Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Kết quả điều tra về một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa tại TTNC Bò và ĐC Ba Vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.51 KB, 18 trang )

Kết quả điều tra về một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa tại TTNC Bò và ĐC
Ba Vì
1. Cơ cấu đàn bò của trung tâm
Bảng 1a. Cơ cấu đàn bò sữa của trung tâm năm 2003 và 2004
Độ tuổi
Năm
Bê Lỡ Tơ Sinh sản Tổng %
Năm 2003
F
1
3 3 5 14 55 13.96
F
2
9 13 19 111 152 38.58
F
3
17 41 24 56 138 35.03
Jersey 3 1 4 19 27 6.85
HF 2 3 7 10 22 5.58
Tổng 394 100
Năm 2004
F
1
5 4 4 48 61 14.32
F
2
8 10 14 123 155 36.38
F
3
15 28 41 68 152 35.68
Jersey 4 3 3 21 33 7.75


HF 6 2 5 14 25 5.87
Tổng 4263 100
Ba Vì là vùng đất nằm phía tây đông bắc của tỉnh Hà Tây, có điều kiện tự
nhiên cũng như khí hậu khá thuận lợi cho việc chăn nuôi bò sữa. Vì vậy, trong
những năm gần đây, với chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa, đàn
bò sữa ở Ba Vì phát triển khá nhanh cả về số lượng cũng như chất lượng. Trong
đó, TTNC bò và ĐC Ba Vì (thuộc vùng núi Ba Vì ) chiếm chủ yếu. Năm 2001 đàn
bò sữa của trung tâm chỉ có 240 con, năm 2004 là 426 con bò sữa
2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại
trung tâm.
2.1 Tuổi phối giống lần đầu
Qua theo dõi và điều tra trên địa bàn tại trung tâm, chúng tôi đã xác định
được tuổi phối giống lần đầu của chúng. Kết quả được trình bày ở bảng 2.
Qua bảng 2 chúng tôi thấy, tuổi phối giống lần đầu giữa 3 nhóm bò có sự
khác nhau. Nhóm bò F
1
là 18.87 ± 0,81 tháng trên 26 con bò theo dõi, nhóm bò F
2
là 16.68 ± 0,63 tháng trên 43 con, nhóm bò F
3
là 17.32 ± 0,77 tháng trên 37 con.
Sự sai khác về tuổi phối giống lần đầu ở cả 3 nhóm trên có thể là do nguyên
nhân về điều kiện nuôi dưỡng. Theo Nguyễn Trọng Tiến 1991{ }, mức độ dinh
dưỡng thấp sẽ kìm hãm sự sinh trưởng của cơ thể và sự còi cọc sẽ thường đi kèm
với sự thành thục về tính chậm chạp. Khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa
nuôi đại trà tại Ba Vì (Nguyễn Kim Ninh, 1994 []) đã tiến hành nuôi thí nghiệm lô
bê F
1
từ 7 - 24 tháng tuổi thì thấy tuổi phối giống lần đầu là 19,06 ± 1,14 tháng.
Còn tuổi phối giống lần đầu của bò vàng Việt Nam là 22,5 tháng (Lê Xuân Cương,

1993 [ ]). Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] nghiên cứu trên đàn bò F
1
và F
2
của khu
vực Ba Vì thì tuổi phối giống lần đầu tương ứng là 26,4 và 27,4. Như vậy tuổi
phối giống lần đầu ở đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm có được rút ngắn hơn so
với bò vàng Việt Nam và đàn bò lai hướng sữa được nuôi cùng khu vực các năm
trước đây.
2.2. Tuổi đẻ lứa đầu.
Qua điều tra và theo dõi về tuổi đẻ lứa đầu, chúng tôi có kết quả sau.
Kết quả được trình bày ở bảng 2.
Qua bảng 2 chúng tôi thấy tuổi đẻ lứa đầu của F
2
sớm nhất là 25.89 ± 0.42
tháng, khi điều tra trên 43 con, của giống bò F
3
là 27.12 ± 1.07 tháng trên 37 con,
của nhóm bò F
1
là 28.72 ± 0.73 tháng trên 26 con.
Sở dĩ có sự sai khác như vậy là do nhiều nguyên nhân ttác động đã ảnh
hưởng đến tuổi đẻ lứa đầu, đặc biệt là yếu tố về dinh dưỡng và giống. Nhưng trong
cùng một điều kiện nuôi dưỡng thì giống bò F
2
(có 75% máu bò HF) lại có tuổi đẻ
lứa đầu thấp hơn giiống bò F
3
(có 87,5% máu bò HF) là vì một phần do chế độ
dinh dưỡng và điều kiện ngoại cảnh. Về ngoại cảnh thì giống bò F

2
thích nghi tốt
hơn F
3
. Về dinh dưỡng thì giống bò F
3
đòi hỏi phải có chề độ dinh dưỡng cao hơn
nhung do ở Trung tâm thường chăm sóc cùng một chế độ giưa các giống bò lai vì
vậy giống bò F
2
phát huy tiềm năng sinh học tốt hơn.
Theo Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, 1998 [] cho biết tuổi đẻ lứa đầu 3
nhóm bò F
1,
F
2
, F
3
nuôi ở thành phố Hồ Chí Minh trung bình là 26,88 tháng, cao
nhất ở nhóm bò F
2
là 27,17 tháng, nhóm bò F
1
là 26,27 tháng và thấp nhất là ở
nhóm F
3
là 26,63 tháng. Theo các tác giả Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Thưởng,
Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Lạp, Tăng Xuân Lưu, 1994 [] nghiên cứu trên đàn bò
của Trung tâm, tuổi đẻ lứa đầu nhóm F
1

là 32,10 ± 1,12 tháng

và nhóm bò F
2

30,80 ±1,71. Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] tuổi đẻ lứa đầu ở nhóm F
1
là 38,47 ±
0,97 tháng, ở nhóm bò F
2
là 38,87 ± 1,13 tháng. Sự sai khác giữa các nhóm bò trên
ngoài yếu tố về giống thì nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chế độ quản
lý, dinh dưỡng, phương thức chăn nuôi, điều kiện ngoại cảnh...
Điều này cũng phù hợp với nhận xét của nhiều tác giả. Theo Trịnh Quang
Phong,1996 [ ] nghiên cứu trên đàn bò F
2
, kết quả nghiên cứu của Lê Viết Ly, Vũ
Văn Nội, Võ Văn Sự, Vũ Chí Cương và cs, 1997 [ ] cho biết bò HF nuôi ở nông
trường Mộc Châu trong hộ gia đình có tuổi đẻ bình quân qua các năm 1992, 1993,
1994, 1995 tương ứng là 39,5, 41,7, 36,5 và 36,6 tháng. Nhưng nuôi ở đàn giống
với chế độ chăm sóc nuôi dưỡng cao hơn đạt bình quân tương ứng các năm 37,3,
36,9, 35,3 và 35,2 tháng. Như vậy đàn bò lai của Trung tâm có tuổi đẻ lứa đầu thấp
hơn so với các năm trước ở Mộc Châu và TP. HCM và thấp hơn các năm trước
trên cùng khu vực nhưng vẫn còn ở mức cao.
2.3. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Thời gian xuất hiện động dục lại sau khi đẻ là một chỉ tiêu quan trọng ảnh
hưởng tới khoảng cách giữa hai lứa đẻ và năng xuất sinh sản của chúng. Kết quả
thu được thể hiện ở bảng 3.
Qua bảng 3 cho thấy rằng thời gian động dục lại sau khi đẻ giữa 3 nhóm có
sự sai khác nhau rõ rệt. ở nhóm bò F1 trung bình là 91.33 ± 6.31 ngày trên 32 con

theo dõi, nhóm bò F2 là 98.14 ± 4.14 ngày trên 51 con, nhóm bò F3 là 116.09 ±
7.83 ngày trên 47 con.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Hoàn, Hoàng Mạnh Quân và ctv,
1994[] khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa ở Đà Nẵng có thời gian động dục
lại sau khi đẻ trung bình là 6,32 ngày. Tác giả Tiết Hồng Ngân và cs, 1993 [] khi
nghiên cứu trên bò Red Sindhi nuôi ở nông trường Việt - Mông cho biết thời gian
động dục lại sau khi đẻ là 7,36 tháng. Như vậy thời gian động dục lại sau khi đẻ
của 3 nhóm bò tại Trung tâm cao hơn so với đàn bò lai được nuôi ở Đà Nẵng. Còn
so với bò Red Sindhi nuôi ở nông trường Việt - Mông thì thấp hơn rất nhiều.
Như vậy, thời gian động dục lại sau khi đẻ của đàn bò lai hướng sữa tại
Trung tâm còn rất cao. Thời gian này cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như
chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ quản lý, tác động kĩ thuật, sản lượng sữa... vì vậy cần
phải có biện pháp rút ngắn thời gian động dục lại sau khi đẻ.
2.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ.
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng trong sinh sản nó là thước đo khả năng
sinh sản, sức sản xuất của bò lai hướng sữa.
Qua điều tra và theo dõi đàn bò lai ở Trung tâm chúng tôi thu được kết qua
sau.
Kết quả được trình bày ở bảng 3:
Qua bảng cho thấy khoảng cách giữa hai lứa đẻ của nhóm bò F
1
là 402.63 ±
9.88 ngày trên 30 con, của nhóm F
2
là 413.61 ± 10.71 ngày trên 46 con, nhóm F
3

428.72 ± 13.63 ngày trên 34 con.
Theo Nguyễn Kim Ninh, 1994 [] trên đàn bò F
1

nuôi trong điều kiện thức ăn
ổn định, khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 416,6 ± 10,68 ngày. theo Lê Viết Ly, Vũ
Văn Nôi, Vũ Chí Cường và cs, 1997 [] nghiên cứu trên đàn bò HF tại Mộc Châu
năm 1995 là 456 ngày. Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 nghiên cứu trên đàn bò F
1
và F
2
tại khu vực Ba Vì có khoảng cách lứa đẻ tương ứng là 423,98 ± 5,74 và 438,55
±7,80 ngày. Theo Lê Xuân Cương, 1993 [] khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò
vàng Việt Nam là 456 ngày. Như vậy đàn bò lai của Trung tâm có khoảng cách
giữa hai lứa đẻ trung bình thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên,
chúng tôi nghĩ là phù hợp bởi vì khoảng cách giữa hai lứa đẻ, ngoài yếu tố di
truyền (giống) nó còn phụ thuộc vào chăm sóc nuôi dưỡng, yếu tố ngoại cảnh. Mà
ở Trung tâm (thuộc vùng núi Ba Vì) có khí hậu rất thuận lợi, mặt khác trong những
năm gần đây được đầu tư, nâng cấp, chăm sóc đàn bò lai rất cao.
2.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai,
Hệ số phối giống là số lần phối để một bò có chửa. Trong chăn nuôi đòi hỏi
cấn có hệ số phối giống thấp và tỷ lệ thụ thai cao là tốt nhất. Hệ số phối giống bằng
1 và tỷ lệ thụ thai đạt 100% là lý tưởng nhất nhưng thực tế khó đạt được chỉ số này.
Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai cao hay thấp còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như
chất lượng tinh, kỹ thuật dẫn tinh, thời điểm dẫn tinh, tình trạng sinh lý của gia
súc...
Tại Trung tâm, qua thời gian theo dõi và điều tra chubngs tôi thu được kết
quả sau.
Kết qủa được trình bày ở bảng 4
Bảng 4.Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
Chỉ tiêu
Nhóm
Số con phối có
chửa (con)

Số lần phối
(lần)
Hệ số
(lần)
Tỷ lệ thụ thai
(%)
F
1
38 64 1.68 59.38
F
2
92 165 1.79 55.76
F
3
54 114 2.11 47.37
Tổng 184 343 1.86 54.17
Qua bảng 4 chúng tôi thấy hệ số phối giống bình quân tại trung tâm là 1.86
lần và tỷ lệ thụ thai bình quân là 54.17%. Theo Lê Xuân Cương và ctv 1993 [] số
lần phối giống trung bình của bò sữa miền Nam là 1.78 lần, tỷ lệ thụ thai 57.17%.
Theo Nguyễn Kim Ninh 1994 [] hệ số phối giống trên bò lai F
1
là 1.67 lần, tỷ lệ thụ
thai là 58.03%
Theo Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, Bùi Thị Đức, Nguyễn Thanh Bình,
1998 hệ số phối giống bò lai hướng sữa tại thành phố Hồ Chí Minh là 1.68 lần (bò
F
1
) và 2.07 lần (bò F
3
)

Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] khi nghiên cứu trên đàn bò lai thuộc Ba Vì có
hệ số phối giống trung bình là 1.78 và tỷ lệ thụ thai trung bình là 56.64%
Như vậy kết quả chúng tôicó chênh lệch không đáng kể so với kết quả của
các tác giả nghiên cứu trên. Chúng tôi nghĩ đó là phù hợp nhưng hệ số phối giống
còn ở mức cao và tỷ lệ thụ thai còn thấp. Do vậy cần vận dụng các biện pháp kỹ
thuật để giảm hệ số phối giống, nâng cao tỷ lệ thụ thai nhằm nâng cao khả năng
sinh sản của chúng.
2.6.Sản lượng sữa trên một chu kỳ và tỷ lệ bê cái trên bê cái.
Ttrong chăn nuôi, để đạt được hiệu quả kinh tế ngoài các chỉ tiêu trên thì sản
lượng sữa và tỷ lệ đẻ bê cái cung rat quan trọng, nò mang lai giá trị kinh tế không
nhỏ trong chăn nuôi cũng như trong sinh sản. Năng suất sữa ngoài yếu tố về giống
nó quyết đinh nó còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác như chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng, khẩu phần ăn cho từng thời kỳ, đặc biệt là khâu vệ sinh để tránh hiện tượng
viêm vú.
Qua thời gian theo dõi và điều tra đàn bò lai tại trung tâm chúng tôi thu được
kết quả sau. Kết quả được trình bày ở bảng 5
Qua bảng 5 cho thấy nhóm bò F
1
đạt năng suất sữa bình quân là 3075,54 kg
và cao nhất là nhóm bò F
3
đạt 3820 kg/chu kỳ
II. Kết quả điều tra một số bênh sản khoa thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại
TTNC bò và ĐC Ba Vì.
2.1. Bệnh thường gặp trong thời gian mang thai.

×