Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ KINH TẾ SINGAPORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.58 KB, 32 trang )

KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ KINH TẾ SINGAPORE
I. VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI CỦA SINGAPORE
1. Điều kiện địa lý, tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Gồm một đảo chính và 60 đảo nhỏ, Singapore là một đất nước có khí hậu nhiệt
đới. Đảo chính là đảo Singapore có chiều dài khoảng 42 km và chiều rộng 23 km
với diện tích khoảng 556 km
2
trong tổng diện tích 647,5 km
2
của cả quần đảo
Singapore. Những hòn đảo còn lại đều nhỏ, đảo rộng nhất là đảo Pulauteking với
diện tích 24,4km
2
; Pulanubin 10,2 km
2
và đảo Sentosa 3,5 km
2
. Nằm giữa 1
o
09' đến
1
o
9' độ vĩ bắc và 103
o
36' đến 104
o
25' độ kinh đông; cách xích đạo về phía Bắc
khoảng 137 km; eo biển Johor ngăn cách Singapore với bán đảo Malaysia và eo
biển Singapore là biên giới với quần đảo Indonesia
1


.
1
Singapore Yearbook 2001 - /> Singapore có một vị trí địa lý lý tưởng: nằm trên trục đường vận tải biển từ Á
sang Âu, Đông sang Tây, là đầu cầu, cửa ngõ ra vào của Châu Á. Singapore còn là
tâm điểm nối các Châu lục Á - Âu - Phi - Úc và Bắc, Nam Mỹ (phía Tây Thái Bình
Dương). Cùng với vị trí tự nhiên lý tưởng này cộng với thế mạnh của con người
tạo ra, Singapore đã trở thành nơi hấp dẫn nhất khu vực. Tính đến năm 1998, đã có
trên 10.500 công ty nước ngoài đầu tư, liên doanh tại đây (năm 1998 vốn đầu tư
vào Singapore đạt trên 8 tỷ USD); hơn 5.000 công ty thương mại, tài chính đa quốc
gia có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại đây; trên 150 cơ quan đầu não, trụ
sở của các tổ chức quốc tế đặt văn phòng tại đây. Singapore là một trong những
trung tâm lọc dầu lớn nhất thế giới với sự có mặt của hầu hết các hãng dầu khổng
lồ BP, ESSO, Sheell, Caltex, Mobil... với công suất lọc dầu trên 1 triệu thùng/
ngày. Sự có mặt của những tập đoàn kinh tế khổng lồ đã mang lại nguồn lợi to lớn
cho Singapore từ khoản thu thuế, dịch vụ và giải quyết việc làm và phúc lợi cho
người dân
1
.
Địa hình của Singapore là bình nguyên xen kẽ các gò, đống, đồi thấp và đầm lầy.
Gần 2/3 diện tích đảo không cao quá 15m so với mực nước biển. Đỉnh cao nhất của
Singapore là Bukitpanjang cũng chỉ cao 177m. Phần phía Đông của đảo là một cao
nguyên thấp đã bị bào mòn nhiều nên trở thành như đồng bằng, thỉnh thoảng có vài
thung lũng nhỏ. Với địa hình gần như bằng phẳng như vậy, Singapore không có
điều kiện để phát triển thuỷ điện và do đó phải dựa vào nguồn dầu nhập khẩu.
1.2. Khí hậu
Singapore nằm trong vùng khí hậu xích đạo nên nhiệt độ và độ ẩm không khí
khá cao. Nhiệt độ trung bình hằng ngày là 26,7 độ C; nhiệt độ cao nhất vào buổi
chiều là 30,8 độ C và nhiệt độ thấp nhất lúc hoàng hôn là 23,9 độ C. Tháng 12 và
tháng giêng thường là tháng mát nhất. Tháng 5 là tháng nóng nhất trong năm.
Lượng mưa hàng năm là 2.344ml; mưa quanh năm nhưng thường mưa to vào

tháng 11 đến tháng giêng, tháng 7 là tháng mưa ít nhất. Độ ẩm không khí bình
quân trong năm cao, khoảng 84,3%
2
.
2. Môi trường văn hoá xã hội
2.1. Đặc điểm dân cư
Singapore là một quốc gia trẻ, đa dân tộc, đa sắc thái văn hoá, được hình thành
chủ yếu trên nền tảng dân nhập cư từ Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ và Châu Âu.
1 Báo cáo thị trường Singapore, Vụ Châu Á Thái bình dương - Bộ Thương mại
3
Singapore Yearbook 2001 -
2
Những ngày đầu tiên của Singapore năm 1819, khi Stamford Raffles (người
Anh) phát hiện ra thì Singapore chỉ có khoảng 150 người dân sống rải rác dọc bờ
sông. Tính đến tháng 6/2001, dân số đã là 3.319.000 (bao gồm cư dân và những
người cư trú lâu dài). Trong đó cộng đồng người Hoa chiếm 76,7%; người
Malaysia chiếm 13,9% và người Ấn Độ chiếm 7,9%; còn lại 1,5% là người Châu
Âu, người A rập và các tộc người khác. Cơ cấu dân cư của Singapore đã có biến
đổi đáng kể do ảnh hưởng của những biến cố trong lịch sử phát triển. Năm 1824
với số dân 10.683; người Malaysia chiếm 60%; người Trung Hoa chiếm 31%. Sự
thống trị của người Anh đối với Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông đã tạo điều
kiện cho người nhập cư Trung Quốc làm thay đổi cơ cấu dân cư của nước này
3
.
Tỷ lệ nam nữ trong cơ cấu dân cư của Singapore hiện nay xấp xỉ bằng nhau và
ngày càng có xu hướng cân bằng. Năm 1995 tỷ lệ nam/ nữ là 1,013 đến năm 1999
con số này là 1,006 (theo Uỷ ban Thống kê của Singapore), cùng với sự phát triển
của dân số (trung bình khoảng 1,9%/năm thời kì 1995-2000) mật độ dân số của
Singapore hiện nay là 5.900người/km
2

. Tuổi thọ của người dân Singapore ở mức
cao trên thế giới; năm 1999 tuổi thọ của nam công dân Singapore là 75,6 năm và
79,6 năm đối với nữ
4
.
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ và tôn giáo
Ngôn ngữ chính của Singapore là tiếng Malaysia, tiếng Trung Quốc phổ thông,
tiếng Anh và tiếng Tamil. Tiếng Malaysia là ngôn ngữ quốc gia và tiếng Anh là
tiếng sử dụng trong công sở. Tiếng Anh đóng vai trò như một ngôn ngữ làm việc,
giúp ngăn chặn những xung đột nảy sinh giữa các sắc tộc với nhau và đã đem lại
cho Singapore ưu thế cạnh tranh, vì đó là ngôn ngữ giao dịch, đàm phán và là ngôn
3 Singapore Yearbook 2001 - />4 T i lià ệu đã dẫn
ngữ của khoa học, kỹ thuật quốc tế. Đại bộ phận dân chúng Singapore ngày nay
thông thạo cả hai thứ tiếng: tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ. Với một nền giáo dục khá
hoàn chỉnh, Singapore có tỷ lệ dân biết đọc biết viết tính từ 10 tuổi trở lên cũng đạt
tới 92%.
Singapore là quốc gia đa tôn giáo, chủ yếu là đạo Phật, Khổng chiếm 53,8%
trong khối người Hoa; đạo Thiên chúa 12,9%; đạo Islam 14,9% và đạo Hindu
3,3%. Ở Singapore, không một tôn giáo nào được coi là quốc giáo
5
.
3. Hệ thống chính trị, pháp luật
Sau khi được thực dân Anh trao trả quyền tự trị cho Singapore (năm 1959) tháng
9 năm 1963, Singapore gia nhập Liên bang Malaysia. Có nhiều bất đồng cơ bản về
chính sách đã nảy sinh giữa Singapore và chính quyền liên bang. Ngày 9/8/1965,
Singapore đã tách ra thành một quốc gia độc lập.
Singapore là nước cộng hoà với hệ thống chế độ đại nghị của Chính phủ. Tổ
chức của nhà nước - cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp, và cơ quan tư pháp do
hiến pháp quy định. Đứng đầu nhà nước là Tổng thống; bộ máy chính phủ gồm
Nội các, đứng đầu Nội các là Thủ tướng. Thủ tướng và các thành viên Nội các

được chỉ định bởi Tổng thống và do các thành viên của Quốc hội cử. Nội các chịu
trách nhiệm tập thể trước Quốc hội.
Quốc hội (Nghị viện) Singapore với nhiệm kỳ 5 năm được bầu ra từ 2 loại đơn
vị bầu cử: đơn vị loại thành viên và đơn vị loại đại diện (GRC
s
: Group
Representation Constituencies). Những ứng cử viên thuộc các đơn vị bầu cử loại
đại diện (GRC
s
) là người gốc Malay, gốc Ấn Độ hoặc nhóm các dân tộc thiểu số
khác nhằm đảm bảo nghị viện phản ánh được tính chất đa chủng tộc của xã hội
Singapore. Cuộc bầu cử lần thứ 9 tổ chức vào 02/01/1997 đã bầu ra 83 thành viên
5
6
T i lià ệu đã dẫn
trong đó 81 thành viên là người của Đảng Nhân dân Hành động PAP (People's
Action Party); 1 thành viên của Đảng Nhân dân Singapore (Singapore People's
Party) và người còn lại của Đảng Công nhân (Workers' Party).
Từ năm 1992, hiến pháp Singapore mới bổ sung yêu cầu về chức vụ tổng thống.
Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kì 6 năm, tổng thống có
quyền cao hơn cả thủ tướng, chẳng hạn tổ chức các cuộc điều tra tham nhũng đối
với chính thủ tướng và các bộ trưởng... Cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên được tổ
chức vào 28/08/1993. Ông Ong Teng Cheong đã được bầu. Ngày 18/8/1999, ông
S.R Nathan đã thắng cử trong lần bầu cử tổng thống thứ 2 của cộng hoà Singapore;
cùng điều hành đất nước với chính phủ của thủ tướng Goh Chok Tong và đảng cầm
quyền PAP
6
.
Đảng nhân dân hành động PAP cầm quyền từ trên 30 năm nay và vẫn tiếp tục
giữ vị trí thống trị. Lãnh tụ trước đây của PAP là ông Lý Quang Diệu, thủ tướng

đầu tiên của Singapore từ năm 1959 - 1990; và hiện nay chủ tịch đảng là ông Goh
Chok Tong thủ tướng đương nhiệm của Singapore. Cùng tồn tại với PAP còn có
khoảng 20 đảng phái khác như Đảng công nhân, Đảng dân chủ, Đảng cộng sản,
song thế lực của các đảng phái đối lập rất yếu, không có khả năng thách thức đảng
PAP cầm quyền.
Hệ thống luật pháp ổn định, chặt chẽ, nghiêm ngặt được xếp vào loại tốt và hoàn
chỉnh nhất khu vực châu Á; bảo đảm cho mọi hoạt động kinh tế xã hội được duy
trì, ổn định và được điều chỉnh trong khuôn khổ luật pháp, tạo sự hấp dẫn, yên tâm
cho các nhà kinh doanh, đầu tư trong và ngoài nước.
Xây dựng một chính phủ trong sạch là mục tiêu mà nhà nước Singapore đã theo
đuổi và thực hiện khá thành công. CPIB - Ban điều tra hành vi tham nhũng là cơ
quan trọng yếu giúp chính phủ Singapore trong việc làm sạch bộ máy nhà nước.
6 Singapore Yearbook 2001 - />Niên giám Cạnh tranh Thế giới năm 1997 của Viện Phát triển Quản lý sắp xếp theo
thứ hạng cho các quốc gia ít tham nhũng nhất trên toàn thế giới, cho điểm 10 đối
với quốc gia nào không có nạn tham nhũng và Singapore được xếp vào hàng ngũ
các quốc gia ít tham nhũng nhất trong khu vực châu Á với điểm số 9,18 trước
Hồng Kông, Nhật Bản và Đài Loan. Transparency International (đặt tại Berlin) xếp
Singapore đứng thứ 7 trên thế giới năm 1998 cho thành tích "vắng mặt tham
nhũng". Hệ thống luật pháp được đánh giá nhất thế giới căn cứ vào tiêu chuẩn hệ
thống pháp luật hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế, là một sự khẳng định cho
những cố gắng không ngừng về hoàn thiện pháp luật của chính phủ Singapore
7
.
II. NỀN KINH TẾ SINGAPORE TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Thành tựu trong phát triển kinh tế của Singapore
Singapore là một mẫu mực cho quá trình phát triển nhờ tạo dựng một nền công
nghiệp quốc gia trên cơ sở đầu tư của các tổ chức đa quốc gia. Sau hơn ba thập kỉ
thực hiện những chính sách quản lý kinh tế Singapore đã đạt được nhiều thành tựu
kì diệu gây không ít ngạc nhiên đối với thế giới. Từ một nền kinh tế mà thu nhập
chủ yếu dựa vào buôn bán chuyển khẩu, chỉ trong một thời gian ngắn, quốc gia nhỏ

bé này đã vươn lên thành một nước có nền công nghiệp chế biến - chế tạo hiện đại
cùng với một hệ thống dịch vụ thương mại tài chính và du lịch hấp dẫn, có sức
cạnh tranh vào bậc nhất trên thế giới. Sự thành công về kinh tế đã mở đường cho
Singapore bước vào danh sách các nước thành viên của NIEs châu Á vào đầu thập
niên 80 và là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á được OECD xếp vào hàng
ngũ các nước phát triển (năm 1996). Singapore vẫn đang làm việc cật lực, hoạch
định và ứng biến nhằm củng cố địa vị là một quốc gia có khả năng liên kết mậu
7 Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, Lịch sử Singapore 1965 - 2000, Nh xuà ất bản trẻ,
T6/2001
dịch, đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu, và là một trung tâm phân phối
hàng hoá, dịch vụ, thông tin thành công trong khu vực và trên thế giới.
1.1. Singapore - trung tâm lọc dầu
Cuối thập niên 70, ngành công nghiệp dầu đã phát triển thành công công nghiệp
hoá dầu. Từ chỗ chỉ là kho chứa, trạm buôn bán và trung chuyển xăng dầu, vào
thập niên 90, với tổng năng suất tinh chế 1,2 triệu thùng mỗi ngày, Singapore đã
trở thành trung tâm tinh chế dầu đứng thứ 3 trên thế giới sau Houston và
Rotterdam, trung tâm thương mại dầu đứng thứ 3 trên thế giới sau New York và
London, và là thị trường nhiên liệu xăng dầu lớn một về số lượng trên thế giới. Từ
năm 1993, tại hòn đảo bé này có tới 18 nhà máy lọc dầu với sự có mặt của hầu hết
các hãng dầu khổng lồ BP, ESO, Shell, Caltex, Mobil, British Petroleum... với
công suất lọc dầu trên một triệu thùng một ngày.
Trong thập kỉ 70, ngành công nghiệp lọc dầu Singapore rất phát đạt nhưng từ
giữa những năm 80 hoạt động của ngành này có giảm sút. Từ chỗ chiếm 20% -
25% tổng giá trị xuất khẩu giảm xuống còn tương ứng là 15% - 16% vào năm
1989. Nguyên nhân là do tính thiếu ổn định của thị trường xăng dầu thế giới và do
các nước láng giềng như Malaysia và Indonesia cũng xây dựng cơ sở để cạnh
tranh. Tuy nhiên từ năm 1993 trở lại đây, ngành lọc dầu của Singapore đang dần
dần lấy lại phong độ và đang có chiều hướng phát triển tốt.
Bảng 1.1: Ngoại thương Singapore
T6/02 T7/02 T8/02 T6/02 T7/02 T8/02

Đơn vị: triệu S$
Tăng giảm so với cùng kỳ năm
trước (%)
Tổng thương mại 36.746 38.347 37.254 2,2 9,9 6,6
Xuất khẩu 18.503 19.774 19.307 0,2 13,2 9,2
Xuất khẩu nội địa 9.483 10.667 10.381 -1,0 14,5 9,4
Dầu 1.718 1.998 1.778 -3,2 5,3 -10,6
Sp khác 7.745 8.669 8.603 -0,6 16,8 14,7
Tái XK 9.040 9.107 8.926 1,6 11,8 9,0
Dầu 262 266 192 274,3 421,6 82,9
Sp khác 8.778 8.841 8.734 -0,6 9,2 8,1
Nhập khẩu 18.243 18.573 17.947 4,2 6,6 3,9
Dầu 2.569 2.472 2.342 8,4 -4,8 -9,7
Sp khác 15.674 16.146 15.605 3,5 8,6 6,3
* Nguồn:
1.2. Singapore - trung tâm chế tạo và lắp ráp các đồ điện tử
Chính sách đổi mới công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành kĩ thuật
cao được thi hành vào cuối những năm 70 đã làm bùng nổ công nghệ điện tử - bán
dẫn và vi mạch điện tử tại Singapore, biến nơi đây trở thành trung tâm sản xuất và
lắp ráp các mặt hàng như ti vi, máy vi tính lớn nhất Đông Nam Á. Những ưu thế
trong chính sách đầu tư đã giúp Singapore thu hút được các công ty hàng đầu thế
giới như: Sony, Sharp, Philips, Hewlett-packard, Compaq, Texas Instruments,
Motorola, Aiwa và Siemens,... vào các lĩnh vực mũi nhọn với công nghệ tiên tiến.
Theo thống kê hàng điện tử chiếm tới 50% giá trị của khu vực chế tạo, đóng góp
tới 22% sản phẩm quốc nội GDP của Singapore
8
. Kim ngạch xuất khẩu điện tử của
Singapore chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ thập kỷ 90, sản lượng công
nghiệp điện tử của Singapore là 5,2% tỷ trọng của cả thế giới và tỷ trọng đó hầu
như không thay đổi trong những năm gần đây

9
.
Hiện nay trước xu hướng phát triển kinh tế tri thức của nền kinh tế thế giới, với
những lợi thế về khoa hoc kĩ thuật, Singapore đã tỏ ra rất năng động trong việc chú
trọng đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao. Singapore đã chuyển dần cơ cấu
từ các dây chuyền chế tạo đòi hỏi tay nghề thấp sang các quá trình sản xuất tiên
tiến gồm cả R&D (nghiên cứu phát triển) và chế tạo trọn gói hàng điện tử. Vừa qua
công ty máy tính khổng lồ Hewlett-Packark của Mỹ, một trong những nhà đầu tư
8 Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái bình dương số1 (31) T2/2002
9 Korea Focus số 7/8/2000
nước ngoài đầu tiên của Singapore (từ năm 1968), đã khai trương một nhà máy sản
xuất lát bán dẫn trị giá 100 triệu USD. Đây là nhà sản xuất lát bán dẫn thứ hai của
Hewlett-Packark tại Singapore, sẽ sản xuất lát bán dẫn silicon được sử dụng trong
ngành phun mực của máy in vi tính. Nhà máy này sẽ mang lại 2 tỷ S$ (1,1 tỷ USD)
cho Singapore vào năm 2004. Tháng 4/2000, nhà máy sản xuất Lycra, một loại
nguyên liệu hoá học tổng hợp cao cấp dùng trong nhiều ngành chế tạo của tập đoàn
Dupont (Mỹ) đã được khai trương tại Singapore
10
.
1.3. Singapore - trung tâm dịch vụ thương mại thế giới
Với vị trí cực kỳ xung yếu trên tuyến đường biển từ đông sang tây, Singapore
ngay từ thời còn thuộc quyền cai trị của thực dân Anh đã sớm được xem là trạm
trung chuyển hàng hoá lớn nhất khu vực. Phát huy ưu thế đó, chính phủ Singapore
đã biến dịch vụ buôn bán chuyển khẩu ở nơi đây trở thành trung tâm dịch vụ
thương mại quốc tế.
Khi mới giành độc lập dân tộc, nền kinh tế do lịch sử để lại có cơ cấu thiên về
các hoạt động kinh tế buôn bán chuyển khẩu và dịch vụ tái xuất khẩu. Đây là hoạt
động đem lại phần lớn nguồn thu nhập cho quốc gia. Cùng với sự hình thành và
phát triển một loạt các ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao, một tỷ lệ lớn
trong xuất khẩu trực tiếp đã dần thay thế cho mậu dịch quá cảnh. Năm 1960, hàng

tái xuất chiếm 90% giá trị kim ngạch xuất khẩu còn hàng xuất khẩu trực tiếp chiếm
10%. Đến năm 1991, hàng tái xuất giảm nhiều trong khi đó hàng xuất khẩu trực
tiếp lại tăng nhanh, năm 1998 hàng tái xuất chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp (xuất khẩu nội địa) của Singapore ra thị
trường thế giới tháng 07/2000: 10.667 triệu S$ và tháng 08/2002: 10.381 triệu S$
11
.
10 Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương số 2 (37) T2/2002
11 Báo cáo tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu Á Thái bình dương, Bộ Thương mại
Mang đặc điểm là một nền kinh tế "hướng ngoại", đây là đầu cầu trung chuyển lớn
hàng hoá trong khu vực và sang các nước khác trên thế giới, nó không bị hạn chế
và không gò bó về cơ cấu xuất khẩu của thị trường nội địa với sự tham gia của
nhiều công ty đa quốc gia có năng lực tài chính hùng mạnh; Singapore là một thị
trường lớn, mặt hàng đa dạng từ hàng công nghiệp kĩ thuật cao đến nguyên liệu
nông, lâm, khoáng sản thô, thủ công mỹ nghệ... đều có thể kinh doanh cho nhiều
mục đích khác nhau như chế biến tại chỗ, tái xuất, chuyển khẩu. Tuy nhiên,
Singapore tập trung xuất nhập khẩu vào một số hàng có thế mạnh như cơ khí, điện
tử, tin học, hoá chất, thực phẩm chế biến. Năm 1998, kim ngạch các mặt hàng này
chiếm tới 73% kim ngạch xuất khẩu, đạt 134,4 tỷ S$. Kim ngạch nhập khẩu các
mặt hàng này cũng chiếm 62% kim ngạch nhập khẩu, đạt 122,6 tỷ S$. Một khối
lượng lớn các sản phẩm từ Malaysia, Indonesia và các nước trong khu vực (chủ
yếu là: gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hải sản, thủ công mỹ nghệ) vận chuyển quá
cảnh qua các kho cảng của Singapore trước khi gửi đi các thị trường Âu, Mỹ hay
Trung Quốc. Thêm vào đó là một số hàng công nghiệp từ Châu Âu, vải lụa từ Ấn
Độ, Trung Quốc được Singapore nhập vào rồi lại xuất khẩu đi khắp Châu Á
12
.
Với những hoạt động xuất khẩu như "chiếc bàn quay" giữa phương Tây và
phương Đông, đặc biệt với các bạn hàng lớn như Mỹ, Nhật, EU, Malaysia, Đài
loan... Singapore liên tục được xếp trong 10 nước đứng đầu thế giới về tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu trong những năm gần đây.
1.4. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng hải, cảng biển quốc tế
Nằm ở cuối cực Nam của eo biển Malacca nên Singapore đã trở thành điểm án
ngữ chiến lược trên con đường buôn bán bằng đường bằng đường biển giữa Ấn Độ
12 T i lià ệu đã dẫn
Dương và Thái Bình Dương; giữa Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á lục địa.
Tận dụng lợi thế này, cơ quan cảng Singapore (PSA) thành lập năm 1964 đã biến
đổi cảng Singapore thành một trong những cảng tốt nhất thế giới. Từ chỗ chỉ có vài
ba cảng nhỏ với đội tầu biển vài chục chiếc, đến năm 1998, đội tầu buôn của
Singapore đã lên đến 3.412 chiếc, tổng trọng tải là 22.025 triệu tấn (GT); trong đó
gần 5 triệu tấn là chuyên dùng chở dầu. Cảng Singapore là một trong ba cảng lớn
nhất thế giới về năng lực thông qua và lớn thứ ba thế giới về bốc rót dầu, với 26
cầu cảng container bốc xếp được 50 triệu TEU vào năm 2000. Ngoài ra cảng
Singapore còn cung cấp hàng loạt dịch vụ hàng hải như: hoa tiêu, tầu kéo, cung
ứng nhiên liệu, kiểm tra miễn phí ga và nước, lưu kho, cung cấp vật dụng cần thiết
cho tầu. Toàn bộ hệ thống cảng biển của Singapore hiện nay đã được tự động hoá
trong bốc dỡ hàng hoá cũng với một hệ thống đưa hàng bằng điện toán điều khiển
từ xa. Điều này giúp cảng có thể tiếp nhận 800 tầu vào bốc xếp cùng lúc; mỗi năm
tiếp nhận được 140.922 lượt tầu. Riêng năm 1998, bốc xếp được 858 triệu tấn.
Cảng Singapore còn là một trong những trung tâm chế tạo và sửa chữa tầu hàng
năm tiếp nhận khoảng 2.500 đến 3.000 chiếc tầu đến sửa chữa
13
.
Singapore đã xây dựng cảng container đầu tiên ở Đông Nam Á, và trong nhiều
năm qua đã cố gắng biến Terminal Tanjong Pagon thành một trong những Terminal
hữu hiệu nhất thế giới. Chương trình mở rộng cảng container Pasin Paijang có tổng
vốn đầu tư là 7 tỷ USD, hoàn thành vào năm 2002 sẽ càng nâng cao vai trò và chức
năng của cảng Singapore thành hải cảng trung tâm trung chuyển của khu vực. Với
diện tích kho có mái che 500.000 m
2

và 1,5 triệu m
2
bãi container, kho ngoài trời;
cảng thu hút 400 hãng tầu hoạt động, nối với 700 cảng biển khắp nơi trên thế giới.
13 Tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu Á Thái bình dương, Bộ Thương mại
Mười một năm liên tục cảng Singapore được Hiệp hội Hàng hải Quốc tế xếp là
cảng tốt nhất khu vực Châu Á
14
.
1.5. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng không quốc tế
Một trong những thành tựu nổi bật của kinh tế Singapore là sự phát triển hoàn
hảo của hệ thống dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện viễn thông, du lịch...) trong
đó ngành dịch vụ vận chuyển hàng không là ngành được phát triển một cách toàn
diện với quy mô lớn, công nghệ hiện đại và đang có sức cạnh tranh bậc nhất trên
thế giới.
Chính sách "Bầu trời mở" do cục hàng không dân dụng Singapore (Civil
Aviation Authority Singapore - CAAS) thi hành một cách tích cực trong hơn hai
thập kỉ qua đã biến hòn đảo này trở thành đầu mối vận chuyển và dịch vụ hàng
không quốc tế; đồng thời làm cho ngành hàng không dân dụng nước này trở thành
một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, làm ăn có hiệu quả và có sức cạnh tranh
tốt nhất trên thế giới. Với một diện tích nhỏ hẹp khoảng 647,5 km
2
, Singapore có
tới 4 sân bay lớn nhỏ trong đó có Changi Air Port là niềm tự hào của người dân
Singapore. Sân bay Changi khi mở cửa vào tháng 7 năm 1981 là sân bay lớn nhất
châu Á; nó đã giúp Singapore trở thành sân bay trung tâm của khu vực. Từ Changi
Airport có 65 hãng hàng không hoạt động trên 151 tuyến bay nối với 51 quốc gia/
khu vực; thực hiện gần 90.000 chuyến bay mỗi năm (số liệu đến năm 1998)
15
.

Ngoài Changi Airport, phi trường Seletar cũng khá nổi tiếng với các dịch vụ thuê
phi cơ và các hoạt động hàng không tổng quát.
Một trong những thành tích nổi bật của ngành hàng không Singapore là sự vươn
lên của hãng hàng không Singapore SIA (Singapore Air Lines). Được thành lập
14 Tổng quan thị trường Singapore - Vụ Châu Á Thái bình dương - Bộ Thương mại
15 T i lià ệu đã dẫn

×