Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU T¬Ư VÀ PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.86 KB, 22 trang )

THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NGÂN
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ
I. Khái quát tình hình hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Phú Thọ:
1. Một số nét về tình hình kinh tế xã hội tại địa bàn tỉnh Phú Thọ:
Phú Thọ là một tỉnh miền núi đất rộng, người đông, dân cư phân bố không
đều, trình độ dân trí còn hạn chế,cơ sở hạ tầng còn thấp kém, kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, phát triển chưa đồng đều giữa các vùng. Bên cạnh những khu công
nghiệp lớn dân cư đông đúc, kinh tế văn hoá phát triển. Còn nhiều huyện miền núi
dân cư thưa thớt, sống chủ yếu bằng nông nghiệp, người dân còn nhiều lạc
hậu.Song tỉnh Phú thị đã biết phát huy những mặt mạnh, hạn chế những mặt yếu đ-
ưa kinh tế Phú thọ ngày một phát triển. Ta có thể thấy sự phát triển của tỉnh Phú
thọ qua các chỉ tiêu sau (so với năm 1998):
- Giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của tỉnh tăng 10% .
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%.
- Giá trị của sản xuất nông nghiệp tăng 5%.
- Giá trị ngành sản xuất dịch vụ tăng 14%.
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 460 triệu USD.
Kết quả trên là do sự đóng góp chung của các ngành, các cấp trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ.
Về hoạt động Ngân hàng, mạng lưới ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng ở Phú thọ phát triển mạnh, phục vụ tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Các tổ
chức tín dụng không ngừng mở rộng kinh doanh đa năng tổng hợp và phát triển
dịch vụ ngân hàng nhưng mỗi tổ chức tín dụng đều có ưu thế riêng. Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong năm 1999
trên toàn tỉnh Phú thọ ngành ngân hàng đã tích cực huy động các nguồn vốn để cho
vay phát triến sản xuất kinh doanh, tổng nguồn vốn huy động đạt 605 tỷ tăng
18,2%, dư nợ cho vay tăng 1.025 tỷ tăng 21,6% so với năm 1998. Cơ cấu cho vay:
doanh nghiệp nhà nước 55%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 45%, vay ngắn hạn
63%, vay trung và dài hạn 37%, xu thế vay trung và dài hạn ngày càng tăng.


Thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và kiểm soát lạm phát ngay từ đầu
năm 1999 ngành Ngân hàng tỉnh Phú thọ đã đề ra nhiều giải pháp trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ, góp phần đáng kể vào việc ổn định giá trị đồng tiền. Ngành
Ngân hàng Phú thọ đã tổ chức việc điều hoà tiền mặt, đáp ứng đủ mọi nhu cầu của
sản xuất kinh doanh và đời sống, lưu thông tiền mặt ổn định , năm 1999 tổng thu
tiền mặt 1.900 tỷ tăng 5,9%, tổng chi tiền mặt 2.160 tỷ giảm 1%, bội chi tiền mặt
260tỷ giảm 32% so với năm 1997. Vai trò tiền tệ tín dụng Ngân hàng tiếp tục được
phát huy trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh theo đúng định hướng
về công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Tỉnh Phú Thọ có những khu công nghiệp lớn: thành phố Việt trì , huyện
Phong châu với nhiều nhà máy lớn như : Nhà máy giấy Bãi bằng, nhà máy supe
phốt phát Lâm thao... nhu cầu lớn về vốn để đầu tư và sản xuất kinh doanh là thư-
ờng xuyên. Dựa vào thế mạnh trên Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã tìm
mọi biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng mình. Tại các trung tâm
công nghiệp của tỉnh Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đều có các chi nhánh
trực thuộc Ngân hàng tỉnh đặt tại đó để cung ứng vốn tín dụng cả ngắn, trung, dài
hạn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế tỉnh Phú thọ.
Kết quả đó là do sự chỉ đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Ngân hàng đầu tư và
phát triển tỉnh Phú thọ theo đúng các chủ trương định hướng của Đảng, Nhà nước
và hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam, trong đó có sự đóng góp
nhiệt tình và có kết quả của tất cả các phòng ban và cán bộ nhân viên Ngân hàng
đầu tư và phát triển Phú thọ.
2. Khái quát lịch sử phát triển và mô hình tổ chức Ngân hàng Đầu tư và
Phát triến Phú Thọ:
Nghị định 53/HĐBT tiếp đó là các pháp lệnh Ngân hàng và hiện nay luật
Ngân hàng Đã ra đời. Ngân hàng nhà nước đã ban hành nhiều loạt văn bản về cơ
chế nghiệp vụ cũng như cơ chế tổ chức. Theo đó trên địa bàn tỉnh Phú thọ đã hình
thành ra hai hệ thống ngân hàng với chức năng nhiệm vụ khác nhau. Ngân hàng
nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động kinh doanh tiền
tệ, tín dụng cung ứng và điều hoà lưu thông tiền tệ. Các Ngân hàng thương mại với

chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ thành lập tháng 5 năm 1957 là một
trong bảy chi nhánh được thành lập sớm nhất trên miền bắc hoàn toàn giải phóng.
Đến nay Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã trải qua hơn 43 năm với 3 lần
đổi tên . Chức năng nhiệm vụ có những thay đổi bổ xung , song bản chất vẫn là
một ngân hàng quốc doanh , hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Ngay từ ngày thành lập ngân hàng đầu tư và phát triển có nhiệm vụ là cấp phát và
thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nuớc . Từ
khi có pháp lệnh Ngân hàng (tháng 5-1990) chức năng quản lý nhà nước và chức
năng kinh doanh trong Ngân hàng được phân định rõ hơn . Ngân hàng đầu tư và
phát triển thành một ngân hàng chuyên doanh vừa phục vụ đầu tư phát triển và mở
rộng kinh doanh đa năng tổng hợp mở rộng hoạt động trong nước và vươn ra nước
ngoài .Sau khi có quyết định 654/QĐ-TTg tháng11-1994 của Thủ tướng Chính phủ
và Quyết định số 293 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Từ đầu năm
1995 đến nay Ngân hàng đầu tư phát triển chấm dứt việc cấp phát vốn đầu tư xây
dựng cơ bản bằng vốn ngân sách , chuyển ngân hàng đầu tư phát triển sang kinh
doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng với chức năng chủ yếu là đầu tư phát triển đồng
thời kinh doanh đa năng tổng hợp.
Để phục vụ cho quá trình hoạt động Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ
với đội ngũ cán bộ 93 người , có hai chi nhánh trực thuộc và hội sở chính tại Đại lộ
Hùng vương thành phố Việt trì tỉnh Phú thọ.
- Ban lãnh đạo điều hành gồm có Giám đốc và hai Phó Giám đốc.
- Các phòng nghiệp vụ gồm có:
• Phòng Tín dụng I chuyên sâu về tín dụng trung và dài hạn.
• Phòng Tín dụng II chuyên sâu về tín dụng ngắn hạn.
• Phòng Kế toán tài vụ chuyên sâu về nghiệp vụ kế toán thanh toán.
• Phòng Thanh toán quốc tế chuyên sâu về nghiệp vụ thanh toán với
nước ngoài.
• Phòng Kho quỹ.
• Phòng Kiểm soát: kiểm soát các hoạt động ngân hàng trong nội bộ

Chi nhánh.
• Phòng Nguồn vốn: với nhiệm vụ huy động vốn và cân đối vốn
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
• Phòng Tổ chức hành chính.
Với cơ cấu tổ chức như trên đã phù hợp với đặc điểm kinh doanh của ngân
hàng. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc với sự phối hợp
giữa các phòng ban trong hoạt động kinh doanh đã đưa ngân hàng đầu tư và phát
triển Phú thọ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.
3. Khái quát về tình hình hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển
Phú Thọ:
3.1. Hoạt động nguồn vốn:
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh, nó quyết định đến quy mô hoạt động của Ngân hàng nói chung và quy
mô của tín dụng nói riêng, do vậy nó quyết định tới khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng trên thị trường. Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn sẽ có ưu thế trên thị
trường.
Vì vậy chiến lược huy động vốn là mở rộng kinh doanh tiền tệ của Ngân
hàng thương mại. Nó mang tính thường xuyên, liên tục, với quy mmo ngày càng
mở rộng và khối lượng ngày càng lớn. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là
những giá trị tiền tệ do các Ngân hàng thương mại tập trung huy động từ các tổ
chức kinh tế, xã hội, các cá nhân trong xã hội.
Nguồn vốn có vai trò rất quan trọng nếu không nói là quyết định trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng
• Nguồn vốn là cơ sở để thành lập và tổ chức các hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
• Nguồn vốn quyết định đến quy mô hoạt động của Ngân hàng nói chung
và quy mô của tín dụng nói riêng do vậy nó quyết định đến khả năng
cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. Ngân hàng có nguồn vốn kinh
doanh lớn thì sẽ có ưu thế trên thị trường.
Nếu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại lớn thì Ngân hàng thương mại có

thể thoả mãn tối đa nhu cầu vay vốn của khách hàng trên thị trường mà vẫn có đủ
dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả do vậy góp phần giữ uy tín cho
Ngân hàng trên thị trường.
Nếu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại rồi rào sẽ tạo điều kiện cho Ngân
hàng thương mại trong việc điều hành chính sách tiền tệ từ đó giúp cho việc giữ
vững giá trị đồng tiền, đảm bảo tình hình lưu thông tiền tệ ổn định.
Ngược lại nếu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại hạn hẹp thì quy mô
cho vay của Ngân hàng đó không thể lớn và lợi nhuận thu được sẽ ít, kết quả kinh
doanh bị hạn chế và có thể Ngân hàng không có đủ uy tín trên thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn ngân hàng đầu tư và phát
triển Phú thọ đã tích cực vận động, khích lệ mọi khách hàng thuộc mọi thành phần
kinh tế, mọi tổ chức, mọi cá nhân có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng .Tính đến
ngày 30 tháng 06 năm 2000 tại ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ tổng nguồn
vốn huy động đạt được 187.135 triệu trong đó:
Tiền gửi của tổ chức kinh tế: 13.949 trệu
Tiền gửi của dân cư: 173.186 triệu
Đổi mới về cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng đa dạng hoá các loại
hình huy động vốn đã góp phần làm tăng tỷ lệ vốn lưu động từ các tổ chức kinh tế
và các tổ chức tín dụng. Chúng ta có thể thấy sự tăng trưởng nguồn vốn huy động
của ngân hàng qua hai thời điểm 6 tháng đầu năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000:
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu 6 tháng đầu 6 tháng đầu Mức tăng
năm 1999 năm 2000 trưởng
Tổng nguồn vốn 322.450 347.670 108%
- Vốn tự huy động 144.203 187.135 130%
Qua bảng số liệu ta thấy mức độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động tăng
cao hơn so với mức độ tăng trưởng của nguồn vốn điều đó chứng tỏ sự phát triển,
mở rộng và tự chủ ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Phú
thọ.
Có được kết quả đó là do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú thọ đã biết

quan tâm mở rộng phạm vi hoạt động trên địa bàn, tập trung khai thác mọi nguồn
vốn, coi công tác huy động vốn là của mọi thành viên trong cơ quan, biết áp dụng
các mức lãi suất thích hợp với nhiều hình thức huy động vốn linh hoạt truyền thống
như: tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, phát hành kỳ
phiếu , phát hành trái phiếu...
Nhờ biện pháp này cùng với chính sách khách hàng cởi mở, thái độ phục vụ
tận tình chu đáo công tác huy động vốn không những đáp ứng nhu cầu vốn để mở
rộng đầu tư phát triển của các đơn vị trên địa bàn hoạt động của ngân hàng mình
mà còn góp phần điều hoà vốn trong hệ thống. Huy động vốn tốt còn việc sử dụng
vốn sao cho có hiệu quả là vấn đề bức thiết và khó khăn buộc ngân hàng phải quan
tâm đúng mức để giải quyết kịp thời, chính xác, tránh tình trạng ứ đọng vốn gây
thiệt hại cho ngân hàng, ảnh hưởng đến thu nhập của mọi cán bộ công nhân viên
chức.
3.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ cho vay vốn đầu tư các dự án theo
phương hướng mục tiêu cơ cấu kế hoạch của nhà nước và định hướng phát triển
kinh tế của ngành, địa phương được cấp có thẩm quyền duyệt trong năm, vốn vay
để hỗ trợ phần vốn đầu tư cho dự án phần vốn thiếu hụt các chủ đầu tư phải huy
động thêm các nguồn khác để đầu tư dứt điểm dự án và cho vay bổ xung vốn lưu
động đối với mọi thành phần kinh tế.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ với nhận thức tín dụng là mặt trận
hàng đầu với phương châm “chất lượng, an toàn và hiệu quả” coi trọng chất lượng
hơn số lượng , thực hiện vai trò trung gian “đi vay để cho vay” với mục tiêu “hiệu
quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng” góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế kiềm chế lạm phát nâng cao giá trị đồng tiền Việt
nam, ổn định giá trị ngoại tệ hợp lý.
Theo báo cáo tổng kết năm 1999 của Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ
tính đến hết ngày 31/12/1999 dư nợ tín dụng đạt 275.872 triệu so với năm 1998 là
229.516 triệu, mức tăng trưởng 20,2%, bình quân mỗi cán bộ ngân hàng đầu tư và
phát triển Phú thọ đạt mức dư nợ cho vay 2.900 triệu .

Nhiệm vụ của chi nhánh là thực hiện tín dụng đầu tư phát triển, trong năm
qua chi nhánh đã góp phần tích cực cung ứng vốn kịp thời cho những công trình
chuyển tiếp còn thiếu vốn đồng thời triển khai đa dạng các loại hình tín dụng mang
lại hiệu quả kinh tế cao ở mọi thành phần kinh tế . Chi nhánh tiến hành cho vay đối
với các doanh nghiệp bằng cả VND và USD dưới nhiều hình thức như cho vay
ngắn hạn, cho vay dài hạn theo kế hoạch nhà nước, cho vay trung hạn ngoại tệ để
đầu tư chiều sâu ... Điều này được thể hiện trong cơ cấu cho vay theo thời hạn đến
31/12/1999 như sau (cả ngoại tệ quy ra VND):
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu Mức dư nợ Tỷ trọng
Cho vay ngắn hạn 125.870 46%
Cho vay trung hạn 37.749 14%
Cho vay dài hạn 112.253 40%
Bên cạnh đó Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã có những biện pháp
thích hợp trong cho vay đối với từng thành phần kinh tế. Ngân hàng đã biết kết hợp
hài hoà giữa việc thực hiện chiến lược lợi nhuận của ngân hàng với các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu cho vay đối với
từng thành phần kinh tế được áp dụng hài hoà tạo động lực phát triển cho toàn bộ
nền kinh tế tỉnh Phú thọ, thể hiện trong cơ cấu cho vay với từng loại hình kinh tế
nêu ra sau đây:
Đơn vị: Triệu đồng.
Loại hình kinh tế Dư nợ cho vay Tỷ trọng
DN nhà nước 255.182 92.5%
DN ngoài quốc doanh 6.896 2.5%
Tư nhân cá thể 13.794 5%
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, ngân hàng đầu tư và phát triển
Phú thọ tập trung đầu tư tín dụng chủ yếu vào các doanh nghiệp nhà nước làm ăn
có hiệu quả trong cơ chế thị trờng. Bên cạnh đó ngân hàng đã góp phần phát triển
nhanh tín dụng đối với loại hình kinh tế ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể... loại
hình kinh tế này sản xuất kinh doanh hết sức năng động, vòng quay vốn nhanh, lợi

nhuận cao nhng đi liền với nó là tỷ lệ rủi ro cũng rất cao và có nhiều thủ đoạn tinh
vi xảo quyệt trong vay vốn ngân hàng. Nhưng Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú
thọ đã tìm mọi biện pháp thích hợp tạo lập mối quan hệ tín dụng đối với khu vực
kinh tế này ngày càng tốt hơn nên đã phát huy vai trò tín dụng ngân hàng trong khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần xây dựng kinh tế tỉnh Phú thọ nhiều thành
phần ngày càng phát triển.
3.3. Công tác kế toán thanh toán:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cũng được Ngân hàng
đầu tư và phát triển Phú thọ mở rộng và phát triển như chuyển tiền, kinh doanh
ngoại tệ... Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ cũng như các ngân hàng khác
trên địa bàn đều trang bị hệ thống máy vi tính, lắp đặt nối mạng cục bộ đưa máy vi
tính giao dịch tại quầy,và nối mạng qua mô đen với các chi nhánh ngân hàng khác
trong hệ thống rút ngắn thời gian chuyển tiền, trước đây một món chuyển tiền mất
từ một đến vài ngày nay chỉ cần một vài tiếng. Nghiệp vụ thanh toán bù trừ ngày
càng phát triển và có hiệu quả tốt, là một trong số các thành viên tham gia thanh
toán bù trừ tại trung tâm thanh toán ngân hàng nhà nước tỉnh Phú thọ, Ngân hàng
đầu tư và phát triển Phú thọ có thể xử lý tức thời các khoản phải thu, phải trả của

×