Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG XKLĐ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.53 KB, 24 trang )

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ
NĂNG XKLĐ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI TRONG
NHỮNG NĂM TỚI
3.1. Định hướng
Do hoạt động XKLĐ ở các nước đang phát triển có vai trò quan trọng,
thậm chí một số nước đã coi việc phát triển lĩnh vực này như là một thế mạnh
kinh tế quốc gia. Vì vậy việc đề ra những định hướng và chủ trương cho hoạt
động này là rất cần thiết.
Ở nước ta, chiến lược phát triển KT - XH của Nhà nước đang thu được
những kết quả khả quan. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần
thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương: “Trong những năm trước mắt, phải giải
quyết tốt một số vấn đề xã hội, tập trung sức tạo việc làm... Mở rộng kinh tế
đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn”. Chủ trương này đã được Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ 4 khoá VIII cụ thể hoá như sau : “ Mở rộng XKLĐ
trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham
gia xuất khẩu và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản
lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ
XKLĐ trái quy định của Nhà nước”.
Nhằm cụ thể hoá thêm một bước và đánh giá vai trò của XKLĐ trong
điều kiện hiện nay, ngày 22 tháng 9 năm 1999, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ
thị số 41- CT/TW khẳng định : “ XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT-
XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập và
nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước.
Sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong nước và ngoài nước chỉ mới giải quyết
được một phần trong khi số lao động không có việc làm ở đô thị còn khá cao.
Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp. Hàng năm lại có
hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải
1
1


pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia còn có vai
trò quan trọng trước mắt và lâu dài”.
Từ quan điểm và chủ trương tổng quát mà Đảng đã đề ra, định hướng
phát triển của XKLĐ trong thời gian tới sẽ bao gồm :
3.1.1. Định hướng chung
- XKLĐ là một chiến lược quan trọng, lâu dài, là một nội dung của
Chương trình quốc gia về việc làm, một hoạt động KT - XH góp phần phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế góp phần tăng cường mối quan hệ
hợp tác lâu dài giữa Việt Nam với các nước và củng cố cộng đồng người Việt
ở nước ngoài.
- Đẩy mạnh XKLĐ trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ
quan quản lý Nhà nước từ Trung Ương tới địa phương phải có sự phối hợp
đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực xuất
khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh XKLĐ.
- Phải có chiến lược về mở rộng thị trường XKLĐ, củng cố thị trường
truyền thống, giữ và phát triển thị trường hiện có, khai thông các thị trường
mới. Mỗi khu vực cần xây dựng đề án riêng cho phù hợp với đặc điểm và tình
hình của khu vực đó.
- Thực hiện việc XKLĐ theo quan hệ cung - cầu của thị trường lao
động. Đa dạng hoá thị trường XKLĐ, cung cấp lao động cho mọi thị trường
cần lao động Việt Nam nếu ở đó phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho người lao động.
- Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động, cung cấp lao động với
mọi ngành nghề và trình độ tay nghề khác nhau. XKLĐ phải đảm bảo tính
cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và
chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu...Mặt khác phải đa dạng hoá
thành phần tham gia XKLĐ, củng cố các doanh nghiệp chuyên XKLĐ, mở
rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện trực tiếp để nhận thầu
công trình, đưa lao động đi làm việc tại các thị trường nước ngoài...

2
2
Bên cạnh đó phải đa dạng hoá hình thức đưa lao động đi nước ngoài
theo các hướng ưu tiên sau :
. Đi tập thể, do các doanh nghiệp tổ chức dưới các hình thức nhận thầu
cong trình công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông dân dụng... ở nước
ngoài.
. Chuyên gia trên một số lĩnh vực mà ta có điều kiện.
. Công nhân có tay nghề làm việc theo hợp đồng ký giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
. Lao động phổ thông trong một số lĩnh vực theo yêu cầu của phía nước
ngoài và theo quy định của Chính phủ.
- Đầu tư để phát triển sự nghiệp XKLĐ, nâng cao năng lực của cơ quan
quản lý Nhà nước, đầu tư cho các tổ chức XKLĐ và người lao động. Đầu tư
đào tạo về ngoại ngữ, tay nghề và chuyên môn, đáp ứng yêu cầu thị trường,
nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
3.1.2. Định hướng cụ thể
Trên thế giới hiện nay, nhìn chung nhu cầu sử dụng lao động không
còn cao như thời kì trước do nhiều nước đang cải cách kinh tế, các tập đoàn
đổi mới sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào
sản xuất để tiết kiệm lao động. Muốn hình thành được một hệ thống thị
trường lao động quốc tế tiếp nhận và sử dụng lao động Việt Nam đòi hỏi
chúng ta phải có những định hướng cụ thể cho các năm trước mắt và nỗ lực
thực hiện những chủ trương, định hướng đó.
Định hướng của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2010 về lĩnh
vực XKLĐ là :
Với chủ trương mở rộng, đa dạng hoá trong XKLĐ, những chính sách
cởi mở tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, cho người lao động như đã
trình bày ở phần trên, trong bối cảnh quan hệ ngoại giao và quan hệ hợp tác
kinh tế giữa nước ta với nước ngoài đã có nhiều thuận lợi thì khả năng đưa

được một số lượng lớn lao động ra nước ngoài làm việc là một hiện thực
trong những năm tới.
3
3
Trong thời gian tới, nước ta phấn đấu đạt quy mô đưa lao động ra nước
ngoài như sau :
. Từ năm 2002 - 2005: bình quân hàng năm khoảng 50.000 - 100.000
người.
.Từ năm 2006 - 2010: trung bình hàng năm đưa đi khoảng 100.000 -
150.000 người. Phấn đấu luôn có khoảng 400.000 đến 500.000 lao động làm
việc thường xuyên ở nước ngoài.
3.2. Giải pháp
Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động
XKLĐ đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực
3.2.1. Các giải pháp về cơ chế quản lý :
1. Cần thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao
động nước ngoài:
Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển của
XKLĐ. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lược...để hỗ
trợ cho XKLĐ phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong mở
rộng thị trường lao động ngoài nước, cũng là khâu mang tính quyết định trong
chu trình XKLĐ của bất kỳ nước nào. Do vậy, cần thiết lập quan hệ Nhà
nước, hình thành hệ thống tuỳ viên lao động để tham mưu, tư vấn cho Nhà
nước các Hiệp định khung hoặc các thoả thuận nguyên tắc để mở đường cho
các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước
XKLĐ truyền thống, có thể thấy vai trò của tuỳ viên lao động rất lớn, có tính
quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
2. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và
chính quyền các cấp trong XKLĐ cụ thể như sau :
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan Chính phủ, thống

nhất quản lý Nhà nước về XKLĐ có trách nhiệm : Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống thị
trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển; nghiên cứu và tổ
chức triển khai các chính sách, chế độ về XKLĐ; tổ chức quản lý, kiểm tra
4
4
đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh
nghiệp triển khai công tác XKLĐ theo đúng luật pháp lao động.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thiết lập, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước
có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan
đại diện ở nước ngoài nghiên cứu tình hình và cung cấp cho Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội thông tin về thị trường lao động nước ngoài, thực hiện
chức năng lãnh sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam ở
nước ngoài theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc
tế...
Bộ Công An phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản
lý việc xuất nhập cảnh của người lao động đi làm việc ở nước ngoài kể cả lao
động tự túc, chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các khâu thuộc
Bộ, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động,
chuyên gia và tổ chức kinh tế XKLĐ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Văn
hoá, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn...và chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động
XKLĐ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành, địa phương mình theo quy định của
Nhà nước; chỉ đạo các tổ chức kinh tế XKLĐ tổ chức tốt đời sống văn hoá
tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh đó các tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên công
sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị khác nên tổ chức vận động, giáo

dục tuyên truyền chủ trương, chính sách về XKLĐ và giám sát, triển khai
công tác XKLĐ.
3. Mở rộng phạm vi về thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, đồng thời đa
dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa đi:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các khu vực kinh tế cùng tham
gia hoạt động trong một lĩnh vực thì sẽ có tác đông hoàn thiện quá trình và
không ngừng tăng hiệu quả. Tăng thành phần tham gia XKLĐ sẽ giúp số
5
5
lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên, Nhà nước thu hút được
nguồn ngoại tệ lớn, quyền lợi người lao động được bảo đảm hơn do quy luật
cạnh tranh điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp.
Đa dạng hoá ngành nghề, công việc trong XKLĐ trong giai đoạn tới
đối với nước ta là một giải pháp mang tính chủ trương lớn và có ý nghĩa quyết
định cho sự phát triển XKLĐ. Cần mạnh dạn cho thí điểm đưa lao động đi
phục vụ gia đình (hiên nay chủ yếu tại thị trường Đài Loan) loại công việc
này sẽ thu hút một số lượng lớn lao động nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta
cũng cần phải chuẩn bị chu đáo để bảo vệ quyền lợi người lao động.
3.2.2. Các giải pháp về chính sách
1. Đối với các doanh nghiệp XKLĐ:
Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp XKLĐ đủ mạnh để cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt
động, xây dựng bộ máy và đào tạo cán bộ có khả năng tiếp cận và tìm kiếm
thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ
về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào
XKLĐ trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng
cạnh tranh trên thị trường XKLĐ quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế
thành công ty đấu thầu quốc tế.
Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các
lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới...

tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được hợp đồng XKLĐ. Có thể xem xét
theo định hướng là đối với các doanh nghiệp tham gia XKLĐ thì được hưởng
ưu đãi theo luật thuế quy định, mức ưu đãi sẽ được Bộ Tài chính quy định cụ
thể ở các văn bản dưới luật.
Nghiên cứu thành lập Hiệp hội XKLĐ và chuyên gia để các doanh
nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với
nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực
XKLĐ
2. Đào tạo nguồn lao động xuất khẩu
6
6
Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao
động xuất khẩu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ với việc chuẩn bị được lực
lượng lao động phù hợp, có chất lượng so với yêu cầu quốc gia sẽ có khả
năng cạnh tranh và chiếm giữ được thị trường. Chất lượng lao động càng cao
thì hiệu quả càng cao. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên, Nhà nước - Doanh
nghiệp Người lao động cùng đầu tư để đào tạo nguồn lao động cho xuất
khẩu. Kết hợp đào tạo kỹ thuật với đào tạo ngoại ngữ, phong tục tập quán,
kiến thức pháp luật cho lao động. Đây cũng là chính sách đào tạo đôi ngũ lao
động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước khắc phục tình trạng
thiếu công nhân có kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
3. Hoàn thiện chính sách về tài chính
Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu
quả XKLĐ. Trong chính sách tài chính, vấn đề cơ bản cần quan tâm là bảo
đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người lao động, lợi ích của các tổ chức
XKLĐ, lợi ích của Nhà nước và cũng cần chú ý tới lợi ích của chủ thuê lao
động.
Nên phân định rõ và giao các chính sách này cho các cơ quan quản lý
chức năng cụ thể như Bộ Văn hoá - Thông tin thực hiện tốt dịch vụ văn hoá

tinh thần phục vụ cộng đồng lao động của ta ở nước ngoài, các ngành có liên
quan như ngành Hàng không, Thuế, Hải quan cần ban hành các quy chế ưu
đãi trong việc làm thủ tục và giá cước đối với sản phẩm dành cho người lao
động khi đưa ra nước ngoài phục vụ lao động nước ta.
4. Đối với người lao động
Nghiên cứu qui định hợp lý chi phí dịch vụ việc làm ở nước ngoài. Phí
dịch vụ này nên quy định thành 3 mức cố định : Đối với lao động phổ thông;
đối với lao động kỹ thuật và đối với lao động “chất xám”. Không nên quy
định thành tỉ lệ phần trăm theo lương, sẽ gây nên việc khó tính toán và khó
thực hiện.
Cần nghiên cứu, ban hành các chính sách thuế hợp lý, nên miễn thuế
thu nhập cao nhằm đảm bảo và khuyến khích người lao động đi làm việc ở
7
7
nước ngoài. Mặt khác, nên sửa đổi bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội, cho người
lao động tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội chứ không nên bắt buộc đóng
bảo hiểm xã hội như hiện nay. Nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung chính sách bảo
hiểm xã hội cho phù hợp với người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nhà nước cần có chính sách cho người lao động được vay vốn với lãi
suất ưu tiên để chi phí cho việc đi nước ngoài làm việc. Xây dựng cơ chế cho
vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm
nghèo và các nguồn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách
được vay với lãi suất ưu đãi. Nếu được thì sẽ tạo tâm lý an tâm cho người lao
động đi làm việc, chấp hành tốt các quy định ở nước ngoài vì họ không phải
lo lắng gì về những khoản vay nợ cá nhân.
Tiến hành mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm
việc ở nước ngoài. Giải pháp này sẽ giải quyết được ba vấn đề: Quản lý và
theo dõi được lượng ngoại tệ chuyển vào nước ta, người lao động an tâm khi
họ biết được tiền của họ được bảo vệ và chuyển về nước an toàn, giúp đỡ
người nhà gặp khó khăn khi họ còn làm việc ở nước ngoài.

Nên có chính sách khuyến khích người lao động và chuyên gia làm
việc ở nước ngoài dùng thu nhập ở nước ngoài mà họ kiếm được đầu tư vào
sản xuất kinh doanh, tư vấn việc làm, đào tạo lại cho người lao động sau khi
về nước. Bên cạnh đó với những lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về
nước khác, cần tạo điều kiện tiếp nhận họ vào làm việc trong các cơ sở sản
xuất kinh doanh vì họ có thế mạnh tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại
ngữ...
Nghiên cứu để ban hành các chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối
với mọi đối tượng có liên quan đến XKLĐ. Có các biện pháp ngăn chặn tình
trạng tiêu cực trong hoạt động của lĩnh vực này.
3.2.3. Các giải pháp về tổ chức quản lý
1. Hoàn thiện hệ thống quản lý và tổ chức bộ máy cán bộ quản lý Nhà
nước về XKLĐ.
8
8
Để phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách nền hành chính quốc gia
nhằm tăng cường và nâng cao năng lực của quản lý Nhà nước, hệ thống quản
lý XKLĐ cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, tập
trung chức năng quản lý Nhà nước vào một số cơ quan của Chính phủ. Hệ
thống tổ chức quản lý XKLĐ trong thời gian tới cần bao quát được các nội
dung quản lý Nhà nước trong và ngoài nước nhưng bảo đảm tính linh hoạt và
năng động.
Về cán bộ cần tập trung đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức
Marketing, ngoại ngữ, kiến thức về lao động, luật pháp, đối ngoại mới đủ điều
kiện để làm công tác quản lý.
2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện và quản lý
Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của
Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải
pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác
để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau :

- Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành
được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó
sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn : Giai
đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn
tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và
thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao
động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương
đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ.
Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước
ngoài nhất là đối với thuyền viên (do phải dùng hai hộ chiếu)
- Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền
lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo
đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các
9
9

×