MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
ĐẤT ĐÔ THỊ
I-QUAN ĐIỂM SỬ DỤNG ĐẤT.
1-Quan điểm tập trung thống nhất quản lý của Nhà nước.
Đất đai là tài sản quốc gia, là lãnh thổ bất khả xâm phạm của cả dân tộc. Vì
vậy không thể có bất kỳ một cá nhân nào hay một nhóm người nào có thể chiếm
hữu tài sản chung thành của riêng và tùy ý áp đặt quyền định đoạt cá nhân đối với
tài sản chung đó. Chỉ có Nhà nước-người đại diện hợp pháp duy nhất của mọi tầng
lớp nhân dân mới được giao quyền quản lý tối cao về đất đai. Trên phương diện
này chúng ta có thể thấy tất cả các quốc gia trên thế giới từ xưa tới nay, Nhà nước
đều thực hiện quản lý tập trung thống nhất về đất đai.
Đối với nước ta đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Điều này đã được
ghi nhận trong Điều 1 Luật đất đai năm 1993 của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam: ’’Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Mặt khác, đất đai là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, của các doanh
nghiệp là nền tảng của các tổ chức chính trị xã hội khác, được Nhà nước giao
quyền tổ chức quản lý, sử dụng với mục tiêu tăng cường quản lý chặt chẽ và sử
dụng hợp lý hiệu qủa đất đai. Tuy nhiên quyền sử dụng đất phải trong khuôn khổ
pháp luật và quản lý thống nhất của Nhà nước.
Quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước được thực hiện theo Luật
pháp và được thể hiện trên nhiều mặt như: đại diện chủ quyền quốc gia về lãnh
thổ, quyền giao đất sử dụng lâu dài cho cá nhân và các tổ chức kinh tế-xã hội,
quyền cho các tổ chức nước ngoài thuê đất, quyền xác định khung giá đất, kiểm tra
giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp Luật về sử dụng đất đai...
Để thực hiện quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, trước hết Nhà
nước phải nắm và sử dụng tốt các công cụ quản lý cơ bản của mình như: quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, công cụ tài chính và đặc biệt là công cụ Luật pháp
và các chính sách vĩ mô khác. Cùng với các công cụ quản lý, việc Nhà nước nắm
và sử dụng các phương pháp quản lý thích hợp cũng là điều kiện để duy trì việc
bảo đảm quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai.
Thực tế đã cho chúng ta thấy, nếu Nhà nước sử dụng tốt công cụ quản lý và
phương pháp quản lý thì quyền quản lý tập trung thống nhất về đất đai được duy trì
và bảo đảm ở mức độ cao. Ngược lại, có những thời điểm nào đó, các công cụ
quản lý không tốt, không đồng bộ, các phương pháp quản lý không mềm dẻo thì
quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai bị giảm đi, tình trạng
tranh chấp lấn chiếm và nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình sử dụng đất đai sẽ
tăng lên. Những tồn tại trên đây có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả không tốt về trật tự
và an toàn xã hội, hiệu quả sử dụng đất đai.
2-Quan điểm về lợi ích.
Đất đai là nhân tố phản ánh quan hệ lợi ích của cá nhân, tập thể và lợi ích của
cộng đồng xã hội. Đối với các tổ chức kinh tế, đất đai là yếu tố sản xuất còn đối
với các tổ chức kinh tế xã hội đất đai là cơ sở, là nền móng để tồn tại và phát triển.
Do vậy tổ chức nào cũng cần có đất đai cho mình cũng như cho các thành viên của
mình. Mặt khác đất đai là tài sản quốc gia, vì vậy nó phản ánh lợi ích chung của xã
hội.
Nói đến lợi ích trước hết phải nói đến lợi ích của con người, vì hoạt động của
con người là hoạt động vì lợi ích. Do vậy chú ý đến lợi ích con người là nhằm phát
huy đầy đủ tính tích cực chủ động, sáng tạo của con người. Lợi ích không chỉ là
động lực, mà quan trọng hơn nó là phương tiện của quản lý dùng để khuyến khích
con người.
Tuy nhiên, lợi ích về đất đai không chỉ liên quan đến lợi ích cá nhân mà nó
càn quan hệ với lợi ích tập thể, lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy phải kết hợp hài hoà
các lợi ích trên. Kết hợp hài hoà ba lợi ích tức là chúng ta phải chú ý đông thời cả
ba lợi ích đó không để lợi ích này lấn áp hoặc triệt tiêu lợi ích khác.
Để kết hợp hài hoà ba lợi ích cần phải thực hiện các vấn đề cơ bản sau:
- Xây dựng và thực hiện tốt các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở
vận dụng các quy luật khách quan và phù hợp với đặc điểm của đất nước. Chiến
lược đó phản ánh được lợi ích cơ bản và lâu dài của toàn xã hội cũng như lợi ích
của các thành viên trong xã hội.
- Xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai. Các
loại quy hoạch và kế hoạch đó phải quy tụ được lợi ích của toàn xã hội và lợi ích
của các thành viên trong xã hội.
- Thực hiện đầy đủ chế độ thu thuế đất, xem đó là nghĩa vụ, là trách nhiệm của
mọi tổ chức, mọi cá nhân đối với đất nước, đối với toàn xã hội. Nghĩa vụ thuế là
công cụ để điều hoà lợi ích và bảo đảm sự công bằng của xã hội.
- Thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế và các đòn bẩy kinh tế nhằm thúc đẩy
các tổ chức và cá nhân quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai có hạn, nhằm
duy trì đảm bảo lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội.
- Sử dụng linh hoạt các phương pháp quản lý, không chỉ là các phương pháp
hành chính, phương pháp kinh tế mà cả phương pháp giáo dục. Trong nhiều trường
hợp, phương pháp giáo dục là phương pháp có hiệu quả để kết hợp hài hoà các lợi
ích trên.
- Thực hiên tốt công cụ luật pháp, kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm lợi
ích cá nhân, đồng thời phải xử lý nghiêm minh những hành động vi phạm lợi ích
tập thể và lợi ích của xã hội, nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho sự kết hài hào ba
lợi ích trên.
3-Quan điểm sử dụng đất đai tiết kiệm và hiệu quả.
Đất đai là tư liệu sản xuất và cũng là tư liệu tiêu dùng, là điều kiện tồn tại cơ
bản gắn liền với hoạt động của con người, của các tổ chức chính trị, các tổ chức
kinh tế xã hội và của Nhà nước. Mặt khác chúng ta đều biết đất đai có giới hạn về
diện tích, trong khi đó dân số thì mỗi ngày lại tăng lên nhiều hơn và quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực: khoa
học, kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch, dich vụ... mà các ngành này phát triển thì nhu
cầu sử dụng đất là rất lớn do đó dẫn đến tình trạng đất đai ngày càng bị thu hẹp
dần, điều này càng làm cho chúng ta thấy ý nghĩa của việc tiết kiệm và hiệu quả
trong công tác quản lý đất đai. Hơn nữa đất đai là loại bất động sản có lượng vốn
đầu tư tương đối lớn. Mọi sự sai lầm trong đầu tư hay lãng phí trong đầu tư và sử
dụng chúng đều dẫn đến thảm hoạ phá sản. Bài học về sự bất ổn kinh tế ở châu á
cuối những năm 90 của thế kỷ XX là một ví dụ cụ thể, mà một trong những nguyên
nhân của nó là vấn đề đầu tư vào bất động sản đã cho chúng ta thấy rõ.
Để thực hiện được quan điểm tiết kiệm và hiệu quả cần phải giải quyết các
vấn đề cơ bản sau:
+ Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với
các yêu cầu của quy luật khách quan.
+ Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch về sử dụng đất đai, phục
vụ tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở tiết kiệm đất đai, tiết kiệm chi
phí, tránh phô trương hình thức, tránh phá đi làm lại.
+ Tuyên truyền, phổ biến Luật đất đai cũng như các văn bản về quản lý và sử
dụng đất tới từng người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng...
4-Quan điểm quản lý mang tính kế thừa và tính hệ thống.
Quản lý Nhà nước phải mang tính kế thừa và tính hệ thống, đó là một quan
điểm đúng. Trong quản lý ta phải kế thừa những thành quả đã làm được từ trước và
sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong quá trính quản lý. Kế thừa tức là tôn trọng
lịch sử hình thành và phát triển công tác quản lý, từ đó có những nhận định phát
triển, định hướng công tác quản lý trong tương lai. Điều này không chỉ đúng với
công tác quản lý Nhà nước mà còn đúng cho các môn khoa học khác. Quản lý Nhà
nước là một môn khoa học, do đó khi thực hiện quản lý ta phải xem xét lịch sử
hình thành nó hay ta kế thừa những ưu điểm và hạn chế các nhược điểm, đây là nét
nổi bật của tính kế thừa.
Tính hệ thống, ở trên ta đã nhận định rằng: Nhà nước là người duy nhất quản
lý đất đai có hiệu quả. Như vậy Nhà nước phải thống nhất quản lý từ trên xuống
dưới, bằng những văn bản pháp luật quy định trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước.
Đảm bảo dược tính hệ thống thì sẽ có sự tập trung thống nhất quản lý, đảm bảo
quyền quản lý tối cao của Nhà nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện
nay-quản lý nền kinh tế hỗn hợp cần sự tập trung thống nhất quản lý, điều tiết của
Nhà nước để khắc phục các nhược điểm của cơ chế thị trường, đồng thời đảm bảo
lợi ích đồng đều giữa người quản lý và người bị quản lý, giữa những người bị quản
lý với nhau.
Trong quản lý đất đai thì tính kế thừa và tính hệ thống lại càng cần thiết. Để
quản lý được đất đai thì ta cần biết lịch sử hình thành, phát triển của đất, quá trình
quản lý sử dụng đất trong lịch sử để từ đó có nhận xét, đánh giá hiệu quả quản lý
đất đai, quá trình sử dụng đã đạt hiệu quả hay chưa. Từ đó có phương pháp quản lý
sao cho đạt hiệu quả hơn. Đất đai là tài nguyên có hạn, có tính cục bộ địa phương
và trong kinh tế thị trường nó có giá trị kinh tế cao. Do đó quản lý muốn hài hoà
các lợi ích thì quản lý phải có tính hệ thống. Làm được công tác này sẽ giúp sử
dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm. Thông qua các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi
hành sẽ giúp Nhà nước nắm chắc hơn vấn đề quản lý và sử dụng, tình hình và hiện
trạng sử dụng để từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nguồn tài nguyên có hạn là đất
đai.
II-MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
ĐẤT ĐÔ THỊ.
Công tác quản lý đất Đô thị hiện nay còn nhiều vấn đề bức xúc, nó liên quan
đến nhiều cấp nhiều ngành, cần có sự chỉ đạo đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành, các cấp có liên quan. Muốn vậy, cần tập trung thực hiện theo một số giải
pháp cụ thể sau:
1-Giải pháp tầm vĩ mô.
Đây là các giải pháp ở tầm vĩ mô mà người thực hiện là Nhà nước, UBND
Tỉnh (Thành phố), Tổng cục Địa chính và Sở Địa chính-Nhà đất.
1.1-Chính sách trong quản lý Nhà nước về đất đai.
Đây là khâu quyết định trong quản lý Nhà nước về đất đai, đặc biệt là đất Đô
thị. Quản lý đất Đô thị dược thực hiện trên 7 nội dung, mỗi nội dung đều được thực
hiện theo sự chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương. Do đó chính sách cần được hệ
thống hoá về quyền và nghĩa vụ của người quản lý và người sử dụng đất:
* Chính sách quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được ghi nhận trong Điều 73 và
Điều 79 của Luật đất đai năm 1993. Đây là chính sách đảm bảo cho người sử dụng
đất yên tâm sử dụng trên chính mảnh đất của mình theo đúng pháp luật. Chính sách
tạo ra phải công bằng để thúc đẩy sản xuất phát triển. Các chủ thể sử dụng đất đều
đã được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất (giao đất có thu tiền hoặc không thu
tiền, thuê đất thì phải trả tiền thuê đất). Giao đất hoặc cho thuê đất là có thời hạn.
Hiện nay có một số tổ chức, cá nhận sử dụng đất nhưng chưa được Nhà nước công
nhận. Điều này đòi hỏi phải có chính sách, biện pháp buộc họ phải kê khai đăng ký
và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu họ không thực hiện phải cương quyết
xử lý bằng kinh tế hoặc hành chính (phạt tiền hoặc thu hồi đất). Để làm được điều
này thì cơ cấu bộ máy quản lý cần kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, thông
tin phản hồi phải nhanh chóng.
Trước đây ta thường ưu tiên cho doanh nghiệp Nhà nước nhưng hiện nay thực
hiện kinh tế nhiều thành phần, do đó cần phải tạo một hành lang pháp lý chung,
đảm bảo công bằng giữa các chủ sử dụng đất. Hiện nay tình trạng ưu tiên kinh tế
Nhà nước vẫn còn, các tổ chức chính trị xã hội, pháp nhân trong nước, doanh
nghiệp Nhà nước vẫn được ưu tiên hơn tổ chức tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài...
Điều này cần được khắc phục để đảm bảo cho nên kinh tế phát triển nhanh, đảm
bảo công bằng theo đúng định hướng mà Nhà nước đã đề ra.
Chính sách giữa các chủ sử dụng đất còn chưa đầy đủ và toàn diện: các doanh
nghiệp được giao đất không phải nộp tiền sử dụng đất đã không tính giá trị của đất
vào chi phí nên họ thường sử dụng lãng phí đất, tự chuyển mục đích sử dụng đất
sang sử dụng vào mục đích khác nhưng không đóng nghĩa vụ đối Nhà nước (không
nộp tiền thuê đất) điều này gây mất công bằng giữa các chủ sử dụng đất. Trên địa
quận Cầu Giấy cũng đã có trường hợp này xảy ra: các đơn vị sử dụng đất vào mục
đích an ninh quốc phòng tự chia đất cho cán bộ làm nhà ở, sử dụng vào làm kinh tế
nhưng không có nghĩa vụ gì đối với Nhà nước. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước
nên giải quyết dứt điểm, tránh để thêm thời gian nữa. Phải yêu cầu các chủ sử dụng
làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng nếu đất đó thuộc quy hoạch được sử dụng,
còn nếu xét thấy không thể cho sử dụng vào mục đích đó được thì yêu cầu họ
không được sử dụng và nếu cần thì thu hồi lại phần đất đó.
Để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng đất, Nhà nước nên tạo điều kiện thuận
lợi cho họ thực hiện 6 quyền của mình. Khi họ làm thủ tục chuyển đổi, chuyển
nhượng, thế chấp, góp vốn... mà họ đã có GCN QSDĐ thì ta nên xem xét ngay ở
quận, huyện không nên để cơ quan Nhà nước cấp trên phải ký nhận, làm thủ tục
cho thêm rườm rà, phát sinh tiêu cực, cản trở hoạt động của thị trường đất đai.
*Chính sách trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Hiện nay tốc độ Đô thị hoá diễn ra rất mạnh ở các Đô thị trên cả nước, đặc
biệt là ở Thủ đô Hà Nội, Quận Cầu Giấy cũng không nằm ngoài điều này. Trong
tình hình đó, công tác quy hoạch và kế hoạch đất đai chưa được thực hiện, Nhà
nước nên nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho từng khu
vực, nhất là các Đô thị.
Công tác quản lý đất đai là một lĩnh vực đặc thù, mà đối tượng quản lý là đất
đai giao cho các chủ sử dụng đất. Vì vậy quy hoạch quản lý đất đai là quy hoạch
tổng thể và quy hoạch chi tiết tới từng thửa đất giao cho các chủ sử dụng. Do đó
quy hoạch được xây dựng trên bản vẽ 1/1000,1/500,1/200. Để tiến hành, Nhà nước
phải có sự chỉ đạo, phối hợp với từng địa phương để hoàn thành công tác này. Mặc
dù quận Cầu Giấy vẫn chưa có quy hoạch chi tiết, song có một thuận lợi lớn đó là
Thành phố Hà Nội đã hoàn thành quy hoạch tổng thể từ năm 2000-2010. Trong
thời gian qua, công tác quy hoạch chưa được hoàn thành đó là do các nguyên nhân
đó là:
+ Quy hoạch là để dự báo cụ thể, chi tiết, cần phải thông tin đầy đủ về nhu cầu
và khả năng phát triển của tất cả các thành phần kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế.
Nước ta là một nước có nền kinh tế đang phát triển, các chỉ tiêu kinh tế luôn luôn
bị thay đổi, vì vậy việc điều hành nền kinh tế vĩ mô làm cho các đơn vị, quận,
huyện cũng phải điều chỉnh theo cho phù hợp.
+ Quy hoạch tổng thể thay đổi sẽ làm cho quy hoạch chi tiết thay đổi, bởi vì
quy hoạch chi tiết Đô thị là quy hoạch được lập ra trên cơ sở quy hoạch tổng thể
phân khu Đô thị. Ngày 15/08/2000, Chính phủ có công văn số 736/CV- CP giao
cho UBND Thành phố điều chỉnh chi tiết một số khu vực. Quận Cầu Giấy cũng
thuộc đối tượng của công văn này. Như vậy, việc Nhà nước thường xuyên thay đổi
quy hoạch cũng ảnh hưởng rất lớn tới công tác kế hoạch sử dụng đất.
+ Việc lập và nghiên cứu quy hoạch là do văn phòng Kiến Trúc Sư Trưởng
Thành phố đảm nhiệm từ khâu triển khai đến khâu tổ chức thực hiện, thẩm định
trình UBND Thành phố phê duyệt. Cơ quan chính thực hiện là Viện Quy Hoạch
trực thuộc văn phòng Kiến Trúc Sư Trưởng Thành phố. Công việc của Viện là rất
lớn, nghiên cứu quy hoạch lại mang tính độc quyền, do đó lực lượng cán bộ không
đáp ứng được nhu cầu, tính sáng tạo nghiêm túc không đảm bảo được do không có
tính cạnh tranh. Vì vậy, sản phẩm làm ra thiếu tính khoa học và thực tiễn, do đó
phải chỉnh sửa nhiều lần. Đây là một vấn đề hết sức cần thiết đòi hỏi tính hồng,
chuyên rất cao của người cán bộ làm công tác quy hoạch. Nhà nước nên can thiệp
để giảm bớt khối lượng công việc do Viện quy hoạch. Tạo điều kiện để cán bộ quy
hoạch có thể phát triển hết trí tuệ và tài năng sáng tạo vào công tác quy hoạch.
+ Các cấp thực hiện công tác quy hoạch tự điều chỉnh quy hoạch, vấn đề này
đang xảy ra ở nước ta, nhất là tại các Đô thị. Tự ý chuyển đổi cho mục đích riêng
của địa phương, nên đã làm mất lòng tin ở người dân tới Chính quyền của Nhà
nước.
Từ những lý do này yêu cầu Nhà nước nên có những chính sách cho phù hợp
trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để tăng cường hiệu quả quản lý
của Nhà nước, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước, giúp phát triển
kinh tế đất nước.
*Chính sách quy định về việc hình thành thị trường bất động sản.
Hiện nay thị trường này mới nhen nhóm xuất hiện, chưa được chính thức hình
thành. Tuy vậy, quá trình trao đổi bất động sản luôn vận động và phát triển làm cho
các phương thức giao dịch, trao đổi cũng diễn ra nhiều dạng khác nhau. Hiến pháp
nước ta quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý
cho nên khái niệm về thị trường bất động sản ở nước ta cũng khác so với ở các
nước khác trên thế giới. Ở thị trường bất động sản nước ta, kết quả của các cuộc
trao đổi, mua bán trên thị trường chỉ là sự chuyển quyền sử dụng đất và sở hữu nhà
từ người này sang người khác với một giá cả nhất định do hai bên tự thoả thuận.
Thực chất hàng hoá trao đổi trên thị trường là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở. Như vậy, thị trường bất động sản đã hình thành ở nước ta không bị lệ thuộc
vào một vùng địa lý cụ thể. Đâu có nhà và đất thì ở đó có thị trường bất động sản.
Thị trường bất động sản có liên quan đến một vùng, một khu vực, hoặc toàn bộ
lãnh thổ đất nước. Các thị trường bất động sản ở những vùng khác nhau hoạt động
theo các cách khác nhau. Tuỳ theo số lượng, quy mô của những người tham gia, cơ
sở hạ tầng và các điều kiện thông tin giữa người mua và người bán mà có thể thực
hiện tiếp xúc tại địa điểm cố định hoặc thực hiện giao dịch thông qua điện thoại
hoặc các phương tiện thông tin khác. Do chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường nên việc tạo hành lang pháp lý hình thành thị trường
này là rất cần thiết vì:
- Thị trường đất đai là thị trường đầu vào, thị trường tư liệu sản xuất, quá trình
hình thành phát triển của đất đai được gắn liền với quá trình sử dụng nó để sản xuất
và xây dựng các công trình trên đất. Cho nên thị trường bất động sản được hình
thành sẽ là nền móng để kích thích các ngành khác phát triển.
- Thị trường bất động sản ra đời sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cho nhân dân
làm giàu bằng chính tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân. Họ có thể tự do mua bán
nhà cửa, đất đai (chuyển nhượng) nên hình thành nghề kinh doanh nhà đất và nó
cũng sẽ phải tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường như: quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật giá cả.
- Phát triển thị trường bất động sản sẽ giúp cho cảnh quan Đô thị khang trang,
đẹp đẽ hơn. Bởi vì trong kinh doanh thì nhà đầu tư nào cũng phải đặt lợi nhuận lên
hàng đầu, vì thế họ phải xây dựng nhà cửa trên mảnh đất có vị trí thuận lợi, phù
hợp với quy hoạch, nhà cửa sẽ được xây dựng đẹp, đồng bộ để thu hút người mua.
- Phát triển thị trường bất động sản sẽ tạo ra được nguồn thu rất lớn cho Nhà
nước, kinh doanh thì phải đóng thuế-đó là nghĩa vụ của người kinh doanh mà Nhà
nước đặt ra. Bất động sản là những tài sản có giá trị lớn, người kinh doanh sẽ phải
đóng một tổng thuế là rất lớn.