Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.46 KB, 15 trang )

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán kế toán tiền lương và
các khoản trích theo lương tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội.
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hạch toán kế toán tiền lương và các
khoản trích theo lương.
Mỗi doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất
kinh doanh và tính chất công việc mà có thể xây dựng các chế độ quản lý và hạch
toán kế toán tiền lương khác nhau. Tuy nhiên, do có sự thay đổi về hình thái kinh
tế xã hội, đặc thù sản xuất- kinh doanh và nhu cầu của người lao động nên chế độ
tiền lương của mỗi doanh nghiệp có những tồn tại nhất định, đòi hỏi các nhà quản
lý doanh nghiệp phải luôn luôn nỗ lực khắc phục những tồn tại đó để ngày càng
hoàn thiện hơn công tác hạch toán kế toán tiền lương trong doanh nghiệp mình.
Việc hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
nhằm đạt các mục tiêu sau:
+ Tiền lương phải trở thành công cụ, động lực thúc đẩy sản xuất- kinh doanh
phát triển, kích thích người lao động làm việc có hiệu quả cao nhất.
+ Tiền lương phải đảm bảo cho người lao động thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu trong đời sống hàng ngày và từng bước nâng cao đời sống của họ.
+ Cung cấp thông tin rõ ràng, dễ hiểu cho người lao động và các đối tượng
quan tâm khác.
+ Phát huy vai trò chủ động sáng tạo, trách nhiệm của người lao động cũng
như người sử dụng lao động.
3.2. Đánh giá chung về công tác hạch toán kế toán tiền lương và các khoản
trích theo lương của Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội.
Trong cơ chế thị trường gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước
cũng như các doanh nghiệp tư nhân đều phải tìm cho mình một hướng đi đúng đắn
để tồn tại và phát triển, nhất là đối với lĩnh vực sản xuất Sơn. Trong sự cạnh tranh
khốc liệt của các Công ty nước ngoài có tiềm lực tài chính và trình độ khoa học
công nghệ hiện đại, thì Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội không những duy trì được
sản xuất- kinh doanh mà còn làm ăn có hiệu quả. Có được điều đó là nhờ vào bộ
máy lãnh đạo của Công ty cũng như công nhân sản xuất luôn năng động sáng tạo,
có những biện pháp quản lý có hiệu quả cao. Công ty đã đưa ra những giải pháp


phù hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh với tốc độ tăng trưởng bình quân
khoảng 20%.
Nhìn chung công tác hạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương của Công ty rất hợp lý và mang tính khoa học. Chế độ lao động- tiền lương
của Công ty được hình thành dựa trên những quy định, chính sách lao động- tiền
lương của Nhà nước, của Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam bên cạnh những bổ
sung cho phù hợp với yêu cầu, đặc điểm kinh doanh và quản lý của Công ty.
Qua một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thực tế công tác và kế toán tiền
lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội, dựa trên
những kiến thức, những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán kế toán đã được trang
bị tại nhà trường, em xin có một số nhận xét sau:
3.2.1. Ưu điểm.
 Về công tác tính và trả lương:
Tiền lương và các khoản thu nhập khác của người lao động luôn được tính
toán chính xác, kịp thời, đúng chế độ, và chi trả đúng thời hạn.
Các quỹ trích theo lương (BHXH. BHYT, KPCĐ) luôn được tính đúng, tính
đủ và phân bổ đúng đối tượng vào chi phí sản xuất kinh doanh, đồng thời được ghi
sổ cộng dồn, chuyển sổ chính xác.
Với các hình thức trả lương theo thời gian, trả lương theo sản phẩm và lương
năng suất đã kích thích được người lao động có năng lực hăng say làm việc, thu
hút được những lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
Với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình Công ty đã áp dụng linh hoạt
hình thức trả lương. Cụ thể:
Đối với lao động gián tiếp việc trả lương theo thời gian là phù hợp. Hình
thức trả lương này có ưu điểm là dễ tính toán, dễ trả lương cho người lao động,
phản ánh được hiệu quả của công việc do đó sẽ khuyến khích người lao động chăm
chỉ đi làm, hăng say làm việc.
Đối với lao động trực tiếp việc trả lương theo sản phẩm là hợp lý, đây là
hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số
lượng lao động và chất lượng lao động. Đặc biệt phương án chia lương sản phẩm

trong các phân xưởng hết sức hợp lý và công bằng thúc đẩy tăng năng suất lao
động (đã được trình bày ở mục 2.3.2)
 Về công tác kế toán.
Việc tổ chức công tác hạch toán kế toán tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội
tương đối tốt. Bộ máy kế toán được tổ chức chuyên sâu, mỗi kế toán viên có trách
nhiệm làm một phần hành cụ thể nên phát huy được tính chủ đạo, tạo điều kiện
chuyên môn hoá nghiệp vụ và nâng cao chất lượng công tác kế toán. Các phần
hành kế toán có sự phối hợp chặt chẽ giúp cho việc kiểm tra, đối chiếu được thực
hiện dễ dàng, thuận lợi.
Đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ chuyên môn cao và không ngừng học
hỏi để nâng cao trình độ cho phù hợp với sự phát triển của Công ty.
Bộ máy kế toán đã thực hiện đầy đủ chức năng của mình: phản ánh, giám
đốc quá trình hình thành và vận động của tài sản từ khâu lập chứng từ, ghi sổ kế
toán đến lập các báo cáo tài chính.
Là một doanh nghiệp có số lượng nghiệp vụ tương đối nhiều, loại hình
doanh nghiệp đa dạng, trình độ nhân viên kế toán khá đồng đều. Vì vậy, Công ty
chọn hình thức Nhật ký chứng từ là rất phù hợp. Việc áp dụng hình thức sổ kế toán
này có tính cân đối, chính xác, thuận tiện, cung cấp thông tin kịp thời cho quản lý
và kiểm tra của cấp trên.
Về cơ bản hệ thống chứng từ, sổ sách và các báo cáo kế toán được Công ty
áp dụng theo đúng quy định của Nhà Nước. Hệ thống chứng từ kế toán được tập
hợp đầy đủ và lưu trữ tốt, chứng từ đảm bảo hợp lý, hợp lệ góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tổ chức hạch toán, thanh toán lương và các khoản trích theo
lương được đảm bảo đầy đủ, chính xác và nhanh chóng.
 Về công tác hạch toán kế toán lao động- tiền lương và các khoản trích theo
lương.
Nhìn chung công tác hạch toán kế toán lao động – tiền lương và các khoản
trích theo lương tại Công ty được thực hiện một cách khá chặt chẽ, các chế độ kế
toán mới được Công ty áp dụng một cách khá linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc
điểm sản xuất – kinh doanh của Công ty. Các quy định trong Luật lao động về tiền

và các khoản trích theo lương được Công ty chấp hành nghiêm chỉnh.
Công tác hạch toán lao động tiền lương không chỉ được thực hiện duy nhất ở
phòng kế toán mà tại các phòng ban người lao động có thể kiểm tra, đánh giá được
kết quả công việc của mình, mức lương mình được hưởng. Công tác hạch toán kế
toán nói chung, hạch toán lao động tiền lương nói riêng đã thực hiện tốt các chức
năng của nó là cung cấp thông tin cho nhà quản lý một cách chính xác, kịp thời,
đầy đủ, xác định được các khoản chi phí nhân công và phân bổ theo đúng đối
tượng.
 Về việc chấp hành chế độ của Nhà nước.
Công ty đã xây dựng quy chế trả lương theo đúng chế độ của Nhà nước. Quy
chế này thường xuyên được sửa đổi cho phù hợp với chế độ mới ban hành và tiến
trình sản xuất – kinh doanh của Công ty.
Tháng 01/2001, Công ty đã điều chỉnh mức lương tối thiểu để tính đơn giá
tiền lương căn cứ vào các văn bản sau:
+ Nghị định số 77/2000/NĐ - CP ngày 15/12/2000 của Chính Phủ về việc
điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180.000 đồng lên 210.000 đồng.
+ Thông tư số 05/2001/TT – BLĐTBXH ngày 29/01/2001 của Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội hướng dẫn xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý quỹ
lương, thu nhập trong doanh nghiệp Nhà Nước.
+ Thông tư số 06/2001/TT – BLĐTBXH ngày 29/01/2001 của Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội hướng dẫn tốc độ tăng năng suất lao động bình quân và
tốc độ tăng tiền lương bình quân trong các doanh nghiệp Nhà Nước.
Kể từ tháng 01/2003 trở đi, Công ty áp dụng mức lương tối thiểu là 290.000
đồng.
Sự điều chỉnh này đã góp phần làm tăng quỹ lương của Công ty, do đó làm
tăng thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm của công tác hạch toán kế toán tiền
lương và các khoản trích theo lương của Công ty còn tồn tại một số hạn chế nhất
định.
3.2.2. Tồn tại chủ yếu.

Một là: Cách tính lương cho người lao động gián tiếp.
Như trong phần thực trạng đã trình bày, cách tính lương mà Công ty áp dụng
cho đội ngũ lao động gián tiếp của Công ty chưa đáp ứng được nguyên tắc phân
phối theo lao động, chưa tính đến một cách đầy đủ đòn bẩy kinh tế của tiền lương
trong việc kích thích sự phát triển sản xuất – kinh doanh, chưa phát huy hết khả
năng sẵn có của người lao động để tạo ra sản phẩm cho Công ty. Cách tính lương
này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm làm việc và trình độ phân theo hệ số cấp bậc. Nó
không phản ánh trung thực khả năng lao động cụ thể của từng người. ở đây, những
người hoàn thành công việc như nhau nhưng lại có thể có mức lương khác nhau,
như vậy không tạo ra sự công bằng trong lao động.
Hai là: Chế độ tiền thưởng.
Tiền thưởng có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động. Nếu sử dụng tiền
thưởng hợp lý sẽ là công cụ hữu hiệu giúp Công ty khuyến khích người lao động
phát huy hết khả năng của mình và sáng tạo trong công việc, tăng hiệu quả sản
xuất – kinh doanh. Tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội tiền thưởng vẫn chưa được
khai thác triệt để. Có hai hình thức thưởng là thưởng thường xuyên và thưởng định
kỳ nhưng Công ty chỉ áp dụng hình thức thưởng định kỳ chứ chưa thực hiện
thưởng thường xuyên.
Ba là: Phân bổ chi phí tiền lương trong năm.
Đối với quý I, II, III chi phí tiền lương được hạch toán căn cứ vào các khoản
tiền lương, tiền phụ cấp, điều chỉnh tiền lương… thực tế phải trả cán bộ công nhân
viên của Công ty trong quý. Còn đối với quý IV thì chi phí tiền lương được xác
định căn cứ vào dự toán quyết toán lương năm trừ đi tổng chi phí tiền lương 3 quý
đầu năm. Sang quý I năm sau, khi đã quyết toán tiền lương thì tiến hành điều
chỉnh.
Với cách xác định chi phí tiền lương cho quý IV như vậy sẽ dẫn đến việc
hạch toán chi phí tiền lương vào quý IV quá cao so với các quý khác và giá thành
sản phẩm quý IV tăng cao dẫn đến sự sai lệch giá thành sản phẩm giữa các quý.
Ví dụ:
+ Quyết toán tiền lương năm 2002 = 12.571.222.411 đồng.

+ Đã tính vào giá thành tiền lương của 3 quý đầu năm = 7.984.611.635 đồng.
+ Tiền lương quý IV tính vào giá thành =
12.571.222.411 – 7.984.611.635 = 4.586.610.776 (đồng).
Từ số liệu trên cho thấy riêng chi phí tiền lương quý IV bằng
36,5% ( 4.586.610.776 * 100) tổng chi phí tiền lương cả năm và bằng
12.571.222.411
57,44% (4.586.610.776 * 100) tổng chi phí tiền lương 3 quý đầu năm
7.984.611.635
2002.

×