp nập, đẽ bị tai nạn. Mẹ không yên tâm, dạo đầu, mỗi khi phải đi học xa,

tôi đạp xe đi trớc, mẹ xe máy theo sau. Lâu dần, tôi thạo đờng mẹ không kèm tôi nữa,
nhng tranh thủ, mẹ vẫn thờng ghé vào chỗ tôi học. Có những hôm tôi học về khuya,
mẹ lo không ngủ đợc, ngồi ở ghế chờ tới khi tôi về nhà mới im lặng ngả lng. Nhng con
ngời tôi quá vô tâm, về nhà một cái, chào mẹ là chạy tót lên tầng, tôi cũng chẳng để ý
tâm trạng mẹ nh thế nào. Cứ thế ! Lại có lần mẹ nói gì đó, khi tôi đang làm bài tập khó
quá, hình nh mẹ hỏi chìa khoá để ở đâu. Tôi gắt lên với mẹ "mẹ tìm đi sao cứ hỏi con
nhiều thế !". Mẹ không nói gì, thui thủi một mình đi xuống nhà. Thực ra tôi cũng biết
làm mọi việc, chỉ không cẩn thận đợc nh mẹ thôi. Cái chính là có mẹ làm hết nên tôi ỷ
lại, đâm ra lời.
Còn nhớ, tháng trớc, hôm sinh nhật cái Hảo, bạn thân của tôi, Tôi xin đi, mẹ
đồng ý, trớc khi đi mẹ dặn tôi nào là về sớm, nào là đi đờng cẩn thận, không đợc la cà.
Tiệc sinh nhật thật vui, nhng nhớ lời mẹ dặn, tôi đã xin phép ra về . Ai ngờ, giữa đờng
xe bị thủng xăm, dắt bộ một quãng mới có hiệu sửa xe. Về đến nhà đã khoảng 10
h
15,
mồ hôi nhễ nhại, tôi vào nhà, không thấy mẹ chờ tôi nh mọi khi. Chắc mẹ giận, tôi mở
cửa rồi lẳng lặng lên phòng nh mọi khi, cũng sợ mẹ mắng. Nhng rồi mẹ gọi xuống,
dặn ngày mai giúp mẹ làm bữa sáng cho cả nhà vì mẹ cảm thấy khó chịu trong ngời.
Mặt tôi xị ngay ra. Mẹ liền bảo "nếu con cảm thấy không làm đợc thì thôi. Tôi không
nói một lời nào. Đêm ấy tôi chẳng ngủ đợc, sao mẹ không trách, chắc mẹ không thơng
mình nữa vì mình không về đúng giờ, không chăm sóc mẹ lúc ốm đau. Tôi nhớ có hôm
bác Hiền gần nhà sang chơi kể chuyện bác ốm chị An chăm sóc rất chu đáo mẹ nghe,
6
nét mặt buồn buồn. Nhng mẹ không nói ra chắc mẹ giữ thể diện cho tôi. Nghĩ thế, tôi
thấy hối hận. Tôi quyết định dậy sớm làm bữa sáng để chuộc lỗi với mẹ. Đêm nay đối
với tôi dài dằng dặc nh một năm đã trôi qua. Sáng tôi cố dậy thật sớm để giúp mẹ, tôi
sững sờ cả ngời thấy mẹ đã làm xong, tôi trách mẹ sao mẹ không để cho con làm. Mẹ
lại bảo, vẫn nh những lần trớc : Con thì biết làm gì.
Nhng tôi muốn chứng minh cho mẹ thấy tôi có thể làm đợc. Ngay buổi sáng hôm
đó, đi học về sớm, tôi đã nấu bữa tra với một sự cố gắng cật lực. Khi mẹ về cơm nớc

nấu xong, có điều cái bếp thành một bãi chiến trờng. Không ngờ, mẹ ôm tôi và khóc :
con gái mẹ đã lớn thật rồi. Thế rồi, hai mẹ con tôi vừa dọn dẹp vừa nói chuyện. Tôi hỏi
mẹ có giận tôi không, mẹ chỉ cời, bảo : sao mẹ lại giận con đợc chứ. Tôi hỏi, con làm
gì cũng sai mà mẹ chẳng trách móc. Mẹ nói : mẹ biết con sẽ biết lỗi và sửa chữa, vì mẹ
sinh ra con mà. Rơm rớm nớc mắt, tôi cố hỏi thêm. Tại sao khi con gắt mẹ, mẹ không
nói gì. Mẹ giải thích vì ở tuổi tôi tính khí thất thờng, ở tuổi này con ngời hay phạm
phải những sai lầm không trách đợc. Tôi oà lên khóc, mẹ ôi sao mẹ tốt với con vậy, mẹ
bảo vì mẹ là mẹ của con. Tôi ôm chầm lấy mẹ, mẹ lau nớc mắt cho tôi, tôi nói lí nhí :
Mẹ ơi ! Xin mẹ hãy yên tâm, con sẽ làm tất cả để bù đắp lại những gì mẹ đã lo lắng
cho con. Mẹ là tất cả của con, là cuộc sống của con, con sẽ cố gắng học tập tốt để
xứng đáng là đứa con ngoan của mẹ. Mẹ đã giúp con tỉnh giấc, cảm nhận đợc giá trị
của gia đình và tình mẹ, cảm ơn mẹ nhé.
Dù ở đâu hay ở nơi nào con vẫn là con mẹ, nếu ai còn diễm phúc có mẹ ở bên
chăm sóc, hãy dành một chút thời gian quý báu của mình cho mẹ, để sau này không
phải hối hận. Mẹ ơi mẹ hãy yên tâm, mẹ hãy giữ gìn sức khoẻ, mẹ không phải lo lắng
cho con nữa vì con đã lớn rồi.
Đề số 4
Cảm nghĩ khi đọc
Phò giá về kinh của Trần Quang Khải
Bài làm
Hào khí Đông A (chiết tự chữ Trần viết theo Hán tự) khởi phát bởi chiến thắng
đế quốc Nguyên - Mông lần thứ nhất - 1258 đã đợc khẳng định rực rỡ, hùng hồn bằng
các chiến công vang dội trong hai lần đại thắng 1285, 1287 sau đó. Con cháu của
những Ngời lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong đã làm cho kẻ xâm lợc
hãi hùng ngay cả khi chúng yên ổn về nớc - Nghe tiếng trống đồng mà tóc trên đầu
bạc trắng (Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh). Đó là sức mạnh toàn diện của dân
tộc dới thời nhà Trần trên cơ sở ý thức tự cờng, tự chủ.
Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu nớc đợc biểu hiện
một cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trớc khi lâm trận,
7

bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau đến những tứ tuyệt, những ngũ ngôn 4
câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến.
Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một trong những bài nh thế.
Cuối năm 1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nớc ta lần
thứ hai. Tình thế đất nớc hiểm nghèo, các vua Trần phải dời kinh đô tìm phơng kế
chống đỡ. Nhng chỉ qua mùa xuân năm 1285, quân ta đã chuyển thế tấn công. Tháng t,
trong trận đánh tại Hàm Tử, một địa điểm trên sông Hồng tại huyện Khoái Châu (tỉnh
Hng Yên ngày nay) tớng Trần Nhật Duật đã phá tan đạo quân Thát Đát, bắt sống giặc
Ô Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngô sau này Nguyễn Trãi nhầm sự việc nên viết Cửa
Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tơi Ô Mã). Tháng 6, Trần Quang Khải
thắng tiếp trận Chơng Dơng, đuổi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan chạy dài lên phía
bắc, giải phóng Thăng Long, rớc vua Trần trở lại kinh thành. Trong không khí ấy, ông
ngẫu hứng cao độ làm nên Tụng giá hoàn kinh s (Phò xa giá nhà vua về lại kinh đô)
danh bất h truyền. Cùng khoảng thời gian này, vua Trần khi đến tế ở nhà Thái miếu
cũng ứng khẩu hai câu : "Xã tắc lỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu".
Nghĩa là "Đất nớc hai phen bon ngựa đá /Non sông nghìn thủa vững âu vàng", cùng
một mạch cảm hứng yêu nớc, tự hào dân tộc.
Bài thơ chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại
hai chiến công hiển hách vừa mới đó, đang còn tơi nguyên không khí chiến thắng. Có
nét đặc biệt là trình tự các chiến công không đợc nêu theo diễn biến thời gian trớc sau.
Chiến thắng Chơng Dơng trớc, Hàm Tử sau. Cách trình bày nh thế là theo cái lô-gíc
của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính nhờ chiến thắng Chơng
Dơng mà Thoát Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long đợc giải phóng. Chính nhờ chiến
tháng Chơng Dơng mà có cái không khí rạo rực phấn chấn trong ngày về lại thủ đô
này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mời chữ, nêu hai sự việc là cớp giáo giặc và bắt
quân thù. Song qua hai hình ảnh này ngời đọc cảm nhận đợc niềm phấn chấn, hân
hoan. Đúng là câu thơ đăng đối bên ngoài đanh chắc, bên trong chứa chan xúc cảm.
Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự cô đúc này tạo ra một thế năng, khả năng khơi gợi ngời
đọc suy ngẫm. Một trong những đặc trng thẩm mĩ của thi pháp cổ là gợi, ít chú trọng
kể, tả.

8
Hai câu thơ sau là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của giang
sơn, đất nớc.
Nguyên văn :
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Vẫn trình bày theo lối ngũ ngôn nh trớc nhng lại đặt ra một nhiệm vụ, một yêu
cầu hoàn toàn mới. Thông thờng, sau chiến thắng ngời ta dễ thoả mãn, dễ say sa với
vinh quang, bỏ lỡ một khoảng thời gian cần thiết chuẩn bị cho tơng lai. Trần Quang
Khải đã có nhận thức hoàn toàn đúng và đặt vấn đề một cách kịp thời về những công
việc thời hậu chiến. Ông hiểu rằng những công việc của một đất nớc sau chiến tranh là
hết sức bộn bề. Thái độ và hành động ở thời kì thái bình rất cần phải tập trung là tu trí
lực. Tu là học tập, bồiđắp, trí lực là trí tuệ, khả năng. ý thơ vẫn tiếp tục gợi cho
ngời đọc hiểu thêm rằng, đất nớc vẫn đang đòi hỏi, còn yêu cầu những con ngời chiến
thắng này nhiều cống hiến hơn nữa. Có nh vậy mới có sự yên bình, vững chãi muôn
năm. Một ý thơ đầy tinh thần trách nhiệm.
Bài thơ có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trớc những chiến thắng, những chiến
công. Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào khí
Đông A thủa ấy. Nhng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng suốt của
con ngời ý thức đợc giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác phù hợp với phong
cách ngôn ngữ, uy thế của vị tớng quốc đầu triều.
Kết cấu chặt chẽ, có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi mở ý
tởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngôn riêng
biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh.
Cho đến hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên
giá trị thời sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về ý thức, trách nhiệm xây dựng
đất nớc vững mạnh sau chiển tranh.
Đề số 5
Cảm nghĩ về vẻ đẹp con ngời
qua truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.

Bài làm
Mỗi một nhà văn đều có cảm hứng sáng tác riêng của mình. Nam Cao cũng vậy,
ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn lấy cảm hứng sáng tác từ những ngời nông
9
dân trong xã hội cũ, ca ngợi vẻ đẹp nội tâm tiềm tàng của họ. Truyện ngắn Lão Hạc là
một tiêu biểu trong số đó.
Vẻ đẹp của những ngời nông dân nghèo khổ đợc nhà văn thể hiện một cách
khách qua, sâu sắc và truyền cảm qua bức chân dung của Lão Hạc. Trớc hết vẻ đẹp ấy
bộc lộ ở lối sống tình nghĩa. Lão rất thơng cậu vàng - tên thân mật lão đặt cho con
chó vàng. Đó là kỉ niệm về đứa con trai. Một trận ốm đã khiến cho cuộc sống của lão
càng túng bấn, cơm lão ăn mỗi bữa cũng chẳng đủ no nói gì tới việc nuôi thêm con
vàng. Cuối cùng lão phải quyết định bán, mặc dù con vàng đã gắn bó với lão trong
những ngày lão cô đơn nhất. Có điều lão đã băn khoăn day dứt nhiều lần. Khi sang nhà
ông giáo kể về việc bán chó, lão cố tỏ rõ sự vui vẻ, nhng lão "cời mà nh mếu, đôi mắt
ầng ậng nớc, mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nớc
mắt chảy ra, cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu nh con
nít, lão hu hu khóc". Lão tự trách mình bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con
chó.
Cách một con ngời, nhất là ngời nghèo khổ đối xử với một con vật là sự thể hiện
nhân cách rõ ràng nhất, bản chất nhất. Chỉ ai sống bằng tình nghĩa, mới biết gắn bó, tri
ân dẫu là với một con vật. Chỉ ai cao thợng mới biết xấu hổ, ân hận trớc hành vi mà
mình coi là phản trắc trớc một con vật.
Vẻ đẹp có sức mạnh nhất trong con ngời là tình thơng yêu, đức hi sinh cao cả.
Bao trùm tính cách lão Hạc chính là tấm lòng, đứ tính này. Thơng con, lão cố gắng
dành dụm tiền cho con cới vợ, cố giữ lấy mảnh vờn cho con, dù cuộc sống có khó
khăn, khổ sở thế nào. Lão cố gắng thu vén sao cho không phiền đến ngời khác. Lão
gửi ông giáo ba mơi đồng bạc phòng khi lão chết có tiền làm ma. Lòng tự trọng đã
không cho phép lão nhận sự giúp đỡ giấu giếm của ông giáo. Đó là phẩm chất kiên c-
ờng của ngời nông dân nghèo khổ.
Nhng đau đớn thay, chính những phẩm chất lớn lao này đã dẫn lão đến với cái

chết. Lão Hạc chủ động chọn cái chết, nghĩa là lão đã hành động quyết liệt nhất, xả
thân để bảo vệ vẻ đẹp con ngời, vẻ đẹp làm ngời.
Trong truyện ngắn Lão Hạc, hình ảnh ông giáo cũng ngời sáng. Ông giáo đại
diện tiêu biểu cho tình yêu thơng, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con ngời và
cũng chính là một vẻ đẹp. Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá ngời ta nghi
ngờ nhau, không thể đến đợc với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau.
Vẻ đẹp con ngời trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao đợc xây dựng trên
cảnh nghèo khó của ngời nông dân trong xã hội cũ. Nhng đó là vẻ đẹp của con ngời
Việt Nam, nên dẫu thời "đói nghèo trong rơm rạ, văn chiêu hồn từng thấm giọt ma rơi"
(Chế Lan Viên) này đã qua đi lâu rồi, vẻ đẹp ấy vẫn lung linh ánh sáng và đầy sức lay
động.
Đề số 6
Quê hơng trong thơ Tế Hanh
Bài làm
10
Quê hơng trong xa cách là nguồn đề tài vô tận, là cả một dòng cảm xúc dạt dào,
lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã
nuôi dỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những
vần thơ tha thiết, lai láng nh : Nhớ con sông quê hơng, Quê hơng, Trở lại con
sông quê hơng. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung - Quãng Ngãi, một vùng
đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc,
ông rời xa quê hơng từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác
phẩm, chủ yếu là về quê hơng, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một
vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có nói con sông quê
mà ông gắn bó :
Quê hơng tôi có con sông xanh biếc
Nớc gơng trong soi tóc những hàng tre
Xa quê, xa cả con sông. Có thể nói đó là nỗi đau của ông.
Qua những kỉ niệm, hồi tởng về con sông trong nỗi nhớ con sông quê hơng, Tế
Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hơng tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hơng

thân thiết, ruột rà.
- Làng tôi ở vốn nghề chài lới
Nớc bao vây cách biển nửa ngày sông
- Quê hơng tôi có con sông xanh biếc
Nớc gơng trong soi tóc những hàng tre
Thế đấy, quê hơng trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu nh vậy. Còn ngời
dân quê thì mạnh mẽ, tinh tế, sống động :
Dân chài lới làn da ngăm dám nắng
Có thân hình nồng thở vị xa xăm
Chỉ có ai là con ngời của sông nớc, vạn chài mới có thể tạo đợc hình ảnh ngời
dân chài giữa đất trời lồng lộng gió với đủ hình khối, màu sắc và hơng vị. Chất muối
mặn nồng ngấm vào thân hình ngời dân quê hơng cũng nh ngấm sâu vào làn da, thớ
thịt vào tận tâm hồn thơ Tế Hanh. Bằng giọng thơ giãi bày, phơi trải, ông đã kể về kỉ
niệm tuổi thơ tơi đẹp :
Khi mặt nớc chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy...
Tôi đa tay ôm nớc vào lòng
Sông mở nớc ôm tôi vào dạ
Cao hơn, trong xa cách, nhng với sức mạnh của tình quê, không chỉ có hình ảnh
đặc trng của quê hơng "Màu nớc xanh, cá bạc cánh buồm vôi / Thoảng con thuyền rẽ
sóng chạy ra khơi" hiện ra mà nhà thơ còn cảm nhận đợc cả mùi vị quê :
Nay xa cách lòng tôi luôn tởng nhớ
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Quê hơng Tế Hanh là một làng chài nghèo, ngời dân sống cần cù, khó nhọc, thế
nhng khi nhớ về quê, ông lại chỉ thấy vẻ đẹp tơi sáng. Phải chăng đó là nhờ làng quê
ấy có con sông êm đềm, tuơi tắn, lại gần biển tự do, phóng khoáng và nhất là nhờ trái
tim tuổi trẻ khoẻ khoắn ? Mặt khác, cùng tình cảm đằm thắm, kỉ niệm sâu lắng, đẹp
đẽ, lời kể theo lối giãi bày, thủ thỉ chân thật và khả năng miêu tả những cảm giác bên
11
trong chân thành, mộc mạc, nên ở thơ Tế Hanh, con sông trở thành một hình tợng

thẩm mĩ, gợi cảm, đầy chất trữ tình.
Đối với Tế Hanh, quê hơng luôn là bông hoa đẹp nhất trong vờn hoa. Ca dao, dân
ca dờng nh cũng đã ngấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh. Dù ở phơng trời nào lòng ông vẫn
nhớ quê hơng, nó luôn dạt dào, cháy bỏng trong ông khiến nhà thơ thấy đợc hình ảnh
quê hơng liên tục hiện ra. Quê hơng chính là sức sống của ông, ở một khía cạnh nào
đó, ta lại thấy tình yêu quê hơng của Tế Hanh rất đa chiều và phức tạp. Lúc da diết,
ngập tràn với Nhớ con sông quê hơng, nhng lúc khác lại cho ngời đọc thấy một hồn
thơ trẻ trung phơi phới của Quê hơng. Nhng dù ở góc độ, khía cạnh nào thì nó đều ẩn
chứa một tình yêu, nỗi khát khao đoàn tụ, bày tỏ khát vọng gặp gỡ cụ thể. Không nh
thơ Huy Cận, Lu Trọng L đầy chất mộng ảo, không nh thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
hun hút sầu thơng, thơ Tế Hanh trong sáng, khoẻ mạnh, đắm đuối rất thực. Bởi ông có
một vùng quê bằng xơng, bằng thịt, mà ông luôn dõi theo bằng đôi mắt rất thực, bằng
trái tim có địa chỉ rõ ràng.
Suốt nửa đời ngời, do thời thế, Tế Hanh phải xa quê, khi trở lại
sau mùa hè đại thắng, thống nhất đất nớc - 1975, con sông và làng quê đã đổi thay
nhiều :
Tôi nhìn sông bên lở bên bồi
Tre tha thớt ngập tràn lau cỏ
Trong ánh sáng ngả nghiêng theo chiều gió
Thuyền máy dọc ngang tỏ trắng lòng sông
Nhà dân chài giăng những lới ni lông
Màu xanh đỏ ngời ngời ánh nớc
Kìa bãi sú nơi sáu năm về trớc
Giặc Mĩ bao vây sát hai mốt trung đội dàn quân
Cây mù u không còn ngả bóng bên cồn
Cây xanh trớc đình thân chỉ còn một nửa
Tác giả thật sự ngỡ ngàng :
Tôi đi học bờ sông bỡ ngỡ
Quên cả khúc quanh rẽ lối vào nhà
Quê hơng đẹp đẽ thơ mộng trong tâm trí tác giả nay trần trụi những vết thơng

chiến tranh, vết thơng do chia cắt đất nớc. Tác giả vừa vui vừa đau buồn một nỗi "hồi
hơng".
Trở về, gặp lại, tuổi cũng đã cao, quê hơng thì đổi thay nh thế, nên sau này, dẫu quê
nhà vẫn mến yêu, thổn thức trong trái tim nhà thơ, nhng thơ về quê hơng của Tế Hanh
thì đã khác. Không còn cái sức hấp dẫn của vẻ đẹp trai tráng. Cho nên, có thể nói, ng-
ời ta chỉ còn nhớ đến những bài thơ về quê hơng, con sông quê của ông mấy mơi năm
về trớc. Dù sao thế cũng là quá đủ với một đời thơ.
Có thể nói những bài thơ về quê hơng trớc và hai mơi năm sau Cách mạng
Tháng Tám của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về con
sông hiền hòa đã tắm cả đời tôi, về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ ông.
Mỗi chúng ta một lần nữa vui mừng khi đợc giao tiếp với một hồn thơ khoẻ mạnh,
trong sáng song lại rất đỗi bình dị mà sâu sắc. Nó không hề làm nặng đầu ta với những
bóng dáng siêu hình hay những vô thức u minh, nó chấp cánh mộng mơ, bồi đắp cho
12
mỗi chúng ta tình yêu quê hơng thắm thiết, là điểm trở về bình yên của ta trong cuộc
đời nhiều bơn trải, cũng là sự thôi thúc ta vơn lên.
Đề số 7
Hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây
Bài làm
Đoạn trích "Chiến thắng Mtao-Mxây" không khép lại bằng cái chết mà là sự tng
bừng của chiến thắng, sự lớn mạnh của một cộng đồng và uy danh vang dội của ngời
anh hùng Đăm Săn. Ngời anh hùng sử thi là trọng tâm miêu tả của bức tranh hoành
tráng. Tầm vóc lẫn chiến công của chàng trùm lên toàn bộ chiến công, toàn bộ thiên
nhiên và xã hội Ê- đê.
Trong quan niệm của ngời dân tộc Ê-đê, cuộc chiến từng đóng vai trò là bà đỡ
lịch sử khiến cho cộng đồng ngày càng phát triển, ngày càng có cuộc sống ấm no,
thịnh vợng. Trong sự phát triển ấy, ngời anh hùng có vị trí hết sức lớn lao tầm cỡ. Sau
mỗi chiến công của ngời anh hùng là một lễ ăn mừng hoành tráng của cộng đồng để
suy tôn, ca ngợi cũng nh thể hiện niềm vui về sự no đủ, đông đúc mỗi ngày.
Sau chiến thắng oanh liệt trớc tù trởng Mtao-Mxây, Đăm Săn đã trở thành ngời

anh hùng giàu có, hùng mạnh nhất. Tôi tớ theo về đặc nh bầy cà tong, của cải đa về
nhiều nh ong đi chuyển nớc. Tràn ngập trong niềm vui, Đăm Săn đã cho toàn bộ tộc
ăn mừng chiến thắng. Tiếng tuyên bố mở hội dõng dạc vang vọng của chàng khiến cho
khắp rừng núi âm vang trong không khí háo hức. Cả cộng đồng ngời Ê-đê và ngừơi Ê-
ga đợc tái hiện sinh động đầy sức sống. Và sừng sững trong xã hội ấy, là nét đẹp vừa
hoành tráng, vừa lãng mạn của ngời anh hùng Đăm Săn.
Nét đẹp đợc ghi nhận trớc tiệc của Đăm Săn trong lễ ăn mừng chính kà nét đẹp
về ngoại hình và sức mạnh.
Chàng đợc miêu tả với vẻ đẹp và sức mạnh của một vị thần. Ngời Ê-đê, Ê-ga ca
ngợi Đăm Săn là một dũng tớng chắc chết mời mơi cũng không lùi bớc. "Mình quấn
chéo một tấm mền chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghêng ngang đủ giáo gơm, đôi mắt
long lanh nh chim, bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống
13
bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì
gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc". Bằng nghệ thuật miêu tả, so sánh gần
gũi, cụ thể với nhiều chi tiết hết sức sinh động, kết hợp với nghệ thuật ttì hoãn sử thi
và cách nói phóng đại sử thi, ngời dân Tây Nguyên đã biến ngời anh hùng của họ
thành một vị thần với tất cả sức mạnh hội tụ từ núi rừng, vũ trụ. Sức mạnh của chàng đ-
ợc so sánh với những gì mạnh nhất, đẹp nhất của thiên nhiên. Vốn ngang tàng từ trong
bụng mẹ, trải qua bao cuộc chiến, Đăm Săn đã lớn lên và trở thành chiến thần. Chàng
có tất cả vẻ đẹp cũng nh sức mạnh của thần linh qua trí tởng tợng bay bổng kì diệu và
lòng mến yêu vô hạn của ngời Tây Nguyên. Không chỉ có sức mạnh dũng mãnh chàng
còn có vẻ đẹp lãng mạn : chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dới
đất là một cái nong hoa, đầu đội khăn nhiễu, vai mang mũ hoa, chàng ăn không biết no,
uống không biết say, trò chuyện không biết chán. Toát lên từ câu chữ một chàng Đăm
Săn hoà đồng vui vẻ. Không hề phân biệt địa vị cao thấp giàu hèn. Đăm Săn là biểu t-
ợng cho hài hoà giữa cái đẹp dữ dội của núi rừng, vũ trụ với cái đẹp êm ả lãng mạn của
tâm hồn ngời Tây Nguyên. Cái đẹp ấy vừa có sự cao cả, kì vĩ của ngời anh hùng lại vừa
có nét kì diệu, đậm đà bản sắc Tây Nguyên.
Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sức mạnh và hình thể, Đăm Săn còn hiện lên

trong lễ ăn mừng, ở vẻ đẹp của lòng tôn kính tổ tiên, thần linh, lòng hiếu khách, một
tâm hồn thuỷ chung, phóng khoáng rộng rãi.
Sau chiến thắng, Đăm Săn không quên sai tôi tớ làm lễ cảm tạ tổ tiên và thần
linh đã giúp cho chàng chiến thắng, đã giúp bộ tộc của chàng ngày một vững mạnh
giàu có. "ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rợu bắt trâu, rợu năm ché, trâu bảy con để
dâng thần, rợu bảy ché, lợn thiến bảy con cầu cho ta đợc bình yên vô sự, nạn khỏi tai
qua, lớn lên nh sông nớc, cao lên nh cây rừng, không còn ai bì kịp. Cách Đăm Săn sai
tôi tớ sắm đồ lễ cúng tế chứng tỏ lòng thành kính sâu sắc với thần linh, tổ tiên của
chàng. Nó cũng chính là tiếng nói tín ngỡng của cả cộng đồng dân tộc Ê đê.
Sau khi làm lễ tạ khấn thần linh, tổ tiên Đăm Săn đã mời tất cả anh em, bạn bè,
tôi tớ ăn uống : hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta,
chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới. Tiếng mời chào sang sảng nh chính tấm lòng
14
hào hiệp của chàng Đăm Săn. Chàng đã thiết đãi bạn bè, dân làng bằng những vật chất
đầy đủ sang trọng, bằng niềm vui thân ái, khiến cho cả một vùng nhão ra nh nớc vui
tới mức lơn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mai đều chui lên nằm trên cao sởi
nắng, ếch nhái dới gầm nhà, kì nhông ngoài bãi thì kêu inh ỏi suốt ngày đêm. Bạn bè
của chàng đông đúc : Các cô gái đi lại vú đụng vú, các chàng trai đi lại ngực đụng
ngực. Không khí ăn mừng nh thế này bây giờ mới có. Bởi bây giờ ngời Ê đê mới có
ngời thủ lĩnh anh hùng dũng cảm, hào hiệp đến thế. Đó chính là niềm tự hào sâu sắc
của ngời dân Ê đê về vị tù trởng Đăm Săn.
Cách xây dựng hình tợng đẹp đẽ lớn lao của ngời anh hùng trong không khí
đông vui nhộn nhịp, lớn mạnh của cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của sử thi Tây
Nguyên. Ngời anh hùng sử thi đợc toàn thể cộng đồng suy tôn tuyệt đối. Qua ngời anh
hùng ta thấy đợc sự phát triển, ý chí thống nhất của toàn thể cộng đồng Ê đê - một biểu
hiện quan trọng của ý thức dân tộc.
Đề số 8
Từ bi kịch mất nớc đến bi kịch tình yêu qua truyền thuyết An Dơng Vơng
và Mị Châu Trọng Thuỷ
Bài làm

Tôi kể ngày xa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
(Tố Hữu)
Bốn câu thơ lại gợi nhắc ta xót xa nhớ về câu chuyện dân gian An Dơng Vơng
và Mị Châu - Trọng Thuỷ với hình ảnh một vị vua tài giỏi trong buổi đầu dựng nớc đã
đánh tan các cuộc xâm lăng hung bạo của kẻ thù nhng cuối cùng lại thất bại mội cách
đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho giang sơn xã tắc tuột khỏi tầm tay, làm
nên một bài học kinh nghiệm xơng máu khó có thể nào quên.
15
Đọc "An Dơng Vơng và Mị Châu Trọng Thuỷ ta thật khó giấu nổi niềm xót
xa trớc bi kịch mất nớc Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu.
Trong truyền thuyết dân gian, An Dơng Vơng xuất hiện nh một vị vua toàn tài,
luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ
của thần Kim Qui, ngài đã xây đợc Loa thành vững chắc và chế đợc nỏ thần một vũ
khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc.
Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lợc phơng Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên
quân Đà thua lớn, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con
trai mình với con gái An Dơng Vơng. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị
Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để
tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu - một ngời con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật
giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho
Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với
lí do tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ và nói dối
Mị Châu về phơng Bắc thăm cha. Triều Đà đợc lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh.
Vua An Dơng Vơng không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành
vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cời mà nói rằng Đà không sợ nỏ thần sao ? . Cho đến
khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không
còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về

phơng Nam. Thế là theo lời giao ớc, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đ-
ờng cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đờng cùng, vua bèn kêu rằng "Trời hại ta,
sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu. Rùa vàng nổi lên mặt nớc, thét lớn "kẻ nào
ngồi sau ngơi chính là giặc, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nớc
dẫn vua xuống biển.
Vì sao một con ngời tài trí nh vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong
phút chốc ? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có đợc nỏ thần ? Đúng
nh vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dơng Vơng đã đánh thắng
quân giặc nhng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh
16
giác trớc những mu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời
cầu hôn của Triệu Đà.
Nớc mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không
hiểu hết đợc tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ
dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã
thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho
hắn bí mật quốc gia.
Nỗi đau mất nớc ấy quả thật là quá lớn. Nhng ta lại càng đau xót trớc tình yêu
chân thành của nàng công chúa phơng Nam.
Mị Châu có tất cả phẩm chất tốt đẹp của ngời phụ nữ truyền thống, nhng cũng từ
những phẩm chất ấy, do mù quáng, nàng đã hại cha, hại dân, hại nớc. Trớc sau nàng
chỉ nghĩ đến Trọng Thuỷ và hạnh phúc của nàng. Nàng một lòng tin tởng và yêu thơng
chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu vô cùng chân thành và tha thiết. ấy thế
mà Trọng Thuỷ - con ngời bội bạc kia đã nỡ tâm chà đạp lên tình yêu đó. Hắn cới nàng
làm vợ chỉ vì mục đích lợi dụng để xâm lợc Âu Lạc. Nhng vì sao Mị Châu quá mê
muội ? Sao nàng lại có thể bỏ qua những câu nói lạ lùng, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng
Thuỷ trong lúc hai ngời chia tay : "Ta nay trở về thăm cha, nếu nh đến lúc hai nớc thất
hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu ?. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ
nh một gợi nhắc, cảnh báo trớc chuyện gì sẽ đến với đất nớc nàng, Nhng nàng lại thật
thà đáp lại : Thiếp thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đớn đau khôn xiết. Thiếp

có áo gấm lông ngỗng thờng mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đ-
ờng để làm dấu, nh vậy có thể cứu đợc nhau
Và chính cái dấu lông ngỗng của nàng đã đẩy hai cha con vào bớc đờng cùng.
Tại sao trong cái giây phút nguy hiểm ấy, quân Đà đang tiến đánh cha mình mà nàng
vẫn còn cả tin đến mê muội, đem rắc lông ngỗng trên đờng đi làm dấu hiệu báo cho
giặc để rồi cuối cùng nàng nhận đợc từ cha một cái chết đau đớn tột cùng, một cái chết
chất chứa bao niềm căm hận, tủi cực, một cái chết cùng bao điều thức tỉnh muộn màng
từ cả cha nàng và nàng. Liệu Mị Châu có đáng phải chịu hình phạt ấy không ? Thật
17
khó khăn và đau xót cho vua An Dơng Vơng vì nhát kiếm chém con ấy là ranh giới
giữa tình yêu nớc mãnh liệt và tình yêu con tha thiết.
Nhng tất cả đều đã muộn. Cảnh quốc phá gia vong, cơ nghiệp lớn lao phút
chốc chỉ còn mây khói đâu chỉ do mình sự mê muội của Mị Châu mà còn do sự chủ
quan khinh địch, mất cảnh giác của chính nhà vua nữa.
Vậy ngời xa muốn nói gì cho thế hệ đời sau qua truyền thuyết An Dơng Vơng
và Mị Châu - Trọng Thuỷ ? Phải chăng chỉ là lời kể suông về câu chuyện mất nớc của
vua An Dơng Vơng ? Không, truyền thuyết ấy chính là một bài học kinh nghiệm lớn
lao trong việc bảo vệ quyền độc lập tự chủ của dân tộc. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta
phải luôn cảnh giác cao trớc mọi thế lực thù địch để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Chuyện cũng là bài học sâu sắc cho những ngời đang yêu và sẽ yêu. Hãy đừng vì quá
yêu mà trở nên mê muội, mù quáng để rồi dẫn đến sự lợi dụng, dối trá trong tình yêu.
Hãy luôn sống chân thành với trái tim mình, dành cho nhau tình cảm xuất phát từ đáy
lòng. Đừng bao giờ chà đạp lên tình yêu của ngời khác nh Trọng Thuỷ một con ng-
ời mu mô, tham vọng không biết tôn trọng giá trị đích thực và vĩnh hằng trong cuộc
sống.
Ngời xa đã sáng tạo nên truyền thuyết lịch sử đầy cảm động, xót xa. Truyện An
Dơng Vơng và Mị Châu - Trọng Thuỷ vẫn mãi là một câu chuyện, một bài học lớn lao
về bi kịch mất nớc và bi kịch tình yêu đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyền thuyết ấy
sẽ còn tiếp tục đợc kể cho muôn thế hệ con cháu đời sau để cùng nhau khắc cốt, ghi
tâm, lời căn dặn cảnh giác trớc kẻ thù để bảo vệ quê hơng đất nớc, bảo vệ quyền độc

lập thiêng liêng và hạnh phúc của mỗi gia đình
Đề số 9
Phân tích ý nghĩa hình ảnh ngọc trai giếng n ớc trong Truyện An Dơng
Vơng và Mị Châu Trọng Thuỷ
Bài làm
Truyện An Dơng Vơng và Mị Châu, Trọng Thuỷ kết thúc với sự thất bại của Âu
Lạc, An Dơng Vơng đi vào lòng biển, Mị Châu, Trọng Thuỷ phải chết. Tuy kết thúc có
18
phần đau đớn song câu chuyện không vì thế mà quá bi thơng bởi trong sâu thẳm vẫn
sáng lên niềm tin, chất nhân văn sâu sắc qua hình ảnh ngọc trai - giếng nớc.
Chúng ta có thể thấy rằng ngọc trai - giếng nớc vừa là hình ảnh có giá trị thẩm
mĩ cao, vừa là một tình tiết đắt xét về phơng diện tổ chức cốt truyện. Nó là sự kết thúc
duy nhất hợp lí cho số phận của đôi trai gái Mị Châu, Trọng Thủy, cùng với sự thể
hiện t tởng, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với bi kịch tình yêu này nói
chung, nhân vật Mị Châu nói riêng.
Nàng Mị Châu bởi nhẹ dạ, cả tin làm nên nổi cơ đồ đắm biển sâu. Nàng đã
phải nhận lấy cái chết cho danh nghĩa một kẻ bất hiếu, phản nghịch.. Nhng sâu xa, tác
giả dân gian đã thấu hiểu nỗi lòng một ngời con gái ngây thơ, trong trắng vì tình yêu
đã vô tình gây nên tội mà đã cho nàng đợc hoá thành những viên ngọc trai. Những viên
ngọc trai lấp lánh nh đáp lại lời cầu nguyện của nàng trớc khi vua cha chém đầu. Nàng
không phải là ngời có lòng phản nghịch muốn hại cha, nàng là ngời có lòng trung hiếu
nhng vô tình bị ngời ta lừa dối. Những viên ngọc ấy ẩn sâu trong lớp vỏ trai dới làn nớc
đầy bụi bẩn vẫn thanh lọc để sáng lên nh chính tâm hồn ngây thơ trong trắng của Mị
Châu. ánh sáng ngọc trai ám ảnh tâm trí ngời đọc, tìm sự chia xẻ, đồng cảm.
Tác giả dân gian đã có tấm lòng vô cùng độ lợng khi thấu hiểu và cảm thông
với nàng Mị Châu. Để nàng đợc toại nguyện biến thành ngọc trai. Sự hoá thân ấy mang
theo một ớc mơ của nhân dân về những Mị Châu sáng suốt sau này, vừa say đắm yêu
thơng vừa luôn luôn cảnh giác.
Nói về Trọng Thuỷ. Hắn là một kẻ chiến thắng trên phơng diện chính trị nhng
lại là kẻ thất bại thảm hại về phơng diện tình cảm. Hắn đã mất đi ngời vợ yêu quí, mất

đi sự thanh thản trong tâm hồn và càng ám ảnh hơn chính hắn gây nên cái chết Mị
Châu trong trắng, ngây thơ hết lòng yêu thơng hắn. Giếng nớc ở Loa thành là tấm gơng
hội tụ và phản chiếu tất cả tội ác mà Trọng Thuỷ gây nên. Chính ở nơi này hắn nhìn
thấy bản chất xấu xa của mình và thực lòng hối cải. Trọng Thuỷ nhảy xuống giếng tự
vẫn, dòng máu hoà dòng nớc nơi giếng ngọc là sự chứng nhận cho sự hối cải tội lỗi của
hắn.
19
Từ tơng truyền, nếu dùng nớc giếng ở Cổ Loa mà rửa ngọc thì ngọc thêm sáng
hơn, có ngời cho rằng, hình ảnh ngọc trai - giếng nớc là hình ảnh ngợi ca mối tình
thuỷ chung của Mị Châu - Trọng Thuỷ. Nhng thiết nghĩ, với tinh thần yêu nớc, cha
ông ta sẽ không bao giờ sáng tạo nghệ thuật để ngợi ca những ai đa họ đến bi kịch mất
nớc. Chỉ có thể lí giải rằng, hình ảnh ngọc sáng hơn bởi ở thế giới bên kia Mị Châu đã
tha thứ, hoá giải tội lỗi cho Trọng Thuỷ. Màu ngọc ấy cũng sáng nh tấm lòng yêu th-
ơng, vị tha của công chúa Mị Châu. H cấu chi tiết này, ngời xa còn muốn giảm nhẹ
bớt tội lỗi của nàng trong việc mất cảnh giác làm nớc mất, nhà tan.
Để Mị Châu biến thành ngọc trai, Trọng Thuỷ tự vẫn nơi giếng nớc và để hình
ảnh ngọc trai - giếng nớc sáng là tạo nghệ thuật đẹp tới mức hoàn mĩ. Đó chính là
tấm lòng nhân đạo bao dung, nhân hậu của nhân dân. Nó thể hiện truyền thống nhân
văn sâu sắc.
Chúng ta không thể không nhắc tới Trọng Thuỷ. Một nhân vật với vị trí và bản chất
khá phức tạp trong cốt truyện.
Trọng Thuỷ là con Nam Việt vơng Triệu Đà - luôn có âm mu thôn tính Âu Lạc.
Trọng Thuỷ sang Âu Lạc với mục đích giảng hoà để đánh cắp nỏ thần. Trớc lúc cầu
hôn Mị Châu, Trọng Thuỷ cha hề có cảm tình mà chỉ là toan tính. Đến khi trở thành
vợ chồng với Mị Châu, tình yêu của Trọng Thuỷ mới nảy nở. Nhng ý thức làm con,
làm tôi trung thành trong hắn vẫn lớn hơn. Hắn dối lừa ngời vợ cả tin, ngây thơ của
mình để đánh cắp nỏ thần, thôn tính nớc Âu Lạc, dồn An Dơng Vơng và Mị Châu đến
bớc đờng cùng. Hắn đúng là tên gián điệp nguy hiểm trong cái nhìn của cha ông
chúng ta. Hắn xứng đáng phải chịu nỗi ân hận vò xé tâm can khi dẫn đến cái chết của
ngời vợ yêu quí. Không có nổi khổ nào bằng sự day dứt lơng tâm. Bản án đích đáng

của Trọng Thuỷ là cái chết trong nổi ám ảnh. Nhân dân đã bày tỏ thái độ căm phẫn
không tha thứ và không đội trời chung với kẻ cớp nớc. Kẻ cớp nớc sẽ bị toà án lơng
tâm và lịch sử phán xét, sớm muộn chúng sẽ thất bại thảm hại trong cuộc chién tranh
chính nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Đấy là niềm tin mạnh mẽ của
nhân dân trớc những thử thách của lịch sử.
Song không vì lòng căm phẫn mà khiến dân gian đánh mất đi truyền thống nhân
văn sâu sắc của dân tộc. Hình ảnh ngọc trai - giếng nớc chính là sự khoan hồng, ân
xá cho kẻ đã biết ân hận, khát khao đợc hoá giải tội lỗi nh Trọng Thuỷ.
20
Mỗi nhân vậtutrong truyền thuyết này đợc nhìn nhận, đánh giá, định đoạt số
phận một cách khác nhau. ở đối tợng này có hơi dễ dãi, (nh đối với An Dơng Vơng) ở
đối tợng kia có phần hơi nghiêm khắc (nh đối với Mị Châu). Song nhìn chung những
nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử ấy đã đợc cảm nhận ghi lại bằng tất cả lòng nhiệt
thành, tự tôn dân tộc. Và nhất là, cái sâu sắc nhất đọng lại sau mỗi số phận nhân vật là
tình ngời, chất nhân văn truyền thống.
Truyện An Dơng Vơng và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đẹp, để lại
nhiều ấn tợng sâu sắc trong lòng ngời đọc. Câu chuyện là một cách giải thích nguyên
nhân việc mất nớc Âu Lạc. Qua đó nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với
kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mỗi quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nớc, giữa
cá nhân với cộng đồng. Thể hiện chất trí tuệ sắc sảo, bản chất nhân đạo sâu sắc của
dân tộc Việt Nam ta.
Đề số 10
Suy nghĩ của anh (chị) về hai cuộc gặp mặt trong Uy-lít-xơ trở về và Ra-ma
buộc tội
Bài làm
Hai đoạn trích đều miêu tả cảnh tái hợp của hai cặp vợ chồng. Trong trích đoạn
Uy-lít-xơ trở về (trích khúc ca XXIII, sử thi Ô-đi-xê - Hi Lạp), sau hai mơi năm trời
chinh chiến trải qua rất nhiều thử thách, khó khăn Uy-lít-xơ mới trở về quê hơng. Hai
cha con Uy-lít-xơ lập mu giết chết 108 vị cầu hôn nhng vợ chàng, Pê-nê-lốp vẫn không
tin là chồng mình đã trở về. Nàng nghi ngờ là một sự lừa lọc chi đây. Cảnh gặp gỡ

trong Ra-ma buộc tội (trích khúc ca VI, sử thi ấn Độ Ra-ma-ya-na lại theo một diễn
biến khác hẳn, gần nh trái ngợc. Sau khi tấn công đảo Lan-ka, đánh thắng quỷ vơng
Ra-va-na cứu đợc nàng Xi-ta xinh đẹp, Ra-ma liền nổi cơn ghen dữ dội vì nghi ngờ sự
thủy chung của vợ. Cuộc gặp gỡ của họ nh một phiên toà. Cảnh gặp gỡ thứ nhất, Pê-
nê-lốp thử chồng. Còn cảnh thứ hai, Ra-ma buộc tội vợ. Cảnh thứ nhất, vợ chồng sung
sớng tột cùng trong niềm vui đoàn tụ. Cảnh thứ hai, ngời vợ xinh đẹp tự nguyện bớc
lên giàn hỏa thiêu để chứng tỏ phẩm hạnh của mình trong tiếng kêu khóc thơng cảm
vang trời.
21
Cuộc gặp gỡ của hai cặp vợ chồng trong hai đoạn trích diễn ra khác nhau nhng
trong đó các nhân vật đều đợc đặt vào những thử thách đòi hỏi chính họ phải vợt qua,
tự mình tháo gỡ. ở Uy-lít-xơ trở về, Uy-lít-xơ một con ngời dũng cảm, mu trí có thể
sánh ngang với thần linh, nghị lực phi thờng đã vợt qua mọi gian truân mới về lại quê
hơng phải giải đợc câu đố về chiếc giờng cời của vợ - nàng Pê-nê-lốp. ở trích đoạn Ra-
ma buộc tội, nàng Xi-ta xinh đẹp phải nhảy vào giàn lửa nhờ thần lửa A - nhi chứng
minh cho sự thuỷ chung trớc Ra-ma và cả cộng đồng.
Cả hai tình huống gặp gỡ của các nhân vật đều đợc đặt trong những hoàn cảnh éo
le đầy kịch tính, những mâu thuẫn giằng co tới đỉnh điểm mới đợc từ từ tháo gỡ trong
phạm vi thời gian và không gian nhất định. Nhng tất cả những thử thách và tình huống
ấy đầu mang đạm tính sử thi. Các nhân vật đều vợt qua thử thách dới sự quan sát và
theo dõi của những nhân vật khác và của cộng đồng. Mọi hành động lời nói của các
nhân vật đều là những lời nói, hành động công khai minh bạch đại diện cho cả cộng
đồng. Chàng Uy-lít-xơ vợt qua thử thách trớc sự chứng kiến của mọi ngời và đặc biệt
trong thử thách cuối cùng dới sự chứng kiến của nhũ mấu Ơ-ríc-lê và con trai Tê-lê-
mác. Cuộc hội ngộ của Ra-ma và Xi-ta đợc cả cộng đồng chứng kiến. Tác giả sử thi
không miêu tả hành động nào của cộng đồng tham gia vào giữa họ nhng qua ánh mắt
của đám đông, tiếng khóc của phụ nữ và của loài khỉ Ra-sa-xa, loài khỉ Va-na-ra...
cũng chính là thái độ của cộng đồng. Điều đó cho thấy những hành động, trách nhiệm
và số phận của những ngời anh hùng gắn rất chặt với cộng đồng và đợc cộng đồng
phán xét.

Bên cạnh đó các nhân vật sử thi cũng gắn liền với thời kì hình thành và củng cố
quan hệ gia đình. Các gia đình ở đây phần lớn là đều là các gia đình dòng dõi và danh
tiếng, điều đó càng chi phối hành động của nhân vật. Đặc biệt là trong trích đoạn Ra-
ma buộc tội, Ra-ma đã khẳng định rõ ràng : Ngời đã sinh trởng trong một gia đình cao
quý có thể nào lại lấy về một ngời vợ đã từng sống trong nhà kẻ khác... Vậy làm sao ta
có thể nhận nàng về nhà ta khi ta nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta.
Các nhân vật sử thi đặc biệt coi trọng danh dự và quy ớc của cộng đồng. Đạo đức
của họ cũng chính là khuôn vàng thớc ngọc là chuẩn mực của cả cộng đồng. Nhng hơn
hết các nhân vật sử thi chính là khát vọng về hạnh phúc và hớng tới cái đẹp toàn bích,
bảo vệ sự toàn bích của cái đẹp. Chính điều đó đã giúp họ vợt qua tất cả mọi gian khó
22
và thử thách để đến đợc với bến bờ hạnh phúc. Trong việc diễn tả cảnh gặp gỡ, tác giả
đã kể lại một cách rất trang trọng và chậm rãi. Những chi tiết, lời thoại, hành vi, lối lập
luận khôn khéo và kiên quyết cùng tình huống mang đậm kịch tính đều vang động âm
hởng và phong cách sử thi. Đặc biệt là những hình thức so sánh liên tởng mang sức hấp
dẫn đặc biệt kì lạ. Qua cuộc gặp gỡ, các nhân vật toát lên vẻ đẹp tình đời, tình ngời,
khát vọng hạnh phúc vơn lên chiếm lĩnh những giá trị cao đẹp nhất của con ngời.
Nhng không chỉ những nét chung, tính cách hai cặp nhân vật sử thi của hai nền
văn hóa khác nhau này có rất nhiều nét riêng biệt. Pê-nê-lốp một ngời phụ nữ thuỷ
chung, thận trọng đến sắt đá. Uy-lít-xơ mu trí bình tĩnh và nhẫn nại. Đó là bức tợng
đài về tình yêu và niềm tin vào hạnh phúc bất di bất dịch. Nàng Xi-ta nhảy vào giàn
hoả thiêu bộc lộ tính cách kiên trinh. Ra - ma cũng cứng rắn không kém để bảo vệ
truyền thống anh hùng cao cả.
Quả thật, qua hai cảnh gặp gỡ vợ chồng ở hai bộ sử thi vĩ đại Ô-đi-xê của Hi Lạp
và Ra-ma-ya-na của ấn Độ, ta càng thấy rõ hình mẫu lí tởng của con ngời cổ đại với
khát vọng tình yêu và chuẩn mực chung thuỷ. Khuôn thớc ấy đã hằn in sâu đậm trong
trái tim nhân loại hàng ngàn năn nay.
Đề số 11
Đọc Uy-lít-xơ trở về (trích sử thi Ô-đi-xê) và cho biết :
a) Hô-me-rơ kể chuyện gì ?

b) ở phần cuối đoạn trích, tác giả đã chọn một sự việc quan trọng đó là sự
việc gì, đợc kể bằng những chi tiết tiêu biểu nào ? Có thể coi đây là thành công
của Hô-me-rơ trong nghệ thuật kể chuyện không ? Vì sao ?
Bài làm
a) Từ "Đứa con của sông Mê-lét" đến nhà thơ mù thông thái lang thang khắp các
thành bang, Hô-me-rơ đã sáng tác sử thi nổi tiếng I-li-at và Ô-đi-xê. Hai tác phẩm đầu
tiên của nền văn hóa Hi Lạp cổ đại cũng là bút tích xa nhất của nền văn minh Châu
Âu. Tuy cả hai đều khai thác những những truyền thuyết về cuộc chiến tranh thành Tơ-
roa nhng nếu I-li-at là bản anh hùng ca chiến trận thì Ô-đi-xê là bản anh hùng ca cuộc
sống hoà bình. Đặc biệt trong trích đoạn Uy-lit-xơ trở về, một phần khúc ca XXIII
23
của Ô-đi-Xê, Hô-me-rơ kể về câu chuyện đôi vợ chồng Uy-it-xơ và Pê-nê-lốp hai mơi
năm xa cách. Ta gặp hình tợng Pê-nê-lốp, ngời phụ nữ thuỷ chung có trái tim sắt đá,
thận trọng và chàng Uy-lit-xơ mu trí, bình tĩnh và kiên nhẫn. Họ là biểu tợng mẫu mực
về mối quan hệ vợ chồng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Tuyên đánh giá ở đây hình thái gia đình đã xuất
hiện. Tình yêu quê hơng xứ sở, gia đình, tình vợ chồng... không phải sản sinh từ những gì
mơ hồ, trừu tợng mà là từ ý thức gắn bó với tổ ấm gia đình mà họ mới xây dựng nên, ý
thức đó là lòng khát khao một cuộc sống thanh bình văn minh và hạnh phúc của con ng-
ời trong buổi giao thời lịch sử thời: đại Hô-me-rơ .
b) Phần cuối đoạn trích Uy-lit-xơ trở về, tác giả đã chọn một sự việc quan trọng
đó là dùng chiếc giờng đặc biệt mà chỉ hai ngời biết để thử thách trí tuệ và tình cảm
của nhau. Đây là sự việc tiêu biểu đợc kể bằng một số chi tiết đặc sắc nh chính lời Uy-
lit-xơ : Đây là một chiếc gi ờng kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt do chính tay tôi làm
chứ chả phải ai. nguyên trong sân nhà có một chồi cây cảm lãm lá dài mọc lên, khoẻ,
xanh tốt và to nh cái cột và chính chàng đã chặt hết cành lá của cây cảm lãm lá dài, cố
đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông rồi nảy đờng mực làm thành một cái chân giờng và
lấy khoan khoan lỗ khắp rung quanh... bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giờng đó,
lấy vàng bạc và ngà nạm trang trí căng lên mặt giờng một tấm da màu đỏ rất đẹp.
Mọi chi tiết đều đợc Uy-lít-xơ miêu tả tỉ mỉ, chiếc giờng Uy-lít-xơ nhắc lại chính là

tình yêu thắm thiết của hai vợ chồng. Có thể nói chiếc giờng không thể xê dịch nh tình
yêu chung thuỷ của hai ngời.
Có thể coi đây là thành công của Hô-me-rơ trong nghệ thuật kể chuyện vì qua
việc lựa chọn và kể lại sự việc tiêu biểu với những chi tiết đặc sắc nh thế đã làm câu
chuyện thêm hấp dẫn. Từ đó những tính cách và phẩm chất của hai ngời đều đợc bộc
lộ rõ nét và tô đậm bởi phong cách sử thi trang trọng và chậm rãi, ý nghĩa nhân bản
càng sâu sắc.
Đề số 12
Vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp trong Uy-lít-xơ trở về
Bài làm
24
Hạnh phúc chỉ thực sự bền vững khi trải qua thử thách. Nàng Pê-nê-lốp trong sử
thi Ô-đi-xê nổi tiếng của Hi Lạp cũng vậy. Sau hai mơi năm đằng đẵng chờ chồng, chịu
sự nhòm ngó, ép buộc thờng trực của 108 kẻ quyền quý cầu hôn, nàng đã tìm thấy
hạnh phúc của ngay xum họp.
Hình ảnh Pê-nê-lốp chính là biểu tợng của vẻ đẹp phụ nữ Hi Lạp - kiên trinh,
thánh thiện, trí tuệ.
Hai mơi năm không gặp, hai mơi năm xa cách chờ chồng. Thời gian là liều thuốc
nhiệm màu thử thách lòng chung thuỷ của đàn bà ; v thời gian cũng là nền tảng cho cái
đẹp hiện hình. Ngời phụ nữ Pê-nê-lốp qua thời gian đã làm cho hàng triệu trái tim ngời
đọc mến phục và trân trọng.
Trớc hết, vẻ đẹp của Pê-nê-lốp hiện lên qua thái độ trân trọng trong cách ứng xử
khi trớc mặt là ngời tự nhận là ngời chồng yêu dấu trong bộ dạng một kẻ hành khất.
Ngòi hằng đợc nàng cho phép ở lại lâu đài để kể cho nàng nghe về hai mơi năm chinh
chiến và trôi dạt lênh đênh của chồng. Nàng phải kìm nén tình cảm riêng t cho lí trí
vạch đờng chỉ lối. Có những lúc tâm trạng nàng nhiều sự phân vân chọn lựa đầy mâu
thuẫn. Khi nghe nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác báo tin chồng đã trở về nàng mừng rỡ
cuống cuồng nhảy ra khỏi giờng ôm chầm lấy bà lão nớc mắt chan hoà. Đấy là biểu thị
của lòng chung thuỷ, niềm hạnh phúc tột độ đợc đền bù xứng đáng. Biết bao ngày
nàng ngồi dệt tấm thảm để đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự thúc bách của bọn

cầu hôn ? Biết bao nhớ mong và yêu thơng dành hết cho chồng ? Giờ đây nghe nhũ
mẫu báo tin Uy-lit-xơ đã trở về nàng không mừng sao đợc ? Nhng rồi Pê-nê-lốp có
một thái độ hoàn toàn khác - thận trọng. Tại sao lại có sự thay đổi đột ngột nh vậy ?
Chúng ta không nên trách cứ nàng đa nghi vì nàng đã hứng chịu biết bao cay đắng khi
xa chồng, trong lúc 108 kẻ quấy nhiễu cầu hôn bắt nàng phải tái giá. Nàng đã cơng
quyết bác bỏ tin của nhũ mẫu và cho rằng ngời giết chết 108 kẻ cầu hôn giải cứu cho
nàng không phải là Uy-lít-xơ mà là một vị thần bất bình vì sự láo xợc bất kham và
những hành động nhơ nhuốc của bọn kia. Bởi nàng vẫn đau khổ cho rằng chàng đã
hết hy vọng trở lại đất A-Cai, chính chàng cũng đã chết rồi.
Tâm trạng Pê-nê-lốp phân vân nhng rất quả quyết. Nàng đã trấn an nhũ mẫu cũng
là để trấn an mình. Tâm trạng nàng trớc lúc gặp Uy-lít-xơ rất đổi phân vân , điều đó
đợc thể hiện trong dáng điệu, cử chỉ, trong sự lúng túng tìm cách ứng xử. Nàng không
25

×