Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

cơ sở lý luận về công tác đền bù tiệt hại giải phóng mặt bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.3 KB, 28 trang )

cơ sở lý luận về công tác đền bù tiệt hại giải phóng mặt bằng
Để tiến hành thực hiện các Dự án phát triển đất nước đòi hỏi phải có đất đai
làm mặt bằng thực hiện dự án. Như chúng ta đã biết đất đai là tài nguyên vô cùng
quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện sinh tồn và phát triển của mọi sinh vật trên
trái đất trong đó có con người. Đối với hoạt động kinh tế , đất đai là nguyên liệu
đầu vào không thể thiếu được. Đối với nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ
yếu và đặc biệt không thể thay thế được.Đối với các ngành khác như công nghiệp,
xây dựng, dịch vụ.... đất đai là nơi đặt trụ sở, là điểm đứng chân, là nơi cung cấp
nguyên liệu...để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để chuẩn bị cho các dự án dầu tư phát triển thì việc thu hồi đất đã giao cho
người sử dụng ổn định và lâu dài là vấn đề không tránh khỏi và gây lên những tác
động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.Do vậy để đảm bảo công
bằng xã hội và đảm bảo cuộc sống cho người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi
đất, phải thực hiện trách nhiệm đền bù thiệt hại về mọi mặt có liên quan bị ảnh
hưởng, cho người bị thu hồi đất.
I. định nghĩa về đền bù thiệt hại.
1. Đền bù thiệt hại ( bồi thường thiệt hại ) có nghĩa là trả lại tương xứng giá
trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể
khác .
Việc bồi thường thiệt hại này có thể vô hình ( xin lỗi) hoặc hữu hình ( bồi
thường bằng tiền, bằng vật chất khác....), có thể do các quy định của pháp luật điều
tiết, hoặc do thoả thuận giữa các chủ thể.
2. Đền bù thiệt hại ( bồi thường thiệt hại ) khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là hành
vi được quy định tại Hiến pháp năm 1992, tại điều 27 của Luật Đất đai và các văn
bản hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quy định trách
nhiệm của người được Nhà nước cho phép sử dụng đất ( được Nhà nước giao hoặc
cho thuê sử dụng) đối với người đang sử dụng đất nay bị thu hồi, bao gồm đền bù
thiệt hại về đất, tài sản trên đất và các khoản hỗ trợ khác.
Đền bù thiệt hại được hiểu là việc bù đắp bằng tiền hoặc bằng hiện vật những
thiệt hại về đất đai, nhà cửa, thu nhập và các tài sản khác do tác động trực tiếp hoặc


gián tiếp của dự án. Trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất
không chỉ bị thiệt hại về đất mà còn bị thiệt hại về các tài sản gắn liền với đất như
các công trình kiến trúc, vườn tược, cây cối, hoa màu....Vì vậy đền bù thiệt hại
không chỉ là đền bù thiệt hại về đất mà còn đền bù thiệt hại cả về tài sản gắn liền
trên đất.
Đền bù thiệt hại Giải phóng mặt bằng có thể được hiểu là việc chi trả, bù đắp,
những tổn thất về đất đai, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật kiến trúc,
công trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối, hoa màu, mồ mả và chi phí để ổn định đời
sống sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất đai, sở hữu tài sản
trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Về bản chất của đền bù thiệt hại Giải phóng mặt bằng, là việc đền bù thiệt hại
những tổn thất do việc Nhà nước có Quyết định thay đổi chức năng hay mục đích
sử dụng của các loại đất.
3. Sự cần thiết phải đền bù thiệt hại khi Giải phóng mặt bằng .
Theo điều 1 Luật đất đai năm 1993 viết “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê
đất”. Điều 2 viết: “ Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp,
lâm ngghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có đất để sản xuất.”
Xét về nguồn gốc đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động. Trong
quá trình phát triển của xã hội, đất đai được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nên đất đai không thuộc sở hữu của
riêng một ai mà là của toàn xa hội. Quỹ đất đâi của nước ta ngày nay là thành quả
của việc khai hoá bồi bổ, cải tạo và bảo vệ của bao nhiêu thế hệ. Do đó đất đai
thuộc sở hữu toàn dân , Nhà nước là người đại diện thống nhất quản lý.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Quyền sở hữu toàn dân thể hiện đó là quyền sở hữu về mặt pháp lý ( Nhà nước đề
ra và quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử
dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất thực tế

và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt xét trên cả phương diện tự nhiên, kinh
tế- xã hội. Vì vậy, Nhà nước phải nắm quyền sử dụng đất đai về mặt pháp lý, nắm
quyền quản lý và quyền sở hữu đất đai. Nhà nước phải xây dựng chế độ sở hữu đất
đai cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội nhằm tránh tình trạng đất đai bỏ hoang
hoá vô chủ, sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân từ đó đảm bảo đất đai có chủ sử dụng thật sự và cụ thể. Nhà
nước giao quyền quản lý đất đai đồng thời đưa ra những quy định quyền và nghĩa
vụ cụ thể về quản lý và sử dụng đất đai.
Nhằm phát huy tốt hơn chức năng quản lý đất đai theo cơ chế mới, phù hợp
với điều kiện mớicủa sự phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường, ổn định
tình hình đất đai vốn rất phức tạp do lịch sử để lại. Luật đất đai cũng quy định khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng Nhà nước có trách nhiệm đền bù thiệt hại.
Như vậy, Luật đất đai năm 1993 đã quy định rõ quyền và lợi íchcủa người sử
dụng đất cũng như trách nhiệm của Nhà nước khi thu hồi đất. Đất đai có vai trò vô
cùng quan trọng đối với xã hội loài người, nó là điều kiện cho sự sống của động
vật, thực vật và con người trên trái đất. Nó là cơ sở của làng mạc, thành phố, các
công trình công nghiệp, hệ thống giao thông. Là chỗ dựa, là nền tảng để xây dựng
nhà cửa, các công trình kiến trúc và để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh phục vụ cho đời sống con người. Đất đai cung cấp nguyên liệu, sản phẩm từ
đất cho hoạt động sản xuất và đời sống con người. Nó là tư liệu sản xuất đặc biệt
đối với ngành nông nghiệp, không thể thay thế được. Nó không chỉ là chỗ đứng,
chỗ dựa để lao động, là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng mà còn là nơi
chuyển dần hầu hết các tác động của con người vào cây trồng.
Qua phân tích trên, có thể nói rằng đất đai là tài sản vô cùng quý giá của mỗi
quốc gia, mỗi cá nhân trong quần thể xã hội. Nó là nơi để xây dựng các công trình
kiến trúc phục vụ các nhu cầu và lơị ích thiết thực của con người. Do đó Nhà nước
quy định các quyền và lợi ích của người sử dụng đất đai cũng như trách nhiệm
phải đền bù thiệt hại khi thu hồi đất của Nhà nước đảm bảo mọi người đều có đất

để sống và để sản xuất là điều kiện hết sức đúng đắn.
Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991 đã quy định: Công dân thực hiện quyền có
nhà ở bằng việc tạo lập hợp pháp nhà ở cho mình hoặc thuê nhà ở của chủ sở hữu
khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu
nhà ở của các cá nhân và các chủ sở hữu khác. Nhà ở cũnglà một trong những loại
tài sản vô cùng quý giá của mỗi con người. Nhà ở là nơi để mỗi con người đi về
nghỉ ngơi, tránh nắng, mưa, bão là nơi làm việc, tiến hành sản xuất của cải vật chất,
tái sản xuất sức lao động. Để xây dựng nhà cần một khoản tiền lớn, tốn kém nhiều
công sức, hơn nữa nhà đất thường gắn liền với nhau nên khi Nhà nước thu hồi đất
đồng thời thu hồi cả nhà trên đất đó. Vì vậy, công tác đền bù thiệt hại cho người sở
hữu nhà ở là một tất yếu. Mặt khác bằng những quy đinh của mình Nhà nước xác
định tính hợp pháp của đất đai và nhà ở, từ đó làm căn cứ xét đền bù thiệt hại tránh
tình trạng đền bù sai, thiếu gây lãng phí tiền của của nhân dân.
II. các chính sách của nhà nước về đền bù thiệt hại cho người bị thu hồi đất
khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng.
Trên thực tế, các chính sách liên quan đến vấn đề thu hồi đất cho các dự án
phát triển đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm thể chế hoá bằng các
văn bản pháp luật và liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn
của từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Những quy định áp dụng
khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng nằm ở nhiều điều khoản, trong các văn bản pháp luật
khác nhau. Những văn bản riêng và quy định cụ thể việc bồi thường ( đền bù ) thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất cũng đã được ban hành.
Về hình thức văn bản: những văv bản có nội dung quy định trực tiếp hoặc có
liên quan đến vấn đề thu hồi đất, Giải phóng mặt bằng gồm rất nhiều loại, với tính
chất pháp lý khác nhau, từ văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp cho đến
các bộ luật, các văn bản pháp quy của Chính phủ, các văn bản của các Bộ, Ngành
và các văn bản do Thành phố Hà Nội ban hành.
Trên cơ sở phân chia theo giai đoạn sửa đổi, bổ sung pháp luật về đất đai, thì

đề tài phân chia giai đoạn nghiên cứu ra thành 2 giai đoạn ( trước năm 1998 và từ
năm 1998 đến nay).
A. Giai đoạn trước năm 1998.
1. Nghị định 151/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/4/1959 quy định
thể tạm thời về trưng dụng ruộng đất, là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan đến
việc đền bù và tái định cư bắt buộc ở Việt Nam. Nghị định này quy định những
nguyên tắc cơ bản trong việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân cho việc xây dựng
những công trình do Nhà nước quản lý. Trong đó, nguyên tắc cơ bản nhất được
thừa nhận khi trưng dụng ruộng đất là chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống
của có ruộng đất trên cơ sở bồi thường và giúp giải quyết công ăn việc làm. Việc
bồi thường được thực hiện bằng hình thức “ Đất đổi đất” hoặc bằng tiền bằng 1-4
sản lượng thường niên của đất trưng dụng. Đối với nhà cửa, vật kiến trúc... thì
được giúp đỡ để xây dựng cái khác, đối với hoa màu đã trồng mà chưa thu
hoạch ....phải được bồi thường tiệt hại đúng mức. Đối với mồ mả, căn cứ vào tình
hình cụ thể phong tục tập quán của từng địa phương mà giúp họ số tiền thích đáng
làm phí tổn di chuyển.
Có thể nói, những nguyên tắc cơ bản của việc đền bù thiệt hại trong Nghị định
151/TTg là rất đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm
1960. Tuy nhiên, Nghị đinh chưa quy định cụ thể mức đền bù thiệt hại mà chủ yếu
dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế- xã hội, nhu cầu lấy đất xây dựng
tăng lên, việc sử lý các mối quan hệ và các vấn đề liên quan khi Nhà nước thu hồi
đất cũng phức tạp hơn. Nhiều văn bản mới đsã ra đời nhằm cụ thể hoá Nghị định
151/TTg.
2. Ngày 11/01/1970, Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 1792/TTg ‘’quy
định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa
màu do nhaan dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố ‘’. Trên
nguyên tắc ‘’phải đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của nhân
dân’’. Đây thực sự là bước chuyển trong nhận thức đối với người bị ảnh hưởng,
nếu như tại Nghị định 151/TTg có ghi ‘’chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống

của người có ruộng đất’’ thì tại thông tư này, Nhà nước đã thừa nhận quyền được
đền bù thiệt hại thoả đáng của những người bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, Thông tư này đã quy đinh rõ mức đền bù thiệt hại về nhà ở, cây cối
hoa màu, ví dụ đất đai vùng đồng bằng chia làm 4 loại, vùng trung du, đồi núi chia
làm 5 loại, mỗi loại lại có mức giá tối đa và tối thiểu. Đối với nhà cửa thì căn cứ
giái trị sử dụng, diện tích mà định giá bồi thường....
3. Luật đất đai năm 1988 không quy định cụ thể việc đền bù thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất, mà chỉ nêu tại phần nghĩa vụ của người sử dụng đất (Điều
48): “Đền bù thiệt hại thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho
mình, bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị đất ddos
theo quy định của pháp luật”.
Thực tế các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai 1988 không hướng dẫn
nội dung về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, mà chỉ tập trung vào việc
đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp,đất có rừng khi chuyển sang mục đích
khác.Thực chất đây lại là qui định việc thưc hiện nghĩa vụ với Nhà nuớc khi đuợc
giao đất (mà sau này, khi thực hiện luật đất đai1993, được coi là tiền sử dụng đất)
trong đó có phần nhỏ được phân bổ lại cho người bị thu hồi đất.
4. Quyết định số 186 /HĐBT ngày 31/5/1990 về đền bù thiệt hại đất nông
nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.
Căn cứ để tính mức thiệt hại về đất nông nghiệp và đất có rừng theo quyết
định này là diện tích, chất lượng và vị trí đất. Về chất lượng đất nông nghiệp căn
cứ theo hạng đất tính thuế, về vị trí địa lý được chia thành 4 khu vực ( nội thành
phố, thị xã, thị trấn, đất ven đô, đất ven đường giao thông và đất vùng nông thôn) .
Mỗi hạng đất tại mỗi vị trí đều quy định giá tối đa, tối thiểu. Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố quy định cụ thể mức đền bù thiệt hại thuộc địa phương mình sát với giá
đất thực tế ở địa phương, nhưng không thấp hoặc cao hơn khung định mức.
Tại quyết định này, mức đền bù còn được phân biệt theo thời hạn sử dụng đất
lâu dài lâu dài hay tạm thời; đồng thời quy định việc miễn giảm tiền đền bù đối với
việc sử dụng đất để xây dựng hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, đường sắt. Toàn
bộ tiền đền bù nộp ngân sách Nhà nước và được điều tiết cho ngân sách Trung

ương 30%, địa phương 70% để sử dụng vào việc khai hoang phục hoá... và định
canh và định cư cho nhân dân vùng bị thu hồi đất chứ không trả trực tiếp cho người
bị thu hồi đát .
Những văn bản trên đã có vai trò to lớn trong quá trình Nhà nước thu hồi đất
vào mục đích phát triển kinh tế- xã hội trong những năm chiến tranh và giai đoạn
khôi phục kinh tế sau khi đã thống nhất đất nước. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ đổi
mới, trước những yêu cầu phát triển ngày càng lớn, nhu cầu sử dụng đất tăng cao,
không chỉ là đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho phát triển công nghiệp, xây dựng đô
thị, mà ngay cả đất đô thị cũng cần được thu hồi để mở rộng giao thông, phát triển
hạ tầng, đáp ứng đòi hỏi quá trình hiện đại hoá đô thị và phát triển bền vững kinh
tế- xã hội. Bởi vậy yêu cầu dặt ra là phải có khung pháp lý cao hơn, với phạm vi
điều chỉnh rộng hơn phù hợp với các đối tượng đa dạng hơn, nội dungh cụ thể hơn
cvà quan trọng hơn cả là thích ứng với thực tiễn.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ra đời, công tác quản lý đất đai
được thực hiện bằng hai biện pháp hành chính và kinh tế.
Hiến pháp 1992 đã công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất của các tổ chức,
cá nhân và quyền sở hữu cá nhân về tài sản và sản xuất cụ thể:
Tại Điều 17, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu đối với đất đai: “ Đất đai,
rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời.... đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Tại điều 58, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu cá nhân: “ Công dân có
quyền sở hữu thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu
sản xuất....Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân”.
Luật đất đai 1993 đã cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992 về đất đai
thông qua việc giao đất, cho thuê đất, chế độ quản lý, sử dụng đúng mục đích, xác
định thời hạn giao đất, cho thuê đất, thẩm quyền thu hòi và giao, cho thuê đất; hạn
mức sử dụng các loại đất và quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân sử dụng đất.
Luật đất đai 1993 thực sự là văn bản quan trọng đối với quyền sử dụng đất,

chuyển quyền sử dụng đất và đền bù đất đai, tài sản gắn liền với đất.
Để tạo điều kiện cho người dân yên tâm sử dụng đất và đầu tư nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, tại Điều 3 Luật đất đai có nêu việc Nhà nước bảo hộ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời quy định các quyền của người sử
dụng đất đối với thửa đất mà mình đang quản lý, sử dụng. Điều 12 của Luật đất đai
quy định việc Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử5
dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất,
bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi. Khung giá các loại đất đối với từng vùng và
theo từng thời gian do Chính phủ quy định.
Điều 27 của Luật đất đai có quy định việc thu hồi đất và việc bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi cíh
quốc gia, lợi ích công cộng. Việc thu hồi đát phải được thông báo trước cho người
đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian,kế hoạch di chuyển, phươngán bồi
thường thiệt hại.(Điều 28).
tại các Điều 73 và 79 Luật đất đai quy định cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất, một trong những quyền và nghĩa vụ là được Nhà nước
bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình,
được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi; Đền bù cho người có đất bị thu hồi
để giao cho mình và giao lại cho Nhà nước khi có quyết đinh thu hồi.
Như vậy, đất đai từ chỗ là sở hữu toàn dăn, với quyền sử dụng thuộc Nhà
nước hoặc tập thể thì nay quyền sử dụng đất còn được trao cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất được nới rộng gồm cả quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp.
Người sử dụng đất ổn định được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận thì
được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp thật cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh, và vì lợi ích quốc gia công cộng, Nhà nước thu hồi
đất, trưng mua, trưng dụng có bồi thường tàI sản cho người sử dụng đất bị thu hồi.
Do vậy trong giai đoạn này chính sách GPMB đã có bước phát triển mới, trong đó
có việc Nhà nước sử dụng công cụ giá đất khi tính đền bù thiệt hại cho người sử
dụng đaats khi bị thu hồi thể hiện nguyên tắc cơ bản trong công tác đền bù là bên

cạnh lợi ích chung của Nhà nước, phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân.
5. Nghị định 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán kinh doanh
nhà ở, quy định các vấn đề về bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người dang
thuê, kinh doanh nhà ở, mua bán nhà ở không nhằm mục đích kinh doanh, quản lý
Nhà nước các hoạt động mua bán kinh doanh nhà ở.
Tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định có quy định về giá đất ở khi chuyển quyền
sử dụng , khi thực hiện bán nhà theo Nghị định này, là 40% (đối với nhà một tầng,
hoặc nhà nhiều tầng một hộ ở) và 10% ( đối với nhà ở nhiều tầng, nhiều hộ ở), so
với khung gia scác loại đất do UBND tỉnh, Thành phố ban hành theo khung giá do
Nhà nước quy định.
Đối với mức diện tích đất ở khi thực hiện bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước và
khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp không có
giaays tờ hợp pháp, hợp lệ về quyền sử dụng đất, căn cứ Nghị quyết của HĐND
Thành phố số 76/1998/NQ-HĐ, ngày 23/7/1998, UBND Thành phố ban hành
Quyết định số 61/1998/QĐ-UB ngày 04/11/1998, là 120m
2
/hộ (đối với các loại đất
thuộc 4 quận nội thành cũ, từ vành đai2 trở vào trung tâm); 180m
2
/hộ (đối với đất
từ vành đai 2 trở ra).
Như vậy, đối với các trường hợp trên, UBND Thành phố đã vận dụng thực
hiện theo hướng : Nếu bị thu hòi đất thì việc đền bù thiệt hại về đất sẽ là 60% tiền
sử dụng đất (đối với phần đất nằm trong hạn mức giao đất nêu trên, vì nếu được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chủ hộ phải nộp 40% tiền sử dụng đất);
đối với phần còn lại không được đền bù, vì nếu được chuyển mục đích sử dụng đất
thì phần này phải nộp 100% tiền sử dụng đất.
6. Nghị định số 90/CP do Chính phủ ban hành ngày 17/8/1994 là văn bản đầu
tiên của thời kỳ đổi mới, quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

Phạm vi áp dụng chính sách đền bù được quy định tại Điều 1: “ Quy định này chỉ
áp dụng để đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng…” thay thế tất cả các văn
bản chính sách trước đây của Nhà nước về đền bù, Giải phóng mặt bằng.
Về đất an ninh, quốc phòng, Luật đất đai đã quy định cụ thể tại Điều 65: “ Đất
sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, là đất dùng để xây dựng
đường giao thông, trường học, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, bệnh viện, chợ,

×