Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của Khổng Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.16 KB, 98 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đại học quốc gia Hà Nội </b>



<b>Tr-ờng Đại học khoa học xà hội và nhân văn </b>


...***...



<b>Lê Thị Thuý </b>



Một số nội dung cơ bản trong t- t-ëng


chÝnh trÞ - x· héi cđa khỉng tử



<b>Luận văn thạc sĩ khoa học triết học </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Đại học quốc gia Hà Nội </b>



<b>Tr-ờng Đại học khoa học xà hội và nhân văn </b>


...***...



<b>Lê Thị Thuý </b>



Một số nội dung cơ bản trong t- t-ëng


chÝnh trÞ - x· héi cđa khỉng tư



<b>Luận văn thạc sĩ khoa học triết học </b>



<b>Chuyên ngành: TriÕt häc </b>


<b>M· sè: 60.22.80 </b>



<i><b>Ng-êi h-íng dÉn khoa häc</b></i>

<b>: GS. TS Lê Văn Quán </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b> mở ®Çu </b>




<b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>


Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Học thuyết của ông tồn
tại lâu dài trong thời kỳ cổ trung đại của Trung Quốc cũng như một số
nước á Đơng khác, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của ông đã trở
thành truyền thống văn hoá và hệ tư tưởng cơ bản của á Đông mà ngày
nay trong việc xây dựng xã hội mới, con người ở đây khơng thể khơng
tính tới.


Học thuyết của Khổng Tử bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống
tinh thần xã hội như: Tư tưởng chính trị- xã hội, tư tưởng đạo đức, tư
tưởng triết học, tư tưởng văn hoá, tư tưởng giáo dục,... . Trong đó, tư
tưởng chính trị – xã hội là quan trọng hơn cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

lịch sử. Tóm lại, tư tưởng chính trị- xã hội của Khổng Tử vẫn còn là vấn
đề thời sự đối với giới nghiên cứu ngày nay.


<i><b>Từ góc độ tiếp cận triết học chúng tôi chọn vấn đề: Một số nội </b></i>


<i><b>dung cơ bản trong tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử làm đề </b></i>
<i><b>tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ của mình. </b></i>


<b>2. Tình hình nghiên cứu đề tài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nói đến các nhà nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
<i>phải kể đến Phan Bội Châu với tác phẩm “Khổng học đăng”; Trần Trọng </i>
<i>Kim với “Nho giáo”; Đào Duy Anh với “Khổng giáo phê bình tiểu luận”. </i>


Thơng qua việc phân tích một số phạm trù, nguyên lý của Nho
giáo, Phan Bội Châu đã trình bày một cách cơ đọng, súc tích và giải


thích khá rõ ràng các tư tưởng cơ bản của Khổng Tử và Nho giáo. Từ
đó, ơng đặc biệt đề cao những nhân tố tích cực của Nho giáo, coi đạo
đức Nho giáo có vai trị to lớn trong việc giáo dục, hồn thiện đạo đức
con người trong cư xử với người và góp phần vào việc ổn định trật tự, kỷ
cương của xã hội.


Trước bối cảnh xã hội bài xích Nho giáo, thì Trần Trọng Kim đã
dũng cảm đứng lên bảo vệ Nho giáo bằng cách phân tích tương đối
chính xác một số nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình
thành và phát triển của nó, từ đó ơng chỉ ra cái hay, cái dở của Nho
giáo. Ông cho rằng, Nho giáo không chỉ là học thuyết chính trị – xã
hội, học thuyết đạo đức mà cịn là học thuyết triết học.


Cơng trình “Khổng giáo phê bình tiểu luận” Đào Duy Anh đứng trên
lập trường mác xít, ơng đưa ra nhiều nhận định tương đối mới mẻ về nội
dung và ý nghĩa trong tư tưởng chính trị – xã hội của Nho giáo, đồng thời
đặt ra nhiều vấn đề mới cho những người nghiên cứu sau này phải suy
ngẫm. Ông phản đối một số trí thức lúc bấy giờ chỉ coi Khổng học là vô
dụng, là có di hại, khơng phù hợp với thời đại khoa học và dân chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Vào những năm 60 và 70 của thế kỷ XX ở Trung Quốc, tư tưởng
chính trị - xã hội của Khổng Tử bị coi là tư tưởng phản động “phục cổ”.
Do đó, ở thời kỳ này có nhiều sách báo phê phán Khổng Tử được xuất
bản như cuốn: <i>Phê phán tư tưởng giáo dục của Khổng khâu” của </i>


<i>Phïng Tiªn Du; bµi “Khỉng Tư lµ nhµ giáo dục toàn dân chăng? của </i>
<i>Đường Hiểu Văn đăng trên tờ Nhân Dân nhật báo 27/9/1973; bài Phê </i>


<i>phỏn t tng giáo dục của Khổng khâu” của Tỉnh uỷ Sơn Đông đăng </i>



trên tờ Nhận thức nhật báo ngày 19/7/1971, . Các tác giả đã áp đặt
quan điểm đấu tranh giai cấp, chụp mũ về chính trị để kết tội Khổng Tử
là nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột, họ cho rằng mọi tư tưởng của ơng
chỉ nhằm mục đích chính trị có lợi cho giai cấp thống trị. Từ đó, họ
muốn phủ định sạch trơn những tư tưởng có giá trị vĩ đại mà Khổng Tử
đã đóng góp vào kho tàng văn hố tư tưởng trong lịch sử Trung Quốc.


ở miền Nam cũng xuất bản nhiều tác phẩm bàn về Nho giáo,
điển hình là các tác giả: Nguyễn Đăng Thục với 5 tập sách “Lịch sử
triết học phương Đông” trong đó có tập 1, 2, 5 đề cập đến triết học
<i>Trung Quốc; Nguyễn Hiến Lê với cuốn “Khổng Tử , Mạnh Tử”; Đại </i>


<i>cương triết học Trung Quốc của Giản Chi – Hiến Lê . Nhìn chung, </i>


phần lớn các tác giả miền Nam thời kỳ này đều ca ngợi Nho giáo trên
cơ sở giải thích các văn bản kinh điển của Nho giáo.


Từ khi đổi mới, một lần nữa Nho giáo lại được giới nghiên cứu ở
Việt Nam đề xuất một cách sơi nổi, nhiều cơng trình, biên soạn và khảo
cứu về Nho giáo xoay quanh vấn đề chính trị – xã hội và đạo đức của
Khổng Tử ra đời. Một loạt các tác phẩm bàn về Nho giáo được xuất bản,
<i>tiêu biểu là: cuốn “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu chủ biên (Nxb </i>
<i>Khoa học xã hội 1991); “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện (Nxb </i>
<i>Thế giới, Hà Nội, 1993); “Nho giáo xưa và nay</i> của Quang Đạm
<i>(Nxb Văn hoá, Hà Nội 1994); “Nho giáo tại Việt Nam” của Viện Triết </i>
<i>(Nxb Khoa học xã hội 1994); “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>tham chiếu” của Cao Xuân Huy (Nxb Văn học 1995); “Một số vấn đề </i>
<i>Nho giáo Việt Nam” của Phan Đại Doãn (chủ biên), (Nxb Chính trị </i>



<i>quốc gia Hà Nội, 1999); “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của </i>
Nguyễn Tài Thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005; .


Trong các tác phẩm trên, bên cạnh việc phê phán những tàn dư
tiêu cực trong tư tưởng Nho giáo nói chung và Khổng tử nói riêng,
nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá các quan niệm trong tư tưởng của các
nhà Nho đỡ gay gắt hơn, khách quan hơn. Nhiều người đã nêu ra vấn đề
kế thừa và triển khai những giá trị tích cực trong tư tưởng của Khổng
Tử, nhằm khắc phục những hiện tượng tiêu cực, góp phần xây dựng và
hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức, những quan hệ chính trị –xã hội
của con người trong xã hội ta hiện nay.


Bên cạnh các sách chuyên khảo, ở Việt Nam cịn có nhiều hội
nghị khoa học, luận án, luận văn cao học và nhiều bài tạp chí khoa học
chuyên ngành cũng bàn về Nho giáo và Khổng Tử tiêu biểu như: Luận
văn thạc sĩ “Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục”(2002) của Nguyễn
Bá Cường, mới chỉ tìm hiểu về đối tượng, nội dung và phương pháp giáo
dục của Khổng Tử, mà chưa đề cập đến giáo dục như là một biện pháp
quan trọng trong việc tuyên truyền, thực hành tư tưởng chính trị – xã
hội của ông; Luận án tiến sĩ Triết học “Học thuyết chính trị – xã hội
của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa
đầu thế kỷ XIX” (2005) của Nguyễn Thanh Bình, mới chỉ trình bày sơ
lược nội dung học thuyết chính trị – xã hội của Nho giáo, để chỉ ra sự
ảnh hưởng của nó trong các triều đại phong kiến Việt Nam; Luận án
tiến sĩ Triết học “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và
đào tạo con người” (2005) của Nguyễn Thị Tuyết Mai chỉ bàn về con
người và nội dung giáo dục của Nho giáo nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nho giáo ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến vai trị tư tưởng chính trị -
xã hội của Nho giáo ở Việt Nam, Nho giáo với xã hội Việt Nam hiện


nay, Nho giáo với đạo làm người ở Việt Nam trong lịch sử, . Các luận
văn của cuộc hội thảo đã được tập hợp lại và in thành kỷ yếu với tiêu đề
<i>là “Nho giáo ở Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội </i>
2006). Cuốn sách được xem là bản thành quả mới nhất của giới nghiên
cứu và giảng dạy khoa học xã hội ở Việt Nam về Nho giáo.


Về phía Trung Quốc, gần đây có nhiều cuộc hội thảo khoa học,
nhiều cuốn sách, nhiều bài tạp chí nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có
đề cập đến tư tưởng chính trị- xã hội của Khổng Tử. Đáng chú ý nhất là
cuộc hội thảo quốc tế về Nho học được tổ chức nhân dịp 2555 năm, năm
sinh Khổng Tử, diễn ra ở Bắc Kinh vào tháng 10 năm 2004 và biên soạn
<i>thành sách với tên “Nho học dữ đương đại văn minh gồm 4 tập, dày </i>
2195 trang, do Cửu Châu xuất bản xã, Bắc Kinh, năm 2005. Cuốn sách
đăng tải gần 200 bài luận văn đề cập đến nhiều mặt trong tư tưởng
Khổng Tử và Nho học nói chung. Trong đó, phần về tư tưởng chính trị
– xã hội của Khổng Tử chiếm một vị trí quan trọng.


Xu hướng chung của giới nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc
hơn 10 năm lại đây là khẳng định vai trò tích cực của tư tưởng Khổng
Tử trong lịch sử cũng như hiện tại. Tuy vậy, trong khi tìm hiểu vẫn cịn
những ý kiến khác nhau, trái ngược nhau.


Khuynh hướng khẳng định chiếm đa số, tiêu biểu là một số tác
giả và nhóm tác giả sau: Ơng Đỗ Duy Ninh (Tu- weiming), giáo sư Đại
học Havard- Yenching (Mỹ) cho rằng, nhiều nguyên lý về xã hội và con
người của Nho giáo khơng những thích hợp với lịch sử, mà cịn có sức
sống trong xã hội ngày nay, bởi vì chúng có giá trị chung, phổ quát. Xét
<i>về mặt đạo đức, ơng nói: “Tất cả năm giá trị cốt lõi của truyền thống </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nhóm các tác giả trong Ban thường vụ trị sự khoá III của Hội


Liên hiệp Nho học quốc tế ở Trung Quốc cũng cùng loại quan điểm
trên. Không những thế, họ còn chủ trương đẩy mạnh việc giáo dục tư
tưởng trong các tác phẩm kinh điển của Nho giáo, ơng Dương Ba, phó
Hội trưởng Ban thường vụ Hội Liên hiệp Nho học quốc tế chủ trương:
“Mở lớp bồi dưỡng 2 năm với hình thức tự học là chính, tập trung phụ
<i>đạo là phụ, trong 2 năm đọc hết bộ Tứ thư , Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại </i>


<i>häc, Trung dung. Sè häc viªn này sẽ trở thành thầy giáo đẩy mạnh việc </i>


truyn bá Nho học trong các trường trung, tiểu học” [3; 7]. Khuynh
hướng này đang là tư tưởng chủ đạo của giới nghiên cứu Nho giáo
Trung Quốc hiện nay.


Tuy vậy, ở Trung Quốc vẫn có ý kiến khác. Một số người cho
rằng, Nho giáo chỉ là di sản của quá khứ, trong di sản này có nhiều hạn
chế, khơng thể đánh đồng tư tưởng đó với các trào lưu tư tưởng tiến bộ
của phương Tây. Quan điểm của Vi Chính Thơng có thể tiêu biểu cho tư
tưởng này. Ơng Vi nói: “Do tâm lý bảo thủ và thói quen mê tín truyền
thống, nên khi tiếp xúc với tư tưởng dân chủ phương Tây, các sĩ phu đã
tìm trong thư tịch cổ những câu chữ có vẻ dân chủ để đem ra so sánh
Quan hệ lệch lạc như vậy, thì làm thế nào để cuộc vận động dân chủ của
chúng ta tiến triển một cách lành mạnh được?”[93;198]. Quan điểm trên
là của số ít, song bác bỏ nó khơng phải là chuyện dễ.


Tư tưởng Nho giáo nói chung cũng như tư tưởng chính trị- xã hội
của Khổng Tử nói riêng, tuy là những vấn đề cũ, song chúng vẫn đang
thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu triết học và khoa học xã hội ngày
nay. Trên cơ sở tiếp thu những thành quả của những người đi trước, tác
giả luận văn mong muốn tìm hiểu một cách có hệ thống hơn về những
nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử.



<b>3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Luận văn góp phần tìm hiểu một cách có hệ thống về một số nội
dung cơ bản trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử.


* NhiƯm vơ:


Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:


- Làm rõ bối cảnh ra đời tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng
Tử


- Làm rõ quan niệm về con người chính là nền tảng xây dựng tư
tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử.


- Trình bày các yếu tố cấu thành tư tưởng chính trị – xã hội của
Khổng Tử qua các quan niệm nhân, lễ, chính danh.


- Làm rõ giáo dục chính là biện pháp hữu hiệu trong tuyên truyền tư
tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử vào đời sống xã hội đương thời.


<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b>


- Nền tảng lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con người và xã hội.


- Vận dụng phương pháp luận của lịch sử triết học, nhất là lịch sử
triết học phương Đông. Chú trọng kết hợp phương pháp lịch sử - lơgíc


phân tích – tổng hợp, khái quát hoá, đối chiếu, so sánh


<b>5. Cái mới của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>6. ý nghÜa lý ln vµ thùc tiƠn cđa ln văn </b>


- Lun vn gúp phn lm sỏng tỏ nội dung và thực chất tư tưởng
chính trị – xã hội của Khổng Tử.


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ sinh viên
học tập và tìm hiểu về Nho giáo nói chung và tư tưởng chính trị – xã
hội của Khổng T núi riờng.


<b>7. Kết cấu của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b> néi dung </b>



<b>Chương 1. bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng </b>


<b>chính trị - xã hội của khổng tử </b>



Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tư tưởng chính trị –
xã hội của Khổng Tử được hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Vì thế, để hiểu rõ tư tưởng chính trị – xã hội của
ông, trước hết cần xét đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tư tửơng
lúc bấy giờ.


<b>1.1. Cơ sở kinh tế, chính trị xã hội cho sự hình thành tư tưởng </b>
<b>chính trị xã hội của Khổng Tử </b>


<i><b>1.1.1. C¬ së kinh tÕ </b></i>



Thời Tây Chu từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII TCN, công cụ sản xuất
được làm bằng đồng thau, tuy nó có tiện lợi hơn cơng cụ bằng gỗ và đá
nhưng chưa có nhiều để trở thành công cụ phổ biến trên đồng ruộng
hoặc chế tác đồ dùng trong các lị thủ cơng. Trong khi đó, số nhân khẩu
tăng nhanh làm cho nhu cầu của xã hội lúc này cần phải đẩy mạnh sản
xuất, tạo ra nhiều của cải đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân. Đáp
ứng nhu cầu thực tiễn lúc bấy giờ, cần phải có một loại công cụ được
làm bằng chất liệu khác tốt hơn đồng thau để đưa vào sản xuất nhằm
nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất. Trước sự đòi hỏi đó,
thời Đơng Chu, cơng cụ lao động bằng sắt và hệ thống kênh mương tưới
tiêu nước ra đời. Đây là một cuộc cách mạng cải biến công cụ lao động
trong sản xuất nông nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

càng được nâng cao, đồng thời nhiều ngành nghề có liên quan đến nông
nghiệp cũng được ra đời và phát triển mạnh mẽ.


Nếu như ở thời Tây Chu, mọi tri thức có tính chất kinh nghiệm và
những gì khơng giải thích được người ta quy cho là tại trời, tại quỷ thần,
thì đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, người ta đã có sự quan sát, tích
luỹ kinh nghiệm và bước đầu đúc kết nên những tri thức về tự nhiên và
sản xuất nông nghiệp. Người ta đã biết được cây trồng cần phải có nước,
có phân, có giống tốt, có cơng chăm sóc thì mới sinh hoa lợi; biết được
những thứ làm hại cho cây trồng như bão lũ, hạn hán, sương gió, sâu
bệnh để phịng tránh. Người ta cũng biết được thời tiết có liên quan đến
mùa màng, để đến thời thì làm, hết thời thì dừng lại; biết được các yếu
tố không thể thiếu được trong canh tác là người, đất, trời và đi đến đúc
kết rằng: “người làm, đất sinh, trời dưỡng”. Điều này được ghi chép
<i>trong các sách Quản Tử và Lã Thị Xuân Thu ra đời ở thời Chiến Quốc. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

hội ngày một nhiều đã làm cho cơ cấu, trật tự giai cấp có sự thay đổi và
quan hệ sản xuất cổ truyền bị rạn nứt. Hệ quả của sự phát triển kinh tế
đó, đã làm cho thể chế chính trị thời Tây Chu băng hoại và những cuộc
chiến tranh thơn tính lẫn nhau giữa các nước chư hầu nổ ra càng khiến
cho trật tự xã hội trở nên hỗn loạn. Các nước trước đây vốn do nhà Chu
phong đất cho, nay do kinh tế suy yếu dẫn đến mất quyền hoặc suy yếu
về địa vị và vai trò chính trị. Chiến tranh thơn tính lẫn nhau giữa các
nước chư hầu ngày càng khốc liệt, trật tự xã hội ngày càng rối loạn, làm
cho một bộ phận trong giai cấp thống trị sa sút trở thành bình dân.
Ngồi ra, trong nội bộ tầng lớp quý tộc mỗi nước cũng mâu thuẫn, đấu
tranh tiêu diệt lẫn nhau, nên khơng ít người phải chết hoặc phải chạy
trốn. Như tổ tiên của Khổng Tử vốn là người nước Tống, vì chiến tranh
loạn lạc mà phải chạy đến nước Lỗ để kiếm sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

phát triển của công cụ lao động và hệ thống thuỷ lợi đã giúp một số nhà
nơng có cơ hội phát triển, mở rộng ruộng đất cho mình và trở thành đại
địa chủ. Một số bình dân có điều kiện học tập, được trang bị kiến thức,
những người có kiến thức được bước lên con đường làm quan như: Ninh
Thích làm quan ở nước Tề, Bách Lý Hề làm quan ở nước Tần. Tình
trạng buôn bán ruộng đất tự do đã làm cho khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội gia tăng rõ rệt, còn đời sống của những người lao động
ngày càng khó khăn.


Thời kỳ này, kinh tế thương nghiệp ở các thành thị cũng phát
triển nhộn nhịp. Do đó, các nhà bn có thể trao đổi, bn bán gia súc,
vải vóc và muối giữa các nước với số lượng lớn như: Muối của nước Tề,
vải vóc của nước Sở, gạo, ngũ cốc của nước Tần, gia súc của hai nước
Yên và Triệu là những mặt hàng được trao đổi thường xuyên. Đồng thời
tiền tệ cũng được ra đời và được đưa vào trao đổi.



Thời Chiến quốc công thương phát triển mạnh làm cho các nhà
bn trở nên giàu có và một số đã có điều kiện thay đổi địa vị của mình
từ tầng lớp bình dân trở thành q tộc và có ảnh hưởng lớn đến nhà vua.
Chính sự phát triển của kinh tế dẫn đến phân hoá giai cấp, giai cấp quý
tộc suy đồi, còn giai cấp bình dân, người thì mở mang ruộng đất trở
thành địa chủ, người thì làm giàu bằng con đường kinh doanh, trong xã
hội hình thành nên các tầng lớp xã hội: địa chủ, nông dân tự do, kẻ sĩ,
quý tộc mới.


<i><b>1.1.2. C¬ së x· héi </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thuẫn ấy, giai cấp quý tộc ngày càng mục nát, hủ bại. Nếu như trước
đây, đất đai, thần dân dưới gầm trời này không ở đâu không phải là của
vua, thì bấy giờ quyền sở hữu tối cao đó bị giai cấp địa chủ mới lên có
sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm dụng. Tình trạng mất đất đã làm
cho giai cấp quý tộc nhà Chu suy yếu. Từ sự suy yếu về kinh tế đã dẫn
đến sự yếu về địa vị xã hội và vai trị chính trị của nhà Chu. Tôn ti, trật
tự theo thang bậc từ trên xuống dưới: thiên tử – chư hầu – khanh đại
phu – sĩ – thứ dân được hình thành từ thời Tây Chu đến lúc bấy giờ
chỉ còn là danh nghĩa. Việc lễ, nhạc, việc chinh chiến, hình phạt trước
đây đều do thiên tử nhà Chu đề ra và các nước chư hầu phải theo đó mà
thực hiện, thì đến lúc này hầu như rơi vào tay chư hầu và khanh đại phu
nắm giữ. Các bá vương như; Tề Hồn Cơng, Tống Tương Cơng, Tần
Mục Công, Sở Trang Vương, Ngô Vương Hạp Lư, Việt Vương Câu Tiễn
làm mưa làm gió trên chính trường và chiến trường. Chư hầu đã vậy,
khanh đại phu cũng không kém. Quý Thị là khanh đại phu nước Lỗ, ở
vào hàng thứ ba của trật tự quý tộc mà lại dùng nhạc thiên tử để thiết
triều, dùng lễ của thiên tử để tế thần núi Thái Sơn, làm cho Khổng Tử
bất bình. Các nước chư hầu dùng chiến tranh thơn tính lẫn nhau, xã hội
loạn lạc, nhân tài ở các nước nổi lên, sự xuất thân cao quý của tầng lớp


quý tộc thống trị không được coi trọng như trước đây nữa. Chư hầu lấn
quyền thiên tử, khanh đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết
cha, trật tự xã hội hết sức rối loạn.


Tình trạng chiến tranh liên miên giữa các nước chư hầu đã làm
cho đời sống nhân dân ngày càng khốn khó đến cùng cực. Đồng thời, sự
rối loạn trật tự xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô đạo đức,
các mối quan hệ giữa người với người bị đảo lộn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

chiến tranh, loạn lạc kéo dài mãi?. Có người cho rằng, vận trời “hết thái
<i>rồi bĩ, hết bĩ rồi thái” như sách Kinh Dịch viết; “nhà Chu hết thịnh rồi </i>
suy, hết suy rồi thịnh”. Có người cho rằng, trời chỉ thương người có đức
như Chu Cơng nói: “Trời khơng thân với ai, chỉ giúp đỡ người có đức”,
“các vua thời Đông Chu không có đức, nên trời khơng giúp nữa”. Có
người cho rằng, tư tưởng cai trị của các tập đoàn thống trị đối với xã hội
có chỗ cịn thiếu sót, như khơng khơi phục lễ, nhạc, không coi trọng
pháp luật, chỉ cần khắc phục những điều đó là xã hội sẽ lập lại kỷ
cương, nề nếp. Các ý kiến trên đều nhằm cung cấp cơ sở nhận thức cho
nhà cầm quyền đương thời hoạch định đường lối, chính sách để bình ổn
xã hội. Vì, thực sự xã hội đương thời đang khủng hoảng về đường lối trị
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

ở đây con đường hợp nhất là chiến tranh thơn tính lẫn nhau, là giết chóc đã
gây nên bao đau khổ cho nhân dân lao động. Trước tình hình xã hội loạn
lạc, giai cấp thống trị băng hoại, cuộc sống con người bấp bênh đang đặt ra
yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn là phải khôi phục lại trật tự, kỷ cương của xã
hội, phải làm sao để cứu đời, cứu người. Với sự xuất hiện nhiều trung tâm,
tụ điểm của tầng lớp kẻ sĩ; hiện tượng “trăm hoa đua nở”, “trăm nhà đua
tiếng” là kết quả của việc tìm giải pháp đáp ứng yêu cầu bình ổn và phục
hưng xã hội, khắc phục tình trạng khủng hoảng về đường lối cai trị. Sự xuất


hiện nhiều trào lưu tư tưởng, trong đó có Nho giáo nhằm đáp ứng nhu cầu
lịch sử thời đại lúc đương thời.


<i><b>1.1.3. Cơ sở chính trị </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

chng li nhà vua là chống lại mệnh trời, thì nhà vua vâng mệnh trời
trừng phạt. Thực tế, trong đời sống chính trị ở Trung Quốc từ trước cho
đến thời Khổng Tử, giai cấp thống trị cũng ít nhiều quan tâm đến đời
sống của nhân dân, đến vai trò của người dân. Điều này được ghi nhiều
<i>trong sách Kinh Thư như: “Trời nhìn tự dân ta nhìn”, “Trời nghe tự dân </i>
ta nghe”, “sự sáng suốt ở trời thể hiện ở sự sáng suốt ở dân”, chứng tỏ
cho dù khốc lên mình tấm áo chồng tơn giáo về ý trời, mệnh trời,
nhưng ở một mức độ nào đó, nhà vua vẫn phải quan tâm đến đời sống
của nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

không được vua các nước chư hầu tuân theo răm rắp như trước. Những
quy định về lễ pháp, cương thường của xã hội trước đây do thiên tử nhà
Chu quy định vốn được vương hầu tự giác chấp hành thì nay bị vi phạm
nghiêm trọng.


Nếu như thời Xuân Thu dựa vào chế độ phân phong để thiết lập
thành quận huyện, thì đến thời Chiến Quốc, các nước thơn tính lẫn nhau
rồi xác lập biên giới quận huyện. Do đó, chế độ phong đất mang tính
cát cứ do giai cấp quý tộc đặc quyền dần dần trở thành chính quyền
quan lại. Các bậc vương công ban thưởng cho quan lại, thường dùng gạo
hoặc vàng, chứ rất ít khi phong đất. Quan hệ giữa quan lại với nhà vua
mang tính chất là cơng việc chung chứ khơng cịn là quan hệ riêng tư
như trước đây nữa.


ở thời phong đất, quý tộc là thủ lĩnh của một tập đoàn kinh tế và


vũ trang, cịn nơng dân vừa là lao dịch cho quân đội, vừa có thể được
chính thức tham gia quân đội. Đến thời Xuân Thu phạm vi chiến tranh
được mở rộng, quân đội cần nhiều người hơn nên cần rất nhiều nơng
dân làm binh lính, các quý tộc cũ mất đi địa vị lãnh đạo và đang dần
hình thành một chế độ quân sự mới. Các vương hầu tự mình xưng hùng,
xưng bá, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ và tôn vinh nhà Chu để tập hợp lực
lượng đi xâm lược, trừng phạt và tiêu diệt các nước khác mà thực chất là
tiếm quyền, chiếm giữ địa vị thiên tử của nhà Chu về tay mình để cai trị
thiên hạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Chu trước đây được các vua chư hầu, khanh đại phu tự giác thực hiện và
đã từng góp phần vào việc bảo vệ cũng như làm hưng thịnh chế độ tông
pháp nhà Chu, thì đến lúc này bị họ coi nhẹ, làm cho các giá trị đạo đức
suy giảm, xã hội bị coi là vô đạo. Sự mục ruỗng của xã hội làm cho chế
độ chính trị nhà Chu suy tàn nhanh chóng, những mâu thuẫn trong xã
hội đạt đến đỉnh cao địi hỏi phải có những giải pháp khắc phục tình
hình mọi mặt của xã hội đương thời. ở thời Tây Chu, việc cai trị chủ
yếu dựa vào lễ và tập tục. Trên cơ sở lễ và tập tục, quý tộc chủ nơ tuỳ
tiện dùng hình phạt khắc nghiệt để diệt trừ những kẻ chống đối mình,
khơng làm theo ý mình. Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc cách cai trị
này đã gây nên sự oán thán trong nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng chính trị xã hội </b>
<b>của Khổng Tử </b>


Sự xuất hiện tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử khơng chỉ từ
cơ sở kinh tế, chính trị – xã hội, mà còn trên cơ sở tiếp thu, kế thừa nhiều
tư tưởng đã có từ trước đến lúc bấy giờ.


Dựa vào nguồn tài liệu Bốc từ (loại văn tự xuất hiện sớm nhất ở


Trung Quốc) người ta đã biết sơ qua tình hình kinh tế, xã hội và tư
tưởng thời đại Ân – Thương. Mặc dù trình độ phát triển của công cụ
sản xuất thấp và lạc hậu, nhưng dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi nên
nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và săn bắn khá phát triển.
Hình thức quan hệ sản xuất thời Ân là chế độ nô lệ gia trưởng kiểu
phương Đơng ở trình độ thấp chưa có sự phân biệt rõ rệt về khái niệm
“sở hữu” đối với tư liệu sản xuất.


Dựa vào sự vận hành của mặt Trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ
của nước sông dâng lên và quy luật sinh trưởng của các loại cây trồng
mà người Ân đã phát minh ra lịch mùa (Âm lịch). Phép làm lịch của
người Ân là lấy hệ thống can- chi để ghi ngày. Lấy mười ngày (từ Giáp,
đến Quý) làm một tuần. Một tháng có 30 ngày (3 tuần), tháng thiếu có
29 ngày. Một năm có 2 mùa là Mùa Xuân và Mùa Thu. Lấy 12 tháng
làm một năm, nếu gặp năm nhuận thì 13 tháng. Việc phát minh ra can
– chi để ghi thời gian và việc làm ra lịch mùa đã phản ánh tri thức về
khoa học tự nhiên của người Ân đã phát triển tương đối toàn diện. Tuy
nhiên, nó vẫn khơng thể thốt ra khỏi sự ảnh hưởng bởi những quan
niệm về tôn giáo, thần bí, như những tư tưởng thần thoại về sự vận hành
của các thiên thể; quan niệm ghi mùa gắn liền với việc tế tự tổ tiên


<i><b>Về tư tưởng tôn giáo: </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

hán, được mùa, mất mùa, chinh chiến... đều do sự giáng phúc, giáng hoạ
của tổ tông.


ở thời kỳ này chưa có quan niệm rõ ràng, chưa có ý thức về ý
nghĩa đạo đức, trong sinh hoạt cộng đồng người ta mới chỉ có tư tưởng
là đề cao, tôn sùng người cầm đầu thị tộc.



Vào khoảng thế kỷ XI TCN, tộc Chu từ phía Bắc tiến vào đất Ân
và tiêu diệt hoàn toàn nhà Ân lập nên nhà Chu. Tiếp tục truyền thống tế
Đế tổ, tiên vương của người Ân, người Chu còn thêm tư tưởng kính trời,
thờ thượng đế, hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất. Họ cho rằng,
Thượng đế và thần tổ tiên nguyên là hai không thể lẫn làm một. Nhà Ân
do không biết “mệnh trời”, hành động không hợp “mệnh trời” nên nay
Thượng đế khơng cịn ưa người Ân nữa, cho nên ban mệnh xuống trao
cái quyền ấy cho nhà Chu, để người Chu lập ấp, dựng nước. Lại ban
mệnh cho nhà Chu “nhận dân, nhận cõi” (quyền sở hữu ruộng đất và sức
lao động), cho tổ tiên người Chu được “sánh ngang với Thượng đế” và
nhận mệnh làm vương, làm hậu, làm hồng; do đó, con cháu nhà Chu
phải dốc tâm gìn giữ truyền thống ấy để nhà Chu đời đời được trị dân,
trị nước, trị thiên hạ. Đây rõ ràng là tư tưởng tơn giáo đã bị chính trị
hoá, phản ánh tư tưởng chính trị bảo thủ và phản động của giai cấp
thống trị quý tộc thị tộc.


<i><b>Về tư tưởng chính trị, đạo đức </b></i>


Trên cơ sở một quan niệm tôn giáo như vậy, nhà Chu xây dựng
nên một thứ văn hoá, một thứ học thức “học ở quan phủ” chỉ giành
riêng cho tầng lớp quý tộc thị tộc, không xuống đến người dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

“Hết sức giữ yên ổn những dân mà vua Văn, Vũ đã nhận... Nhân theo
đấy mà giữ lấy dân của Văn tổ người đã nhận mệnh” (Lạc Cáo); Giúp ta
nhận dân... để trị dân ta đã nhận” (Lập chính). Qua đó cho thấy, tư
tưởng chính trị của nhà Chu đã được tơn giáo hố một cách tồn diện.
Mọi chính sách của nhà Chu đều được giải thích là “vâng Mệnh trời”,
“thuận theo Mệnh trời”. Giai cấp quý tộc Chu cho rằng, kẻ chịu “Mệnh
trời” để thống trị thiên hạ là Thiên Tử. Thiên Tử cùng sánh với trời, với
Đế. Nhân dân, bờ cõi, đất đai là thuộc quyền sở hữu của Thiên Tử, cái


quyền đó nhận được từ trời và do Tiên Vương ban cho. Do đó, Thiên tử
phải kính cẩn, sợ uy trời và tôn trọng phép tắc của Tiên Vương. Rõ
ràng, trong tư tưởng chính trị, đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và
Hiếu làm nền tảng.


Dựa vào quan niệm tôn giáo và đạo đức, nhà Chu khẳng định, họ
thay nhà Ân cai trị nước, trị dân là do có đức, cho nên các vua đời sau
phải biết kính cái đức đó, phải biết bồi dưỡng nó để cho con cháu nhà
Chu được hưởng nước, hưởng dân lâu dài. Hiếu là phải thờ phụng tổ
tiên, phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ phép tắc do tổ tiên để lại,
phải giữ được cái đức, cái hiếu. Có thi hành đúng đạo hiếu đó, thì mới
nhận được mệnh trời mà hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Đây chính là
mục đích tuyên truyền nhằm củng cố sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị
của tầng lớp quý tộc nhà Chu. Tất nhiên, việc đề xuất tư tưởng Đức và
Hiếu trong đường lối cai trị đã phản ánh một thực tế rằng, nhà Chu bắt
đầu dao động trong quan niệm về vai trò của thiên mệnh (Mệnh trời) và
bắt đầu chú ý đến việc người, việc trần thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

thần tổ tiên và thượng đế, họ bắt đầu hồi nghi, thậm chí cịn phủ định
vai trò chi phối của trời đối với sự việc của người. Họ mắng nhiếc
thượng đế không linh nghiệm, oán thần tổ tiên không có năng lực
“Thiên mệnh bất triệt” (mệnh trời không vững vàng). Tuy nhiên, ở một
<i>số chương trong sách Kinh Thi vẫn cho rằng, “xã hội hỗn loạn và dân </i>
gặp sự không may, không phải do thượng đế giáng xuống mà là do
người gây ra” (Hạ dân chi nghiệt, phi giáng tự nhiên... chức cách do
nhân). Điều này cho thấy, trong ý thức của mọi người, chưa hoàn toàn
đoạn tuyệt, phủ định địa vị và vai trò chi phối của thượng đế, thiên
mệnh, nhưng đã bắt đầu hoài nghi.


Đến thời Xuân Thu trở về sau, kinh tế phát triển làm cho chính trị


– xã hội có nhiều biến đổi, tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự
ra đời của các thành thị phồn vinh và những thành quả đạt được trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên (nhất là về thiên văn, y học), đã có những
bước tiến bộ rõ rệt, đồng thời uy quyền thống trị của bọn quý tộc chủ nô
bị giảm sút, cho nên đã hình thành trào lưu tư tưởng tiến bộ phủ định
trời, coi trọng người, xuất hiện tư tưởng vô thần lấy âm dương ngũ hành
và Chu Dịch làm nội dung cơ bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

thời) đã đề ra nhiều học thuyết cứu đời, nhằm thiết lập trật tự kỷ cương
của xã hội, chấm rứt chiến tranh, giết chóc. Các nhà tư tưởng đều cố
gắng đưa ra những tư tưởng chính trị – xã hội được xem là thích hợp
hoặc nêu ra những thủ đoạn quân sự, chính trị, ngoại giao được xem là
khơn khéo nhằm tạo vây cánh, tăng cường sức mạnh cho vua mình,
nước mình để tiêu diệt nước khác, thực hiện ước mong của những kẻ bá
đạo.


Ngoài ra phải xét tới các yếu tố về mặt văn hoá, tư tưởng làm tiền
đề cho sự xuất hiện tư tưởng Khổng Tử.


Trước thời Khổng Tử, đi liền với sự phát triển về sản xuất vật
chất, xã hội Trung Quốc cũng có sự trưởng thành về mặt văn hoá, tư
tưởng. Người Trung Quốc đã biết nhìn nhận, suy ngẫm và ghi lại những
nhận thức về hiện trạng của xã hội, cũng như những ước mong và toan
tính về một xã hội tốt đẹp hơn để cảnh báo kẻ thống trị đương thời và để
làm bài học cho người đời sau.


Tình hình trên là cơ sở để xuất hiện một số tác phẩm chứa đựng tư
tưởng về đạo trời, đạo người, về đánh giá các sự kiện lịch sử, về xúc
cảm của con người trước thiên nhiên và xã hội. Tính chân thực của
chúng, đã khiến chúng trở thành tác phẩm của lịch sử. Đó là các sách


<i>trong “Lục kinh (ngày nay chỉ còn “Ngũ Kinh”. Trong đó, “Kinh </i>


<i>Dịch được hình thành sớm nhất, tiếp theo là các cuốn “Kinh Thi , </i>
<i>Kinh Thư , “Kinh Lễ , Kinh Xuân Thu . Khổng Tử thường lấy tư </i>


tưởng và lời văn của các cuốn kinh trên làm tư liệu suy nghĩ của mình,
đồng thời dùng làm tài liệu dạy học trò.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

chất của các triều đại lý tưởng, nhân cách lý tưởng, tương ứng thiên
mệnh, đức, nhân (nhân nghĩa), thân, đức trị, vương đạo, bá đạo Các
khái niệm đó đã được các nhà tư tưởng thời Xuân Thu- Chiến Quốc, các
trường phái, hiểu theo cách của mình và vận dụng theo cách của mình.


Vấn đề trọng tâm của tư duy xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu của
nhà Chu, tức Tây chu là nguồn gốc của sức mạnh triều đại. Sức mạnh đó
là do trời hay do người?, là do “thiên mệnh” hay “nhân vi”? Nhà Ân,
Thương mất nước là do trời ghét bỏ hay do lịng dân ốn ghét đường lối
chính trị nghiệt ngã của họ?. Nhà Chu được nước từ tay nhà Ân, Thương
là do có nhân đức hay do hành động hợp với mệnh trời? hay là do mệnh
trời kết hợp với nhân đức tạo nên?.... Đương thời không ai trả lời được
rành rọt, nó cứ lặp đi lặp lại trong một thời gian dài và vẫn chờ đợi sự
giải đáp ở các thế hệ sau.


Vấn đề xuyên suốt khác trong thời kỳ Tây Chu là trị nước theo
đường lối nào thì hữu hiệu? Văn trị hay pháp trị? Các nhà tư tưởng theo
đường lối trị nước của Chu Cơng thì đề cao văn trị (còn gọi là vương
đạo), còn các nhà tư tưởng khác thì thấy cần thiết phải có pháp luật,
phải dùng pháp luật để cai quản đất nước. Đấu tranh giữa hai đường lối
trị nước trên còn tiếp tục mãi về sau. Quản Trọng ở thế kỷ VII TCN đã
đưa ra chủ trương kết hợp đức trị với pháp trị và chủ trương này ít nhiều


đã có hiệu quả tạo nên sức mạnh của nước Tề trong thời Tề Hồn Cơng.
Nhưng những nhà tư tưởng khác thì cho rằng, đường lối đó có tính chiết
trung khơng phù hợp với xu thế lúc đó của xã hội, họ muốn bỏ đức trị
mà thiên về pháp trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

hiện chữ nhân với đường lối chính trị nhân hậu. Ơng ta nêu lên rằng, khi
ra trận, khơng giết người có hai thứ tóc, khơng đánh người đã ngã ngựa.
Tưởng rằng lịng nhân ái cảm hoá được con người, làm tan rã hàng ngũ
địch, nhưng ngược lại, ông đã thất bại, triều đại của ông ta đã bị diệt
vong. Tư tưởng và việc làm của ông được người đương thời và sau này
chú ý và hay nhắc tới với nhiều ý nghĩa khác nhau.


Hàng loạt vấn đề cơ bản trên đến thế kỷ thứ VI TCN lúc sinh thời
của Khổng Tử, vẫn còn bỏ ngỏ, vẫn còn đòi hỏi người đương thời phải
lựa chọn, phải nêu cơ sở lý luận của sự lựa chọn, phải làm sắc nét hướng
lựa chọn của mình. Khổng Tử là một trong những người lúc bấy giờ đã
làm như vậy.


<b>1.3. Khổng Tử Người tập đại thành tư tưởng của thời đại </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

nhiều di sản văn hố của nhà Chu, do đó mà văn hoá lễ nhạc nhà Chu đã
thấm đượm vào tâm hồn ơng từ rất sớm. Ơng thường bắt chước các nghi
lễ cổ, “thích bày trị các khay để cúng và chơi trò tế lễ” [85; 211].


Bằng sự nỗ lực học tập và ý chí vươn lên trong cuộc sống, ông đã
học qua nhiều thày, tương truyền đã từng gặp Lão Tử để hỏi về lễ, học
nhạc với Trường Hoằng, học đàn với Sư Tương. Ông đã từng làm chức
“Uỷ lại” (coi việc đong thóc, cống khố) và chức “Tư lại” (có sách ghi là
“thừa điền” quản lý việc chăn nuôi bị dê để cúng tế).



Ơng chiêu sinh học trò để giảng dạy và tham gia làm chính trị.
Khổng Tử đã đi chu du nhiều nước và nhờ vốn hiểu biết sâu rộng về học
vấn cũng như lễ tục làm cho tên tuổi của ông nổi tiếng khắp thiên hạ.


Đến tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, Khổng Tử trở về nước Lỗ, thấy
cục diện chính trị ngày càng rối loạn “bồi thần nắm quyền”, nên ông
không ra làm quan, mà ông tiếp tục đăng đàn giảng về học vấn, rộng rãi
chiêu nạp học trị với hy vọng, thơng qua việc giáo hoá, giáo dục, tư
tưởng của ông có thể làm thay đổi cục diện chính trị đương thời, cứu
vớt đạo lý nhân luân đang ngày càng suy vi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Lỗ, đi chu du các nước: Vệ, Tống, Tần, Thái, Tề, Sở, để truyền dạy
đạo lý và mong tìm được người sử dụng học thuyết của mình vào bình
ổn xã hội nhưng không thành. Đến thời Lỗ Ai Công năm thứ XI (484
TCN) ông quay về nước Lỗ. Giai đoạn cuối đời, ông dốc sức cho văn
hoá, giáo dục, chỉnh lý các văn hiến cổ. Năm Lỗ Ai Công thứ XVI (479
TCN), Khổng Tử lâm bệnh và mất khi đó ơng 73 tuổi. Khổng Tử mất đi,
nhưng tư tưởng của ông chẳng những có tác động rất lớn đến toàn bộ
đời sống chính trị, văn hố tinh thần của người Trung Quốc mà còn lan
toả sang nhiều nước ở châu á, trong đó có Việt Nam.


<i>VỊ sù nghiƯp cđa «ng: dï sinh ra và lớn lên trong ®iỊu kiƯn hÕt </i>


sức khó khăn và hỗn độn của xã hội, nhưng với bản tính ham hiểu biết
và kiên trì học hỏi, Khổng Tử đã thành đạt trong cuộc sống. ở cái tuổi
“tam thập nhi lập” Khổng Tử đã bắt đầu sự nghiệp giáo dục và làm
chính trị. Ông là người đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc mở trường tư
dạy học. Ơng là một nhà chính trị lỗi lạc, người thầy vĩ đại, là một tấm
gương sáng trong việc học tập và rèn luyện bản thân. Ơng dạy học trị từ
những sự kiện thực tế mắt thấy tai nghe trong đời sống xã hội đương


thời, cho đến những tri thức trong lịch sử. Từ những bài học đó khiến
nhiều học trị của ông trở thành người tài giỏi, những người được ông
giáo huấn thì trở nên ngay thẳng, tránh được nhiều tà khúc. Nhưng, mục
đích giáo dục cuối cùng của ơng là mong tìm được người sử dụng học
thuyết của mình để ứng dụng vào xã hội đang loạn lạc đi đến có trật tự,
kỷ cương và phát triển ổn định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, cần phải có những con người đủ tài
năng và đức hạnh để gánh vác trọng trách phục hưng xã hội. Do đó, tài
liệu mà Khổng Tử sử dụng để giảng dạy cho học trò là “Lục kinh” đó
<i>là: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch và Kinh Xuân </i>


<i>Thu (sau này Kinh Lễ, Kinh Nhạc nhập vào làm một). Ngoài sách Kinh </i>
<i>Xuân Thu do Khổng Tử biên tập lại, những sách bộ kinh cịn lại đã có từ </i>


thời trước Khổng Tử. Trong các sách kinh này, ghi chép những nội dung
cơ bản nhất của văn hoá Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu. Ngoài việc
dùng lục kinh làm tài liệu giảng dạy, Khổng Tử còn sử dụng lục kinh
làm cơ sở để xây dựng học thuyết chính trị – xã hội của mình.


ở thời Tây Chu yêu cầu đặt đối với nhân tài là vừa phải có tri
thức, vừa phải tu dưỡng đạo đức chính trị (lễ, nhạc) nhất định, nhằm
điều tiết quan hệ trong nội bộ giai cấp thống trị để làm gương trong việc
giáo dục và cai trị dân, đồng thời nhân tài cũng phải có bản lĩnh chiến
đấu (xạ, ngự) để tiến hành chiến tranh. Vì thế, bắt buộc phải dạy “Lục
nghệ” (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số) cho họ để đáp ứng cả hai mặt văn và
võ. Nhưng, đến thời của Khổng Tử (Đông Chu), thì sự chinh phạt địch
quốc khơng chỉ thuần tuý dựa vào quân sự mà còn phải dựa vào hoạt
động du thuyết và sự ảnh hưởng về tiếng tăm đức hạnh của những người
đứng đầu đất nước. Cho nên, tri thức về “Lục nghệ” dần phù hợp với


nhu cầu đào tạo mẫu người toàn đức của Khổng Tử. Bên cạnh đó, Khổng
Tử cịn xác định rằng để thiên hạ được ổn định lâu dài phải lấy lễ, nhạc,
nhân, nghĩa làm đầu. Đây chính là gốc rễ trong tư tưởng đức trị của ông.
Những tri thức Khổng Tử cần để đạt mục đích chính trị, đạo đức của
mình đều được chứa đựng trong “Lục kinh”. Bằng toàn bộ tâm huyết
của mình nhằm cải biến hiện tượng lễ, nhạc băng hoại, Khổng Tử dùng


<i>Kinh Thi, Kinh LÔ, Kinh Nhạc làm trọng trong việc giáo hoá, giáo dơc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Tồn bộ nội dung Kinh Lễ là sự phản ánh đời sống đạo đức và tôn </i>
giáo của thời kỳ nguyên thuỷ, nó được đúc kết qua các triều đại Hạ, Ân
và Chu. Chính vì vậy mà trước sự băng hoại của “lễ”, Khổng Tử chủ
trương giáo dục “lễ” cho mọi người, nhưng ông đặc biệt chú ý đến việc
tuyên truyền giáo dục cho giai cấp thống trị để họ thực hiện mục đích
chính trị của mình. Theo ơng, “Lễ” có nội dung rất rộng, nhưng tập
trung chủ yếu ở những hành vi đạo đức, những lễ nghi tập tục của con
người về văn hố, tơn giáo và những quy định mang tính chất chính trị.
Khổng Tử cho rằng: “Khơng học lễ, thì chẳng biết cách đứng với đời”
[92; 513]. Từ chỗ khẳng định “lễ” là gốc của đạo làm người, cho nên
theo Khổng Tử, sự cần thiết phải giáo dục “lễ” để mọi người làm theo
đúng bổn phận của mình đối với gia đình, xã hội, đúng với những quy
phạm của chế độ chính trị. Nhưng để điều hồ tâm tính của con người
theo ông cần phải gắn kết “lễ” với “nhạc”.


<i>Khổng Tử coi trọng cuốn Kinh Thi, vì theo ơng, Kinh Thi là một </i>
cuốn sách chứa đựng những nội dung về ln lý đạo đức, chính trị, ngơn
ngữ và cả những tri thức về động thực vật. Khổng Tử nói: “Các trị sao
chẳng học Thi? Thi có thể bồi dưỡng sức tưởng tượng (hưng), có thể
nâng cao óc quan sát (quan), có thể rèn luyện tính hợp quần(quần), có
thể biết cách châm biếm (ốn). Gần có thể thờ cha mẹ, xa có thể thờ


vua; hơn nữa lại nhớ được tên nhiều loại chim muông cây cỏ” [92; 529].


<i> Kinh Thư là một tác phÈm chuyªn ln vỊ chÝnh trÞ – x· héi </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i>thường dẫn Kinh Thư để giải thích cho học trị hiểu về nhân tình thế </i>
thái.


<i>Đánh giá Kinh Thi, Thư sách Luận ngữ viết: “Khổng tử có lúc nói </i>
nhã ngơn: đọc thi, thư và hành lễ thì đều nói nhã ngơn” [92; 344].


<i>Kinh Thi, Kinh Th­ cã quan hƯ mËt thiÕt víi chính trị, nên Khổng </i>


<i>T dy kinh Thi, Th cho học trị để thơng qua các sự kiện chính trị- xã </i>
hội trong lịch sử được ghi chép lại ở các kinh mà ông lấy nền tảng, cơ
sở để giải quyết các vấn đề thực tiễn lúc bấy giờ. Từ đó, mà hình thành
và truyền bá sự ảnh hưởng tư tưởng chính trị – xã hội của mình một
cách có cơ sở lịch sử, nhằm tạo niềm tin cho mọi người về đường lối trị
nước của ông một cách dễ dàng.


<i>Khổng Tử không dạy Kinh Dịch, nhưng ông khuyên mọi người </i>
<i>học Kinh Dịch để không mắc sai lầm. Kinh Dịch là cuốn sách nói về </i>
tướng số làm cho mọi người thấy được sự tốt xấu, về đạo tiến,
<i>lui nhưng, trong Luận Ngữ chỉ có một lần Khổng Tử thốt lên nuối tiếc </i>
<i>về việc ông không nắm vững được Kinh Dịch. Ơng nói: “Nếu cho ta </i>
mấy năm để học xong đạo Dịch, thì có thể khơng có sai lầm lớn
na[92; 344].


<i>Kinh Xuân Thu là cn s¸ch viÕt vỊ sù băng hoại của lễ, nhạc ë </i>


nước Lỗ thời Xuân Thu được Khổng Tử biên soạn. Khổng Tử giảng dạy



<i>Kinh Xuân Thu để cho học trò thấy được thực trạng xuống cấp của đạo </i>


đức, phong tục lúc bấy giờ, nhằm kêu gọi mọi người cần phải khôi phục
lại lễ, nhạc trước sự suy vi, băng hoại về mọi mặt của xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34></div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

đức quyết định trên tất cả. Để đạt được mục đích chính trị của mình ơng
chủ trương lấy việc giáo dục “Văn”, “Hạnh”, “Trung”, “Tín”, để dẫn dắt
mọi người vào khn phép từ đạo đức đến chính trị.


So với người đương thời, Khổng Tử là người uyên bác hơn cả. Tri
thức của ông, ngôn luận của ông đã chứng tỏ ông là người tập đại thành
tư tưởng của thời đại.


<b>Kết luận chương 1 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Chương 2. Tư tưởng chính trị xã hội </b>


<b>của Khổng Tử </b>



<b>2.1. Quan niệm của Khổng Tử về con người nền tảng xây dựng tư </b>
<b>tưởng chính trị xã hội của ơng </b>


Trong tư tưởng chính trị – xã hội của mình, Khổng Tử đã bàn
đến những quan điểm chung nhất về thế giới (về vũ trụ, xã hội và con
người), trong đó ơng đặc biệt đề cao các mối quan hệ xã hội của con
người, vì vấn đề con người có liên quan trực tiếp đến việc củng cố, ổn
định, trật tự kỷ cương của xã hội.


Khổng Tử là đại biểu xuất sắc của tư trào lấy con người làm gốc ở
thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Trong tư tưởng của ơng bảo tồn rất nhiều


khí chất tinh thần và phẩm chất làm người cao quý trong lịch sử Trung
Quốc từ cổ đại đến lúc bấy giờ.


Tư tưởng lấy con người làm gốc của Khổng Tử phản ánh những
nhu cầu khách quan về sự phát triển của xã hội đương thời, phản ánh
nhu cầu lịch sử cần phải nâng cao một cách thích đáng và cải thiện địa
vị xã hội của người lao động trong thời kỳ xã hội có biến cách. Điều đó,
biểu hiện tấm lịng rộng mở khơng bị giới hạn của giai cấp mình trong
các vấn đề xã hội và con người của Khổng Tử.


Trong tư tưởng về con người của Khổng Tử, vấn đề có tầm quan
trọng hàng đầu, cơ bản và chung nhất của con người là quan niệm của
ơng về bản tính người và con người trong các mối quan hệ xã hội cơ
bản.


<i><b>2.1.1. Quan niệm của Khổng Tử về tính người </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

dưỡng theo “đạo” gọi là “giáo”” [92; 88]. Từ mệnh đề này, phần lớn các
nhà Nho từ Khổng Tử trở về sau đều cho rằng, “tính” của con người có
nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con người và con
người bẩm thụ lấy. Còn cái tính đó thiện hay ác là do sự tu dưỡng, giáo hoá
đạo đức sau này của con người.


Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên khái niệm “tính”. Xuất phát từ sự
quan sát thực tiễn đời sống xã hội đương thời, Khổng Tử thấy những người
xung quanh mình, có người giữ được điều lễ, có ý thức bảo vệ tôn ti trật tự
xã hội, nhưng cũng có người thì ln làm trái với lễ. Khổng Tử cũng đã ít
nhiều có niềm tin vào một ông trời đã sinh ra muôn vật và con người đều có
<i>quy tắc như Kinh Thi có câu: “Trời sinh ra chúng dân, có vật thì có quy tắc” </i>
(Thiên sinh chủng dân, hữu vật, hữu tắc), có nghĩa là cái đã được trời định


sẵn cho con người. Từ mệnh đề trên cho thấy, “tính” là cái bẩm sinh ban
đầu, là cái nguyên sơ mà con người có được là nhờ ở trời. Như vậy, trời đã
sinh ra con người ắt sẽ không thiên vị, xem người nào cũng như người nào,
nhưng làm sao trong xã hội lại có sự khác nhau giữa họ. Hai mặt đó có tác
động đến Khổng Tử, làm ơng hình thành mệnh đề: “Tính tương cận dã, tập
tương viễn dã” (Bản tính con người ta đều gần nhau, nhưng do chịu ảnh
hưởng khác nhau mà xa nhau) [92; 527]. Cũng theo Khổng Tử “tính” của
con người khi mới sinh ra đều giống nhau, cái tính ấy là cái tự nhiên, ngây
thơ, trong trắng chưa bị thay đổi bởi ngoại cảnh bên ngồi và các tác nhân
xã hội. Cái tính ấy, do được bẩm thụ của trời nên mọi người đều giống nhau
về tính. Ơng cho rằng, cái bản tính ấy ở mỗi người sau này trở nên khác là
do sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh, do sự tu dưỡng đạo đức của con
người mà thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Cống viết: “phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã; phu tử chi ngơn,
tính dữ Thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã”) [92; 303]. Chúng ta thấy, vấn
đề bản tính của con người trong tư tưởng của Khổng Tử chưa được ông bàn
luận và giảng giải nhiều, song tư tưởng của ông đã vượt lên trên các nhà tư
tưởng thời Xuân Thu. Vì, các nhà tư tưởng trước ơng, bàn về tính người là
chỉ do ngẫu nhiên mà nói, cịn Khổng Tử đã đặt vấn đề “tính” là phổ biến
khi ơng đề xuất mệnh đề “tính tương cận” tính người ta sinh ra vốn gần
nhau và kết hợp vấn đề tính với vấn đề “thiên đạo” (tính dữ thiên đạo). Tuy
bàn về tính rất ngắn gọn, nhưng ông đã đặt vấn đề tính người thành một
trong những nội dung cơ bản nhất của Nho giáo về vấn đề con người.


Vậy, “tính tương cận” trong tư tưởng của Khổng Tử là thiện hay là
<i>ác? Trần Trọng Kim, khi bàn về một số câu trong Kinh Dịch, ông cho rằng </i>
Khổng Tử chủ trương thuyết tính thiện, ơng viết: “ Khổng Tử lấy sự sinh
làm trọng hơn cả. Ngài cho sự sinh của vạn vật là theo lẽ tự nhiên, ta có thể
ngắm cảnh tạo hoá trong vũ trụ, chỗ nào cũng thấy đầy những sinh ý và


xn khí, thì biết cái đức của trời rộng lớn đến nhường nào. Khổng Tử lấy
bốn cái đức của trời: nguyên, hanh, lợi, trinh, của quẻ kiền mà nói rõ sự
sinh thành của vạn vật. Ngài nói rằng: “Nguyên là đầu của các điều thiện,
hanh là hội hợp các cái tốt đẹp, lợi là sự hoà hợp với điều nghĩa, trinh là cái
gốc của mọi sự”. (Nguyên giả thiện chi trưởng giả, hành giả gia chi hội đã,
lợi giả nghĩa chi hoà dã, trinh giả sự chi cán dã - Dịch: Văn ngôn truyện).
Cái đức nguyên là cái khởi đầu sự sinh vạn vật, cái đức lợi là sự thoả thích
của sự sinh vạn vật, cái đức trinh là sự thành tựu của sự sinh vạn vật. Vậy,
đạo trời đất là chủ ở sinh vạn vật, mà sự sinh ấy là đầu của các điều thiện”
[47; 78]. Qua đó ta thấy, Trần Trọng Kim muốn nói đến tính thiện của con
người.


Chu Hy khi bàn về tư tưởng “tính tương cận” của Khổng Tử trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i>cũng khơng ác. Ơng viết: “Chữ tính trong Luận ngữ có cái nghĩa gồm cả </i>
khí chất, vậy thì có thiện có ác, nhưng xét lúc đầu thì tính mỗi người
khơng xa nhau mấy” [57; 68- 69]. Khổng Tử cho rằng, do “tập tương
viễn” mà làm cho cái giống nhau ban đầu của con người bị thay đổi,
nên theo chúng tơi, mệnh đề “tính tương cận dã, tập tương viễn dã” của
Khổng Tử hiểu một cách lơgic, thì cái “tính tương cận” đó là tính thiện,
vì cái ác được sinh ra ở “tập tương viễn dã”, nó được hình thành sau cái
khởi ngun (tính tương cận). Cịn nếu chúng ta cho rằng, cái “ tính
tương cận” là cái ác, thì chúng ta sẽ khơng giải thích được cái ác trong
xã hội từ đâu mà sinh ra. Vì, “tập tương viễn” chính là ngược lại của cái
“tính tương cận” đầu tiên [66; 50].


Khổng Tử đã chỉ ra cái bản tính ban đầu do trời bẩm thụ của con
người do “tập nhiễm” bên ngoài xã hội mà thay đổi. Sự thay đổi đó tốt
hay xấu đều phụ thuộc vào sự rèn luyện, tu dưỡng giáo dục đạo đức, suy
nghĩ và hành động của mỗi người trong đời sống xã hội. Từ đó, cho thấy


biện pháp duy nhất để con người giữ được bản tính thiện, trừ bỏ cái ác,
bỏ điều ác, theo điều thiện, thì con người phải luôn suy nghĩ và hành
động theo điều thiện. Mà đầu tiên mỗi người phải làm là tu dưỡng, học
tập, rèn luyện đạo đức để có được những phẩm chất đạo đức nhân, lễ,
chính danh, ... và phải hành động theo ý trời, đạo trời. Thông qua giáo
dục, giáo hoá Khổng Tử từ chỗ đề cao rồi đi đến tuyệt đối hoá những
quy phạm đạo đức - chính trị và lời dạy của thánh hiền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i><b>2.1.2 Quan niệm về con người trong các mối quan hệ </b></i>


Cũng như các học thuyết khác, khi xây dựng học thuyết của mình,
Khổng Tử luôn đề cao vấn đề con người và đặt con người trong các mối
quan hệ với tự nhiên và xã hội (trời, đất, vạn vật và quan hệ xã hội của
con người ). Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa con
người với con người trong đời sống xã hội. Ơng ít nói đến mối quan hệ
giữa trời và người.


<i>Thứ nhất: Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (trời đất, vạn vật). </i>


ở giai đoạn đầu của lịch sử tư tưởng Trung Quốc, trời được xem
là vị thần tối cao, có nhân cách. Trong quan niệm đó, người ta cho rằng,
trời sinh ra con người, chi phối sự sống chết, sướng khổ của con người;
trời sinh ra vũ trụ, các thiên thể (mặt trời, mặt trăng, các vì sao), sông
núi, động thực vật, sinh ra các hiện tượng mưa gió, sấm chớp, hạn hán,
lũ lụt, sâu bệnh. Từ đó họ cho rằng, kính trời thì trời cho mưa thuận gió
hồ, cịn nếu bất kính với trời thì trời giáng tai hoạ. Như vậy, quan niệm
về trời ở đây hồn tồn mang tính chất duy tâm thần bí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

người đều do “thiên mệnh” quy định. Ông nói: “Trời sinh đức tốt cho
ta” (Thiên sinh đức ư dư) [92; 332], “chết sống là có mệnh, giàu sang là


ở trời” (Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên) [92; 413]. Ơng cịn khẳng
định, trời có ý chí, có uy quyền, có vai trị to lớn như vậy, cho nên “kẻ
mắc tội với trời thì cầu đảo cũng chẳng có ích gì” (Hoạch tội ư thiên, vơ
sở đảo dã) [92; 267]; “Đến năm 50 tuổi thì biết được mệnh trời” (ngũ
thập tri thiên mệnh) [92; 227].


Khổng Tử còn cho trời là quy luật của vũ trụ, là trật tự của vạn vật
mà con người phải tn theo. Ơng nói: “Chỉ có trời là lớn” (Duy thiên vi
đại) [92; 352] và “trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ xoay vần, trăm lồi
cứ sinh hố. Trời có nói gì đâu” (Thiên hà ngơn tai, tứ thì hành yên,
bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai) [92; 519]. Tử Lộ hỏi sau khi chết
con người sẽ ra sao? Khổng Tử nói: “chưa biết được việc sống làm sao
biết được việc chết”.


Đối với quỷ thần, Khổng Tử hoài nghi về sự tồn tại của quỷ thần,
nên khi Tử Lộ lại hỏi về quỷ thần, ơng nói: “chưa biết chuyện người
làm sao biết chuyện quỷ thần”, đồng thời ông chủ trương với quỷ thần,
con người phải tơn kính, nhưng phải xa lánh “kính nhi viễn chi”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42></div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

nhiên cũng chính là vơ cùng trọng thị con người, đây là một biểu hiện
của chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng của ông.


Khổng Tử không quan tâm nhiều đến giới tự nhiên cũng như
quan hệ giữa con người và tự nhiên. Tuy nhiên, quan điểm về “trời” và
“mệnh trời” vẫn giữ một vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị –
xã hội của ơng, nhưng khi trình bày các luận điểm về “trời” và “ mệnh
trời” trong tư tưởng chính trị của ơng lại không nhất quán. Theo chúng
tôi, trước cảnh rối loạn của xã hội đương thời, Khổng Tử vẫn muốn
dùng mệnh trời như là một công cụ giúp giai cấp cầm quyền đương thời
sử dụng vào bình ổn xã hội. Còn đi vào thực chất vấn đề trời và mối


quan hệ giữa người và trời ra sao, thì câu trả lời phải đến các nhà Nho
sau Khổng Tử mới bàn tiếp. Mục đích của Khổng Tử nói về mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên vẫn là để ràng buộc mọi người bằng luận
điểm “Uý thiên mệnh, Uý đại nhân, Uý Thánh nhân chi ngôn” [92; 512]
(Sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời dạy của thánh nhân). Thông qua
những luận điểm trên để nói lên mối quan hệ giữa trời và người cho
thấy rõ ràng chủ trương của Khổng Tử là muốn sử dụng cả thần quyền
và thế quyền làm biện pháp cai trị thiện hạ.


<i>Thứ hai: Con người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

của mỗi người. Các quan hệ với tự nhiên hay xã hội của con người đều
mang tính chất khách quan.


Từ hoạt động thực tiễn con người hình thành nên nhiều mối quan
hệ như: quan hệ kinh tế, chính trị, pháp luật, quan hệ luân lý đạo đức,
quan hệ tơn giáo, quan hệ gia đình, . Trong đó Khổng Tử đặc biệt chú
ý đến quan hệ xã hội mang tính chất chính trị - đạo đức, vì điều này phù
hợp với tư tưởng chính trị và tư tưởng về đường lối đức trị của ông. Ông
cho rằng, chính trị - đạo đức quyết định sự an nguy của triều đình và sự
ổn định của xã hội. Sở dĩ quan tâm nhiều đến chính trị và đạo đức, bởi
bản thân Khổng Tử luôn cho rằng, sự sa sút về mặt chính trị, đạo đức là
nguyên nhân gây ra khủng hoảng về mặt kinh tế – xã hội. Do vậy, ông
chủ trương khôi phục sự rối loạn bằng việc tuyên truyền mọi người hãy
đối xử với nhau trong quan hệ xã hội theo đúng lễ nhà Chu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Trong các mối quan hệ xã hội, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đến
ba mối quan hệ chủ yếu trong xã hội đương thời, đó là: quan hệ quân –
thần (vua – tôi), phụ – tử (cha – con), bằng – hữu (bạn – bè) và
ông khẳng định đây là ba mối quan hệ cơ bản nhất trong xã hội. Chỉ cần


nắm vững được ba mối quan hệ đó là có điều kiện giải quyết mọi quan
hệ khác trong xã hội. Điều này thể hiện khi Tề Cảnh Công hỏi Khổng
Tử về việc làm chính trị, Khổng Tử liền trả lời: Phải làm cho “vua ra
vua, tôi ra tôi, con ra con”. Cảnh Cơng nói: “phải lắm! Nếu như vua
chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, thì
dẫu ta có thóc, ta có chắc được ăn khơng?” (Tề Cảnh Cơng vấn chính ư
Khổng Tử, Khổng Tử đối viết: “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”.
Cơng viết: thiện tai! Tín như qn bất qn, thần bất thần, phụ bất phụ,
tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư?) [92; 415]. Như vậy, trong
quan hệ vua phải làm hết phận của vua, bề tôi phải làm cho đúng phận
của bề tôi, con phải làm đúng với bổn phận của con. Hiếu chính là gốc
của đạo làm người, cho nên cha mẹ đối xử với con phải nhân từ và con
cái đối xử với cha mẹ phải hiếu kính. Cha mẹ phải yêu thương con cái,
phải là tấm gương mẫu mực về mọi mặt để con cái noi theo, làm theo,
để làng xóm nhìn vào. Cha mẹ có nghĩa vụ ni dạy con cái thành người
<i>như Kinh Lễ đã dạy: Một cậu con trai trưởng thành (20 tuổi) thì theo lễ </i>
đội mũ, người cha dạy cho con những phận sự của kẻ trượng phu. Khi
cô gái đến tuổi xuất gái, người mẹ dạy cho con những phận sự của kẻ
làm vợ. Khi đưa con về nhà chồng, người mẹ dạy cho con những phận
sự của kẻ làm vợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Về hiếu với cha mẹ, Khổng Tử đã chỉ rõ, hiếu là con cái phải đem
hết sức mình mà phụng dưỡng cha mẹ “hiếu là phụng dưỡng cha mẹ với
lịng kính trọng” [92; 246], phụng thờ cha mẹ phải theo lễ: “Làm con
khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì
theo lễ mà an táng, và khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ” [92; 245].
Như vậy, “hiếu” là đức hạnh cần có ở tất cả mọi người, có ảnh hưởng
vượt ra ngoài cả quan hệ gia tộc và hiếu chính là cơ sở cho “trung”;
quan hệ cha – con là nền tảng cho quan hệ vua – tôi. Do đó, Khổng
Tử giáo dục “hiếu, đễ” cho học trò trở thành những con người hoàn


thiện, có thể đảm đương được việc trị quốc, an dân. Khổng Tử tin rằng
người có hiếu thì sẽ cảm hóa được dân chúng. Ơng nói: “nếu mình ăn ở
hiếu với cha mẹ, từ với con cái và mọi người thì dân sẽ trung thành với
mình” [92; 248]. Từ những phạm trù quan hệ đạo đức trong gia đình với
mục đích chính trị đã được chuyển thành những phạm trù quan hệ chính
<i>trị – xã hội. Theo đó, sách Đại học ghi rõ: “Đạo hiếu [đối với cha] </i>
cũng chính là để thờ vua, ..., đạo từ [đối với con] cũng chính là để sai
khiến dân chúng vậy” [92; 57].


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

kính; nếu nhà vua trọng người huynh trưởng, thì dân chúng sẽ dấy lên
phong khí lễ nhượng; nếu nhà vua thương xót kẻ cơ độc thì dân chúng
sẽ không rời bỏ” [92; 62].


Phát triển tư tương của Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng: Nếu vua
thương u bề tơi, thì bề tơi sẽ trung thành với vua. Cịn nếu như vua coi
bề tơi như chó ngựa, thì bề tơi coi vua như kẻ qua đường, vua coi bề tơi
như bùn rác, thì bề tôi coi vua như giặc thù. Như vậy, quan hệ Vua –
tôi là quan hệ mang tính chính trị là chủ yếu, nhưng ít nhiều vẫn biểu
hiện tính nhân văn sâu sắc.


Quan hệ bạn bè (bằng hữu) là đại diện cho các mối quan hệ khác
ngoài xã hội. Đối với bạn bè nói riêng và mọi người nói chung, điều
quan trọng nhất là phải giữ được sự tín thực. Tăng Tử nói: “Ta hàng
ngày tự xét mình ba điều: Làm việc gì cho người mà khơng hết lịng
chăng; kết giao với bạn bè có điều bất tín chăng; thầy truyền dạy mà ta
khơng học tập chăng?” (Ngô, nhật tam tỉnh ngô thân vi nhân mưu, nhi
bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?) [92;
210]. Khổng Tử muốn nói trong quan hệ bạn bè, chữ tín phải được đặt
lên hàng đầu “Bằng hữu hữu tín”. Tín là lịng tin tưởng ngưỡng mộ lẫn
nhau, nó là điều kiện tiên quyết trong giao kết, kết nghĩa bạn bè theo


tinh thần người trong bốn biển đều là anh em bè bạn. Do đó, Khổng Tử
và các nhà Nho sau này đều cho rằng, đã là bạn của nhau thì phải sống
hết mình, ln thẳng thắn trung thực với nhau, lựa lời can gián khi bạn
mắc lỗi lầm, bạn gặp khó khăn thì hết sức giúp đỡ. Khổng Tử cho rằng,
“kẻ sĩ phải là người đối với bạn bè phải tha thiết hết mình”. Ông là một
tấm gương sáng trong kết giao với bạn bè. Tín cịn được thể hiện trong
quan hệ chính trị để nói về mối quan hệ giữa dân và triều đình. Khổng
Tử xác định việc triều chính đứng vững được là do dân ủng hộ. Trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Khổng Tử trả lời: “Lương thực đầy đủ, đủ binh lực, dân tin cậy”. Tử
Cống hỏi tiếp: Trong ba điều đó nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt, thì bỏ điều
nào? bỏ binh lực. Tử Cống lại hỏi: Trong hai điều đó nếu bất đắc dĩ phải
bỏ bớt, thì bỏ điều nào trước? Bỏ lương thực. Từ xưa đến nay ai cũng
phải chết, nhưng dân không tin thì nước khơng đứng được” [92;424-
425]. Khổng Tử đã thấy được vai trò quan trọng của lương thực, binh
lực, dân tin trong chính sự, nhưng ơng muốn nói lên vai trò quan trọng
nhất là phải giữ được lòng tin đối với dân. Như vậy, trước cảnh loạn lạc
của xã hội đương thời, đòi hỏi con người phải có đức “tin” với nhau
trong tất cả các mối quan hệ. Điều này, không chỉ thể hiện mong muốn
của Khổng Tử, mà còn là yêu cầu của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ.


Tử Hạ có một câu nói mang tính tổng kết cả ba mối quan hệ cơ
bản trên: “người đổi lòng hiếu sắc ra lịng hâm mộ người hiền, đem hết
sức mình mà thờ cha mẹ, liều thân mình mà thờ Vua, giao tiếp với bằng
hưũ thì nói lời giữ lời thì dẫu có ai nói rằng người đó chưa học đạo lý,
tơi vẫn nói là đã có học rồi.” (Hiền hiền dịch sắc sự phụ mẫu năng kiệt
kỳ lực, sự quân năng trí kỳ thân, dữ bằng hữu giao ngơn nhi hữu tín; tuy
viết vi học, ngơn tất vị chi học hỹ) [92; 210].


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

vua – t«i, cha – con, b¹n – bÌ cđa Khỉng Tư vÉn mang tÝnh nh©n


văn, nhân bản sâu sắc.


Khng T a ra iu kiện để duy trì các nguyên tắc trong quan
hệ xã hội của con người. Ơng nói: “Từ thiên tử cho đến thứ dân đều
phải lấy tu thân làm gốc”. Quan điểm tu thân ở đây, Khổng Tử cho yếu
tố chủ quan, yếu tố tự giác trong mỗi con người giữ vai trò quyết định.
Và trong quan niệm của ông, pháp luật cũng có vai trị hỗ trợ cho
nguyên tắc làm người. Nếu như có trường hợp đã học tập và tu thân mà
không làm đúng được nghĩa vụ cần thiết thì có pháp luật trừng trị.


Như vậy, về quan hệ xã hội của con người Khổng Tử mong muốn
mọi người phải tu dưỡng để đạt đến “nhân”, nên ông chủ trương thực
hành và giáo dục “nhân” và coi đó là nội dung cơ bản, quan trọng nhất
của đạo làm người. “Nhân” thể hiện đạo làm người, thể hiện đạo của
người quân tử, bao gồm cả “trung”, “thứ”, “trí”, “dũng”, “tín”,
“nghĩa” , có gốc từ hiếu, đễ, nhưng cả “nhân”, “trung thứ” và “hiếu,
đễ” đều trong phạm vi “lễ” quy định. Nên, Khổng Tử hết sức coi trọng
lễ. Ông coi “nhân” là nội dung đích thực của lễ. Nhân và lễ gắn bó chặt
chẽ với nhau và ông coi sự gắn kết đó là chuẩn đích tối cao trên con
đường hoàn thiện nhân cách lý tưởng của người quân tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

khác, đến cộng đồng, thì cũng được cộng đồng quan tâm trở lại, nên họ
có điều kiện để sống với mọi người mà không cảm thấy cô đơn. Do đó,
con người có thể khắc phục được những khó khăn, thử thách trong cuộc
sống. Bên cạnh đó, Khổng Tử ln nhìn con người trong mối quan hệ xã
hội, yêu cầu họ phải thực hiện các nghĩa vụ, khơng cho phép cá tính và
cá nhân con người phát triển độc lập. Điều đó là trái với lẽ tự nhiên, vì
mỗi một người là một tính cách riêng, là một thực thể riêng lẻ cần phải
phát triển toàn diện cá nhân. Trong khi đó Khổng Tử chỉ chủ yếu phát
triển về mặt chính trị, đạo đức và dùng đạo đức để trói buộc con người


phải quy phục. Phát triển chính trị, đạo đức là cần thiết, nhưng trong
cuộc sống con người cần phải quan tâm đến giới tự nhiên, về sản xuất
vật chất, về sự mạo hiểm để khám phá ra nhiều bí ẩn của thiên nhiên và
xã hội . Những vấn đề đó Khổng Tử chưa làm được, đây là hạn chế
của Khổng Tử và cũng là hạn chế của lịch sử.


Tóm lại, mục đích cuộc đời của Khổng Tử là làm chính trị, nhưng
trong khi nói về tư tưởng chính trị – xã hội, ông cũng đã chú ý đến sự
hài hoà giữa con người với tự nhiên và xã hội. Điều này nhằm tạo sự ổn
định cho cuộc sống con người, nhưng mặt khác cũng dễ khiến con
người bằng lòng với thực trạng, dễ có sự an phận, thiếu ý chí vươn lên,
phá vỡ cái cũ, để xác lập cái mới.


<b>2.2. Nhân, lễ, chính danh hạt nhân tư tưởng chính trị xã hội của </b>
<b>Khổng Tử </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<i><b>2.2.1. Nhân trong tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử </b></i>


Tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử được thể hiện cốt yếu
nhất trong luân lý đạo đức đó chính là đạo “nhân”. Khổng Tử coi
“Nhân” là đức căn bản nhất của con người, cả về tu thân lẫn xử thế và
nó được thể hiện ở đạo làm người, đạo của người quân tử.


Theo Khổng Tử, trước hết “Nhân” là những chuẩn mực đạo đức
thông thường mà bất kỳ người nào trong xã hội cũng cần phải có để đối
nhân xử thế. Đức hạnh cao nhất mà con người cần trau dồi để đạt tới là
đức “Nhân”. Đức “Nhân” thể hiện trước tiên trong mối quan hệ huyết
thống, đồng thời là những mắt khâu liên hệ con người trong mọi hoạt
động của xã hội. “Lập chí ở Đạo, căn cứ ở đức, chỗ dựa ở nhân, vui chơi
ở nghệ” (Lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số) [92; 342]. Thật vậy, Nhân


là “ái nhân” (yêu người) [92; 427] và “phiếm ái chúng”(yêu rộng mọi
người), lấy việc “yêu người” làm tiêu chuẩn đầu tiên cho đạo làm người.
Tư tưởng “yêu rộng mọi người” đã tách ông ra khỏi địa vị một nhà tư
tưởng của giai cấp thống trị đương thời, vì trong khi giai cấp thống trị đang
làm mọi cách để bảo vệ quyền lợi gia tộc dịng dõi của mình, họ chỉ biết
đến có mỗi chữ “thân”, thì Khổng Tử lại vượt ra ngồi khn mẫu truyền
thống bằng tư tưởng “ thương yêu dân, gần gũi với người nhân” [92; 224].
Điều này cho thấy, “Nhân” trong tư tưởng chính trị - xã hội của ơng mang
tính phổ biến, chứ khơng chỉ bó hẹp trong quan hệ của giai cấp cầm quyền
như trước nữa. Có thể nhận thấy rằng, tư tưởng “ái nhân” (yêu người) là nội
dung cốt lõi nhất của “Nhân”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

chỉ ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng cả sang nhiều nước phương Đông
cho đến tận ngày nay.


Trong tư tưởng “Nhân” của Khổng Tử luôn gắn liền với “Lễ”, để
thực hành điều “nhân” phải có “lễ”, vì “khắc kỷ phục lễ vi nhân” (sửa
mình khơi phục lễ là nhân) [92; 423]


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

trong quan hệ với người, nếu “cung kính thì khơng bị sỉ nhục, khoan
hồ thì được lịng người, thành thực thì được tín nhiệm, cần mẫn thì có
cơng, làm ân huệ thì dễ sai khiến người” [92; 528- 529]. Những luận
điểm trên của Khổng Tử cho thấy, mỗi người để trở thành người quân tử
(con người lý tưởng) thì điều quan trọng nhất là phải không ngừng tu
dưỡng theo chuẩn mực đạo đức và thi hành theo đúng với những nguyên
tắc đạo đức mà ông nêu ra.


Trong tư tưởng “Nhân” của Khổng Tử còn bao hàm cả nghĩa,
trung, thứ. Người có đức nhân thì theo nghĩa, thấy việc gì đáng làm thì
làm mà khơng hề mưu tính lợi cho riêng mình, khơng cần biết hậu quả


với mình ra sao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

nhân. Khổng Tử chủ trương “phiếm ái chúng” (yêu rộng mọi người),
nhưng tình yêu đó lại phân biệt thứ bậc, thân sơ, sang, hèn và tiết chế
lòng yêu người bằng “Lễ” của chế độ tơng pháp. Đây chính là hạn chế
trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử, đồng thời đó cũng
chính là hạn chế của lịch sử mà dẫu có muốn Khổng Tử cũng khơng thể
thốt ra được. Tuy nhiên, nếu gạn bỏ đi những hạn chế thì tư tưởng
“Nhân” của Khổng Tử cũng có nhiều ý nghĩa tích cực to lớn trong rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức để phát triển nhân cách của con người.


Khổng Tử luôn đề cao vai trị của đạo đức, coi đạo đức là cơng cụ
hữu hiệu nhất để thực hiện những mục đích chính trị- xã hội. Vì, đạo
đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất của giai cấp thống trị trong bảo vệ
quyền lợi, duy trì địa vị của mình trong việc trị nước và quản lý mọi mặt đời
sống xã hội. Khổng Tử nói: “Dẫn dắt (dân) bằng chính pháp, sửa trị dân
bằng hình phạt, thì dân chỉ tạm tránh được tội lỗi, chứ không có lịng hổ
thẹn. Nếu dẫn dắt bằng đạo đức, sửa trị bằng lễ giáo, thì dân khơng những
có lịng hổ thẹn mà cịn cảm hố quy phục” [92; 244 - 245], Khổng Tử còn
khẳng định đạo đức là biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thu phục lòng dân
của giai cấp thống trị. Ơng nói: “Làm chính trị bằng đức, thì tự mình sẽ
giống như sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ, mà mọi vì sao khác chầu quanh
mình” [92; 244]. Việc thực hành đức nhân đóng vai trị quyết định đối với
việc xây dựng mẫu người lý tưởng và góp phần tạo lập xã hội lý tưởng theo
quan điểm của Khổng Tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

nói: “Người quân tử chẳng bao giờ rời bỏ điều nhân, dù chỉ trong
khoảng thời gian một bữa ăn, dẫu trong cơn vội vàng hay lúc nghiêng
ngả chao đảo, người ấy cũng vẫn ở với điều nhân” [92; 208]. ở đó
Khổng Tử cho rằng, người quân tử là người có đạo đức, học vấn ln


thực hành nhân, lễ, trí , tín và rành việc nghĩa, coi thường lợi ích riêng
cho bản thân. “Người quân tử luôn để tâm vào đạo, không để tâm vào
miếng ăn, , người quân tử chỉ lo đạo, không lo nghèo” [92; 500].
Khổng Tử cho rằng, người qn tử khơng chỉ biết đạo, ham tìm hiểu đạo
mà còn phải vui với đạo nhân. Ơng nói: “Biết đạo chẳng bằng ưa đạo,
ưa đạo chẳng bằng vui với đạo” [92; 326]. Người quân tử khi chưa hiểu
được đạo thì lo lắng, bực tức đến nỗi quên ăn, khi hiểu được đạo thì vui
mà qn cả buồn đó chính là đạo “Nhân”. Người quân tử không bao giờ
rời bỏ đạo “Nhân” dẫu trong cơn vội vàng hay lúc nghiêng ngả, vì đạo
nhân là chuẩn mực đạo đức cao quý nên người quân tử dốc lòng tin theo
và ham học đến nỗi có thể chết mà hành được đạo nhân thì cũng là việc
nên làm. Khổng Tử cho rằng, tiểu nhân chỉ biết về lợi, còn người quân
tử hiểu rõ về nghĩa lợi, “người khơng có đức nhân thì khơng thể ở lâu
trong cảnh khốn cùng, cũng không thể ở lâu trong cảnh hoan lạc. Người
có đức nhân vui lịng làm điều nhân, vì đức nhân có lợi cho mình và cho
người nên làm điều nhân”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

việc xấu” [92; 426], người quân tử trong quan hệ với người thì khiêm
tốn, cung kính, “đồn kết mà không câu kết”. Nhà cầm quyền muốn cho
dân kính trọng, trung thành thì “đến với dân trong thái độ trang nghiêm.
Ăn ở có hiếu thì dân sẽ trung thành ... Cất nhắc người tốt và giáo hố kẻ
kém thì dân sẽ khun nhau làm điều tốt” [92; 248]. Qua đó cho thấy,
Khổng Tử muốn nhấn mạnh đến chữ “tín” trong quan hệ chính trị – xã
hội của con người. Ơng nói: “làm người khơng có chữ tín thì chẳng biết
có thể làm gì được. Có khác nào cỗ xe lớn khơng có cái nghê ( chốt giữ
ngang trước càng xe), hay cỗ xe nhỏ mà khơng có cái ngột, thì làm sao
mà đi được” [92; 248], “Người quân tử không có gì phải tranh, nếu buộc
phải kể sự tranh thì chỉ có ở cuộc thi bắn tên, nhưng ngay cả khi tranh
đua trong cuộc thi bắn tên ấy người ta cũng trước hết vái chào, nhường
nhau mà lên thềm, bắn xong thì xuống và uống rượu” [92; 266].



Theo Khổng Tử, người đạt được đỉnh cao trong việc rèn luyện bản
thân là con người lý tưởng có ba phẩm chất nhân – trí – dũng, là con
người “tồn đức”. Ơng nói: “Đạo người qn tử có ba điều, mà ta chẳng
làm được một: người nhân không lo buồn, người trí khơng lầm lạc,
người dũng không sợ sệt” [92; 477]. Khổng Tử còn nhấn mạnh, con
người chỉ có thể trở nên hồn thiện tồn đức khi có nhân, trí, dũng, song
phải giữ mình theo đúng “lễ” mới được. Khổng Tử nói: “trí có thể đạt
tới, song nhân khơng đủ để giữ lấy, thì dẫu có đạt được rồi, cũng sẽ mất
đi. Trí có thể đạt tới, nhân đủ để giữ lấy, song đến với dân mà khơng
trang nghiêm thì dân cũng chẳng kính. Trí có thể đạt tới, nhân đủ để
giữ lấy, trang nghiêm mà đến, song không theo lễ mà tác động, thì cũng
chưa phải là hoàn thiện” [92; 500].


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

người khi tu dưỡng cho mình những chuẩn mực đạo đức đó sẽ bảo tồn
được điều thiện, trừ bỏ được tính ác và xã hội sẽ khơng cịn loạn lạc.
Nhưng, để đạt được những chuẩn mực đạo đức nhân, lễ, trí, tín, hiếu,
trung, nghĩa đó, thì mọi người trong thiên hạ từ thiên tử đến thứ dân
luôn phải tận tâm trong việc “tu thân” (tu dưỡng đạo đức). Điều này
<i>trong sách Đại học đã chỉ rõ: “Từ Thiên tử cho đến thứ dân, tất cả đều </i>
lấy việc sửa mình làm gốc” [92; 36].


Như vậy, tư tưởng “nhân” của Khổng Tử từ chỗ coi trọng, quan
tâm đến con người trong các mối quan hệ xã hội của con người và đánh
giá con người chủ yếu từ phương diện chính trị - đạo đức. Cho nên, ông
không chỉ đề cao những chuẩn mực đạo đức trong các quan hệ xã hội
mà còn tuyệt đối hố vai trị của đạo đức trong đường lối đức trị, coi
đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất để khơi phục, duy trì trật
tự, kỷ cương, ổn định xã hội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

làm sao cho phải với đạo trời và đạo người trong tư tưởng chính trị - xã
hội của Khổng Tử.


Từ sự phản ánh quan hệ tông pháp đi đến vai trị chính trị là tu
thân để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tư tưởng chính trị xã hội của
Khổng Tử xuất phát từ quan hệ nhân ln ngay trong gia đình đến ngồi
xã hội bằng hạt nhân “nhân đức” và “lễ nghĩa” làm quy phạm. Từ hiếu
với cha mẹ mở rộng ra đến trung với vua, từ nhân ái suy diễn đến tín
nghĩa tạo nên những mối quan hệ ràng buộc mang tính chất chính trị
quyền lực, chính quyền, tộc quyền, phụ quyền, phu quyền, huynh
quyền , hệ thống quyền lực này chi phối toàn bộ xã hội bằng cách luân
lý chính trị hố và chính trị ln lý hố hay nói cách khác là đường lối
đức trị.


Khổng Tử nói, Ngày xưa vua sáng suốt là cai trị thiên hạ bằng
hiếu, là nhằm tuyên truyền tinh thần lấy lịng u kính để cai trị thiên
hạ, biến cả thiên hạ thành một gia đình lớn với cái khung tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Như vậy, Khổng Tử đã biến đạo hiếu trong quy
phạm đạo đức huyết thống thành tư tưởng chính trị- xã hội của chế độ
tông pháp. Điều này đã bẻ cong ý nghĩa của đạo hiếu, từ đó nhà Nho
làm bất cứ việc gì đều xét trên nguyên tắc từ trên xuống dưới, lấy quan
hệ luân lý tình người làm tiêu chuẩn xử lý hết thảy mọi quan hệ xã hội.
Trong đó hạt nhân học thuyết chính trị – xã hội của Khổng Tử là Nhân
và Lễ. Theo Ông, “nhân” là nội dung của lễ, “Lễ” là hình thức biểu hiện
của nhân. Ông dùng “nhân” làm thủ đoạn để đạt được mục đích chính
trị được thể hiện qua hình thức thực hiện lễ. Từ đó, ơng địi hỏi con
người phải khơi phục lễ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

đến trung quân, từ “nhân ái” đến “tín nghĩa” tạo thành nguyên tắc ứng
xử theo nhân nghĩa, trung nghĩa, tín nghĩa, đạo nghĩa . Trong cuộc


sống mọi người làm gì đều bị bó buộc trong cái quan hệ nội ngoại, trên
dưới theo tôn ty từ cao xuống thấp . Từ đó gạt bỏ di cái chính nghĩa,
độc lập, bình đẳng của cái tơi cá nhân.


“Nhân” trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử vừa là
con đường tu dưỡng cá nhân và là mục đích cao nhất của đạo làm người
mà từ thiên tử đến dân đều phải có. Nhân là yêu người, nhưng khi xét về
nhân như một phạm trù đạo đức mang tính chất chính trị, thì tình u
đó là tình u mang tính giai cấp, chứ khơng có lịng u thống nhất và
nó được quy định bởi “lễ” và “nhân” ở đây chính là cơng cụ chính trị
nhằm mục đích chính trị để duy trì trật tự kỷ cương của xã hội.


Tư tưởng ‘‘nhân’’ của Khổng Tử nói về sự tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, nhân cách cá nhân là rất có giá trị. Thực tế trong từng thời kỳ
lịch sử Việt Nam đã rèn luyện lên những con người có nhân cách kỳ
tuyệt như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu,
Hồ Chí Minh, . Đó không chỉ là những nhân cách vĩ đại trong quá khứ,
mà còn là những con người đủ sức đi tới tương lai.


Trong đời sống xã hội Việt Nam khái niệm “tình nghĩa” gần hơn
khái niệm “nhân nghĩa”. ở trong truyền thống văn hố của người Việt
“tình làng nghĩa xóm” được kết tinh thành một giá trị độc đáo của văn
hố dân tộc. “Tình nghĩa” trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt
Nam được hun đúc thành “tình sâu nghĩa nặng”, “trọn tình vẹn nghĩa”
là những phẩm giá nhân văn cao quý nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

xã hội. Sống có tình nghĩa cũng chính là đích vươn tới trong đạo làm
người của người Việt không chỉ trong lịch sử mà còn biểu hiện trong
ngày nay.



Hiện nay, trong xã hội xuất hiện những hiện tượng con cái bất
hiếu với cha mẹ, kỷ cương nề nếp bị lơi lỏng, lối sống buông thả, sự
thoái hoá biến chất của một số cán bộ đảng viên . Trước thực trạng
này, những tư tưởng nhân, nghĩa, chính danh, tình thương yêu con
người, ý thức trách nhiệm trong tư tưởng chính trị - xã hội của Khổng
Tử nếu gạt bỏ đi những yếu tố tiêu cực, thì vẫn được coi là những giá trị
tích cực cần được kế thừa và phát huy trong việc rèn luyện nhân cách
cho mỗi người Việt Nam hiện tại.


<i><b>2.2.2. Lễ trong tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử </b></i>


Một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị- xã hội
của Nho giáo là Lễ. Xưa nay mỗi khi các nhà Nho nói đến các quan hệ
đạo đức, chính trị của con người thường gắn liền với “lễ”. Theo sách


<i>Thuyết Văn giải tự, lễ là kính thần cầu phúc, phản ánh mối quan hệ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

dó. Nhõn quân chấp lễ dĩ trị quốc, do tương nhân chấp phủ cân chi bính
trị khí dã” – (Cán (chi) cầm để sửa vật. Vua nắm lễ để cai trị nước
cũng như người thợ cầm rìu để sửa đồ). Lễ dần dần vật hoá thành tập
tục sinh hoạt, ngưng tụ thành tư tưởng truyền thống, khiến cho “lễ” và
“pháp” vừa có liên hệ vừa có khác biệt, có tính cưỡng chế, tính bó buộc,
bị động và phục tùng. Trong thực tiễn “lễ”, nhân tố chủ yếu là đi lên,
cuối cùng hình thành một đặc trưng phương thức sinh hoạt về lễ của văn
hoá Nho giáo - giống như pháp mà chẳng phải pháp, khơng có pháp
(luật) mà thành có pháp (luật). Như vậy, lễ là một trong những công cụ,
phương tiện được dùng để ràng buộc con người, là công cụ để cai trị,
quản lý xã hội.


Nội dung của “lễ” lại rất rộng, bao gồm tế lễ, tang lễ, ngoại giao


lễ, tác chiến lễ, hơn nhân lễ, nó duy trì quy phạm đạo đức và nghi thức
lễ tiết, trật tự xã hội.


Việc tế lễ xuất hiện sau khi xã hội có giai cấp và nhà Chu cai trị
dựa vào lễ và tập tục để xây dựng nên những quy phạm về chính trị, làm
cho lễ từ nội dung sinh hoạt văn hoá tinh thần chuyển hố thành nội
dung mang tính chất chính trị của chế độ tơng pháp. Nhưng, “Lễ” là gì?
<i>sách Tả truyện, Hồn Cơng năm thứ hai nói: “Danh là để đặt ra ý nghĩa, </i>
nghĩa là để đặt ra lễ, lễ là để thể hiện ra các điều chính sự, chính sự là
để làm cho dân ngay thẳng. Vì thế chính sự được tốt thì dân mới nghe”.
<i>Tiếp đó, Tả truyện, Trang Công năm thứ XVIII lại nói: “Danh vị khác </i>
<i>nhau, thì lễ cũng có thứ bậc khác nhau”, “Danh vị là cái mà sách Quốc </i>


<i>Ngữ đã viết: “Người xưa, khi đức tiên vương đã có thiên hạ thì sùng bái </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

quyền họ. Thứ dân, thợ thuyền, lái bn đều giữ gìn nghề nghiệp của họ
để cung phụng người trên. Vì e sợ bị sút kém, cho nên mới lấy cái thứ
xe kiệu, áo quần, cờ tướng để nêu các bậc đó lên, lấy việc cấp bậc sang
hèn để xếp đặt họ, lấy những tiếng hay lời tốt để biểu dương họ”.


“Lễ” tức là danh phận của các đẳng cấp trong xã hội, cho nên
ngay cả trong các tầng lớp thống trị, “lễ” cũng được quy định theo thứ
bậc. Do đó, từ thiên tử, các chư hầu (Công, hầu, bá tử, nam, đại phu
(thượng, trung, hạ), sĩ (thượng, trung, hạ) mỗi hạng đều có các lễ phải
giữ danh phận mình. Lễ trở thành cơng cụ chính trị mạnh mẽ, là một
phương pháp trị nước, trị dân đắc lực của giai cấp thống trị lúc bấy giờ.


“Lễ ”trong các cuộc hội, triều, chinh phạt giữa các lãnh chúa có
tác dụng thể hiện sự phân chia đẳng cấp xã hội như sau:



Nguyên “lễ” là để hướng dẫn cho dân được nghiêm chỉnh. Cho
nên, “hội” là để giáo dục các phép tắc trên dưới, đặt mức độ phân phát
tiêu dùng tài vật. “Triều” là để uốn nắn ý nghĩa mọi cấp bậc, xếp đặt thứ
tự kẻ trên người dưới. “Chinh phạt” là để trừng trị kẻ không giữ phép
thường”.


ở hôn, tang, tế, “lễ” cũng biểu hiện tính đẳng cấp của nó. Như
<i>các chương Trang phục tiểu ký và Đại truyện, sách Lễ ký có ghi: “Người </i>
con riêng một ngành gọi là tổ của ngành ấy, kế thừa ngành ấy về sau
gọi là tông, kế thừa các ngành gần gọi là tiểu tông có những tơng hàng
trăm đời khơng thay đổi. Có những tơng mới chỉ tồn tại được năm đời
đã thay đổi”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

“Người Sở đánh được vua của Nhung, đến nơi lập ra tông để dụ dỗ các
dân chạy loạn” (Tả truyện).


Cách tổ chức duy trì chế độ tơng pháp trong các tập đồn thống trị,
có liên quan chặt chẽ với việc cai trị đất nước. “Đạo người là phải thân thiết
với những người thân thích. Thân thiết với người thân, cho nên phải tôn
trọng tổ tiên, tơn trọng tổ tiên cho nên phải thờ kính tơng, thờ kính tơng cho
nên thu phục được họ hàng, thu phục được họ hàng, cho nên tông miếu
được nghiêm, tông miếu được nghiêm cho nên coi trọng xã tắc, coi trọng xã
<i>tắc, cho nên yêu quý trăm họ” (Lễ ký, Chương Đại truyện). </i>


Cơ sở lý luận của chế độ tông pháp là nền luân lý, hiếu, đễ, trung,
tín, cho nên, vua chúa phong kiến đã hết sức coi việc thờ cúng tổ tiên
và các giáo điều luân lý làm trung tâm “giáo hóa” nhân dân. Vì vậy, về
sau quy định ra nhà thờ tổ tiên như một thứ giáo đường mà khơng có
tính chất giáo đường, và cũng là quy định ra Nho giáo là một tôn giáo
mà khơng có tính chất tơn giáo.



“Lễ” là một phạm trù đạo đức, là những chuẩn mực của đạo làm
người, ngoài ra Lễ còn bao gồm nhiều nội dung khác nhau, song chủ
yếu nó vẫn thể hiện rõ trong phương diện chính trị – xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

Theo Khổng Tử, tất cả những điều không phù hợp với “lễ” quy
định, thì đừng xem, đừng nghe, đừng nói, đừng làm. Qua đó, chúng ta
thấy chỉ có làm theo những quy định của “lễ” mới gọi là đạt được điều
nhân. Con người trái với lễ tức là trái với điều nhân. Khổng Tử còn đề
xuất học thuyết “Lễ trị” (cai trị bằng lễ) coi trọng giáo hoá, yêu cầu làm
cho dân “tri chi” (biết điều đó), nhưng thực chất Khổng Tử chỉ muốn
mọi người trong xã hội học lễ để làm theo đúng danh phận đẳng cấp của
mình. Khổng Tử nói: “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” [92; 350]
(Dân có thể khiến (họ) làm theo, chứ không thể khiến họ biết đạo lý).
Khổng Tử nhấn mạnh đến quan hệ giữa người sai khiến và người bị sai
khiến. Khổng Tử nói: “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo
tắc dị sử dã” [92; 527]- (Quân tử học Đạo thì yêu mến mọi người, tiểu
nhân học Đạo thì dễ sai khiến). Điều đó càng chứng tỏ mục đích của
Khổng Tử là chỉ muốn cho dân biết lễ mà tuân thủ theo sự cai trị của
giai cấp cầm quyền.


Lễ là phạm trù chỉ tôn ty, trật tự, kỷ cương của xã hội mà tất cả
mọi người trong xã hội đều phải học, phải tuân theo. “Lễ phân ra trật tự
khác nhau để cho vạn vật có thứ tự phân minh, thánh nhân mới nhân đó
mà định ra lễ chế để phân biệt tôn ty, trật tự khiến dân giữ lòng hiếu ố
cho vừa phải mà sửa lại cái đạo làm người cho chính vậy” [27;138 –
140]. Theo đó, thì xã hội sẽ có vua – tơi, cha – con, chồng – vợ, có
người thân kẻ sơ, có việc trái việc phải, do đó, phải có lễ để cho quan hệ
phân minh rõ ràng. “Cha từ, con hiếu, anh nhượng, em đễ, chồng nghĩa,
vợ nghe, người lớn có huệ, người nhỏ thuận theo, nhà vua nhân đức, bề


tơi hết lịng” [89; 19].


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Trong các quan hệ đó, biểu hiện của lễ trong quan hệ chính trị - xã hội
là bề tôi phải tận trung với vua, nhà vua phải thương u bề tơi, Khổng
Tử nói với Lỗ Định Cơng rằng: “vua khiến bề tôi bằng chữ lễ, bề tôi thờ
vua bằng chữ trung” [92; 268]. Lễ được thể hiện ở việc cha, mẹ phải
thương yêu con cái, con cái phải hiếu, kính với cha mẹ, tổ tiên, thuận
hoà với anh em. Con cái hiếu đễ với cha mẹ là phải “đem hết sức mình
mà thờ cha mẹ” [92; 225]. Thực hiện lễ, theo Khổng Tử, cũng là làm
chính trị, là một phương diện của chính trị.


Có người hỏi Khổng Tử: Sao không ra làm chính sự? Ơng đáp:
“Kinh Thi có nói về đạo hiếu đấy thơi. "Chỉ có hiếu với cha mẹ, thuận
với anh em và thực thi đạo ấy ra chính sự’’. Như thế cũng là làm chính
sự rồi, chứ thế nào nữa mới là làm chính sự?” [92; 248]. Ơng cịn nói:
“Ra ngồi thì thờ cơng khanh, về nhà thờ cha anh, có việc chẳng dám
khơng lo lễ tiết cho chu toàn” [92; 376]. Làm con thờ phụng cha mẹ
phải theo lễ: “làm con khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ,
khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, và khi cúng tế cũng phải theo
đúng lễ” [92; 245].


Khổng Tử chỉ ra sự hiếu kính của con cái đối với cha mẹ, không
chỉ bổn phận ở sự nuôi dưỡng mà là biểu hiện của quan hệ tình cảm
huyết thống xuất phát từ nội tâm mà biểu hiện ra ở lòng thành kính. Tử
Du hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử nói: “Ngày nay người ta thấy ai ni
được cha mẹ thì gọi là người có hiếu. Nhưng đến như chó ngựa, thì
người ta cũng nuôi được đấy. (Cho nên nếu nuôi cha mẹ mà) chẳng kính
trọng thì có khác gì ni thú vật đâu? (Vậy, hiếu là phụng dưỡng cha
mẹ với lịng kính trọng)” [92; 246]. Nhưng, theo ông thờ cha mẹ “khó
nhất là giữ được vẻ hồ vui, (chứ cịn như) cha anh có việc mà con em


chiu khó nhọc làm giúp, hay mình có rượu có thức ăn thì mời cha anh


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Về tế lễ, Khổng Tử chú trọng nêu ra cần phải cung kính, nghiêm
túc và cẩn thận khi hành lễ, ơng nói: “Tế tổ tiên thì rất mực cung kính
cứ như có tổ tiên hiện lại. Tế thần thì cũng rất mực cung kính cứ như có
thần linh hiện lại” [92; 267]. Điều này Khổng Tử còn dẫn chứng tấm
gương vua Hạ Vũ rất cẩn trọng trong tế lễ: “ăn uống đạm bạc, nhưng lễ
vật cúng tế quỷ thần rất hậu; quần áo mặc thì xấu nhưng phất miện cúng
tế rất đẹp” [92; 326]. Và khi Lâm Phóng hỏi về việc thực hiện lễ, Khổng
Tử đáp: “quả là một câu hỏi lớn, nói về lễ xa hoa sao bằng tiết kiệm.
Nói về tang lễ thì cầu kỳ loè loẹt, sao bằng đau buồn, thương xót” [92;
265].


Để thấy được sự quan trọng của tế lễ, Khổng Tử cho rằng: “Dẫu
ăn cơm thô canh rau, cũng nhất định cúng tế, cung kính như trai giới”.
[92; 387], nhưng nếu tế lễ mà quá giản tiện, bỏ đi cả lễ vật thì dễ làm
người ta quên mất lễ. Cho nên, trong ngày làm lễ Cốc Sóc, Tử Trương
muốn bỏ lệ tế con dê sống, Khổng Tử phản đối và nói rằng: “Tứ ạ!
Ngươi tiếc con dê, ta thì tiếc cái lễ đó” [92; 268]. Khổng Tử là một tấm
gương thực hành việc lễ hết sức chu toàn và rất mực theo lễ. Điều đó
được thể hiện ở khi vào Thái Miếu thấy việc gì ơng cũng hỏi cặn kẽ.
“ Khi người làng làm lễ Na, ông mặc triều phục, đứng ở bậc thềm phía
đơng” [92; 388]. Trong khi xã hội biến đổi làm cho việc lễ cũng biến
đổi theo trong quan niệm của nhiều người, nhưng Khổng Tử vẫn giữ lại
những nghi lễ từ trước thời nhà Chu. Chính vì đề cao việc tế lễ của
Khổng Tử mà sau này các nhà Nho đã phát triển yếu tố tế lễ làm cho
học thuyết của ông bị đánh đồng như một tôn giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Tử nói: “người nào biết lễ tế Đế, thì đối với việc cai trị thiên hạ, phải
nói là dễ như bỏ một vật lên lịng bàn tay mình vậy” [92; 267]. Nhà Chu


dùng lễ trói buộc quần chúng phải sống theo địa vị đã được định sẵn.


Với mục đích làm chính trị của mình, bằng phương pháp dẫn dắt
từ lễ, Khổng Tử đã ra sức giáo hoá lễ cho các học trò nhằm cung cấp
cho họ một khối lượng kiến thức cơ bản về một chế độ chính trị – xã
hội do ơng chủ trương xây dựng. Ông cho việc “Trị quốc bằng lễ” tức là
làm mọi quan hệ của con người từ trong gia đình cho đến ngồi xã hội
đều có trật tự trên dưới, phải làm cho “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha,
con ra con” [92; 426]. Khổng Tử chỉ ra tác dụng của lễ và nhấn mạnh
đến việc con người chỉ có thể sống thanh nhàn trong xã hội là nhờ hiểu
biết về lễ. Ơng nói: “Cung kính mà khơng biết lễ thì vất vả mệt nhọc,
cẩn thận mà không biết lễ thì thành ra nhút nhát, dũng cảm mà không
biết lễ thì thành ra loạn nghịch, thẳng thắn mà khơng biết lễ thì thành ra
gay gắt, khắc bạc” [92; 358].


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

trên chuộng lễ, thì dân chẳng dám bất kính” [92; 444]; và “Bề trên
chuộng lễ thì dân dễ khiến” [92; 480]. Nhấn mạnh tác dụng của việc
dùng lễ trị, Khổng Tử còn so sánh việc trị nước bằng lễ hiệu quả hơn
dùng pháp luật như sau: “Dẫn dắt dân bằng chính pháp, sửa trị dân bằng
hình phạt, thì dân chỉ tạm tránh khỏi tội lỗi, chứ khơng có lịng hổ thẹn.
Nếu dẫn dắt dân bằng đạo đức, sửa trị bằng lễ giáo thì dân khơng những
có lịng hổ thẹn mà cịn cảm hố quy phục” [92; 244- 245]. Vì thực hiện
điều lễ, trong tư tưởng của Khổng Tử là sự biểu hiện tư tưởng muốn duy
trì chế độ chính trị – xã hội tông pháp của nhà Chu. Với mục đích
chính trị đó, Khổng Tử đã giáo hố mọi người trong xã hội và đặc biệt
là giai cấp thống trị hiểu lễ, thực hiện theo lễ, từ đó bắt dân chúng phải
tuân theo. Vì, nhà vua có đạo đức và thi hành đạo đức của mình có ý
nghĩa giáo hố được dân chúng, thu phục được lòng người: “Thiện nhân
[nối nhau] cai trị đất nước được trăm năm, thì khắc phục hết sự tàn bạo
và bỏ hẳn được giết chóc”[92; 445].



</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

khơng thể thực hành lễ được. Ơng nói: “Người mà khơng có lịng nhân,
thì làm sao mà hành được lễ?. Người mà khơng có lịng nhân, thì làm
sao mà tấu được nhạc ?” [92; 265]. “Nhân” là gốc của lễ, vì thế mọi
người muốn đạt đến “Nhân” phải “khắc kỷ phục lễ”. Khổng Tử dùng lễ
để điều tiết mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, người
dưới phải phục tùng người trên, người trên phải lấy lễ mà đối đãi với
người dưới. Do vậy, lễ bổ sung cho “Nhân” và là yêu cầu khởi đầu
không thể thiếu được trong nội dung “Nhân” của Khổng Tử. Xuất phát
từ mục tiêu xây dựng mẫu người lý tưởng, Khổng Tử đã làm rõ nội dung
về “Nhân” để lấy đó làm tiêu chuẩn đạo đức cao nhất và cái đích cần
đạt đến của người quân tử. Ông đã đưa ra những nội dung cơ bản của
“Nhân” là “nhân ái”, trung thứ, hiếu, đễ, chính danh, nhưng tất cả đều
nằm trong phạm vi của lễ quy định. Do vậy, Nhân và Lễ luôn gắn chặt
với nhau, Lễ chính là điều kiện để đi được tới “Nhân”.


<b>Tóm lại: Tư tưởng Lễ của Khổng Tử thể hiện ở nghi thức tế lễ, </b>


các chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc chính trị của xã hội nhà Chu.
Trước sự loạn lạc của xã hội, để lập lại trật tự, kỷ cương của xã hội,
Khổng Tử dùng Lễ để giáo hoá mọi người. Do vậy, ở bất kỳ nội dung
nào của Lễ đều bó buộc, cột chặt con người vào một khuôn phép nhất
định và buộc con người từ thiên tử đến thứ dân đều phải cúi đầu tuân
thủ với những gì mà Lễ quy định. Điều này đã làm cho tư tưởng “lễ”
của ông trở nên cứng nhắc, giáo điều và có khuynh hướng bảo thủ.


Tuy nhiên, Khổng Tử cũng nhận thức được vai trị tích cực của lễ
trong đời sống xã hội và ông cũng đã có cơng trong việc lưu truyền và
gìn giữ những phong tục tập quán, những chuẩn mực đạo đức, văn hố
mà bản thân ơng là một tấm gương điển hình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

là nó đã xây dựng một xã hội con người có đạo đức, có nhân cách, nó là
phạm trù đạo đức được coi là mực thước đo hành vi của con người trong
xã hội.


Kế thừa tư tưởng lễ của Khổng Tử trong tiến trình cách mạng Việt
Nam Hồ Chí Minh nói: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều
sau đây: trí – tín - nhân - dũng - liêm”,[67; 434]. Đây là những phẩm
chất cách mạng mà người lãnh đạo luôn phải ghi nhớ. Hoặc lời dạy của
Bác về nhiệm vụ của người công an đối với nhân dân phải “kính trọng,
lễ phép”. [68; 57]. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã nói lên lễ trong quan
hệ xã hội của người công an, đối với dân một cách hết sức bình đẳng,
khơng phân biệt mình là cán bộ có quyền hành hách dịch với nhân dân,
đôi bên phải tôn trọng lẫn nhau. Trong dân gian có câu: “Kính già,
trọng trẻ; kính trên, nhường dưới”. Còn trong gia đình ln lấy chuẩn
mực ”ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Điều đó cho thấy
sự sáng tạo trong tiếp nhận đạo đức Nho giáo và ý nghĩa thực sự của lễ
chỉ được thực hiện từ hai phía: Bề trên gương mẫu, bề dưới sẽ quý trọng.


Vậy, xây dựng một xã hội văn minh, độc lập về mặt tinh thần
chúng ta cần phải biết trân trọng những giá trị tích cực về nhân, lễ,
chính danh trong tưởng chính trị - xã hội của Khổng Tử.


<i><b>2.2.3. Tư tưởng chính danh của Khổng Tử </b></i>


Chính danh là một phạm trù, một nội dung cơ bản trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Khổng Tử, là một trong những biện pháp hữu hiệu
để thi hành đường lối đức trị của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

với địa vị xã hội của mình và phải suy nghĩ, hành động đúng với địa vị


ấy, không được tranh giành địa vị và bổn phận của người khác, giai cấp
khác. Ông cho rằng, nếu không làm đúng công việc và danh phận của
mình thì xã hội sẽ loạn. Khổng Tử khuyên người quân tử: “không ở
chức vị nào, thì khơng tính tốn cơng việc của chức vị ấy”[92; 477].
Trong việc trị nước người quân tử có chính danh thì mới nói và thực
hành được đạo lý. Vận dụng tư tưởng chính danh của Khổng Tử, Tăng
tử nói: “Người qn tử lo tính khơng vượt ra ngồi cương vị mình” [92;
477].


Khổng Tử nhìn nhận con người chủ yếu từ phương diện đạo đức,
xem xét các quan hệ của con người chủ yếu ở phương diện đạo đức từ
trong gia đình đến ngồi xã hội và cao hơn nữa là quan hệ chính trị, để
ràng buộc con người, làm cho ở cương vị nào, người ta đều phải làm
đúng với công việc và danh phận của mình. “Người quân tử tự mình
đúng đắn, thì khơng ra lệnh, lệnh cũng được thi hành. Tự mình khơng
đúng đắn thì dẫu ra lệnh, dân cũng khơng theo” [92; 444].


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Khi được hỏi về chính sự, Khổng Tử khuyên Tử Trương : “giữ
cương vị thì khơng mệt mỏi, thi hành chính lệnh thì trung chính hết
lịng” [92; 426]. Chính danh ở đây Khổng Tử muốn nói đến người ta
làm việc đúng với địa vị và trách nhiệm thực của mình.


Khi đề cập đến chính danh trong các quan hệ xã hội, Khổng Tử cho
rằng, muốn cho xã hội có trật tự trên dưới, thì trước hết phải chính danh.
Mọi sự vật trong thực tại cần phải hợp với cái danh nó mang, mỗi một đẳng
cấp trong xã hội đều có vị trí và bổn phận riêng của mình . Như trong sách


<i>Luận ngữ đã chép, khi Tử Lộ hỏi Khổng Tử sẽ làm gì trước hết nếu ông </i>


được dự vào việc chính trị?. Ơng đáp: “ắt phải chính danh trước” [92; 443].


Và ông cho rằng, để duy trì trật tự kỷ cương và sự ổn định của xã hội thì
phải thực hành chính danh. Ơng nói: “Danh khơng chính thì lời khơng
thuận, lời khơng thuận thì sự không thành, sự không thành thì lễ nhạc
khơng thịnh, lễ nhạc khơng thịnh thì hình phạt khơng trúng, hình phạt
khơng trúng thì dân không biết chỗ nào mà đặt tay chân nữa” [92; 443].
“Cho nên, người quân tử (nhà cầm quyền) đặt danh tất phải nói được
đạo lý, mà nói được tất phải làm được”[92; 434].


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Trong việc dùng người làm lãnh đạo, Khổng Tử nói phải dùng
người trung thực, bỏ người gian dối quanh co thì dân phục, dùng người
gian dối quanh co, bỏ người trung thực thì dân khơng phục. Trong q
trình làm việc phải có thái độ nghiêm túc với công việc tức phải chính
danh, đối với mọi người phải có thái độ nghiêm túc, trung thực, tiết
kiệm và thương yêu mọi người. Hay nói cách khác là hãy lo làm việc
cho thật tốt đừng vội đòi hỏi sự đãi ngộ. Nghĩa là bản thân mình có tài
năng thực sự, thì xã hội khơng bao giờ qn sử dụng mình.


Tư tưởng chính danh, nghiêm túc, trung thực biết thương yêu mọi
người của Khổng Tử vẫn có giá trị tích cực trong xã hội chúng ta hiện
nay. Tuy nhiên, tư tưởng chính danh của ơng cần gạt bỏ yếu tố thái qúa
và sự phân biệt về đẳng cấp, tư tưởng bè cánh gây thanh thế, chia rẽ nội
bộ mất đoàn kết và cần phải xây dựng mẫu người có thực và danh là
song hành với nhau.


Từ quan điểm của Khổng Tử cho rằng, để xây dựng một xã hội ổn
định thì phải tập trung vào đào tạo ra những con người đóng vai trị
nòng cốt để điều hành chế độ xã hội ấy, mẫu người Khổng Tử nêu ra là
người quân tử. Khổng Tử nói: “Nếu sửa được mình thì trị nước có khó
gì? khơng sửa được mình thì làm sao sửa trị được người” [92; 445].



Trong sự nghiệp cách mạng nước ta, vận dụng tư tưởng chính
danh của Khổng Tử Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn có chủ nghĩa xã hội,
cần phải có con người xã hội chủ nghĩa” [28; 29].


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

thừa và phát huy trong việc giáo dục và rèn luyện nhân cách con người
Việt Nam hiện tại.


<b>2.3. Giáo dục một biện pháp quan trọng trong thực hành tư tưởng </b>
<b>chính trị xã hội của Khổng Tử </b>


Mục đích giáo dục, giáo hố trong tư tưởng của Khổng Tử chính
là làm cho xã hội từ chỗ hỗn loạn trở nên đi vào trật tự ổn định. Con
người trong các quan hệ xã hội trở nên có nhân cách chủ yếu là thông
qua sự dạy dỗ và rèn luyện, tu dưỡng của bản thân mỗi cá nhân. Do đó,
ông coi việc giáo dục như một biện pháp hữu hiệu trong việc thực hành
tư tưởng chính trị – xã hội của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

quốc gia thịnh vượng, dân cư đông đúc rồi mới giáo dục dân, chứng tỏ
Khổng Tử cũng đã thấy được tình trạng dân thưa thớt và đời sống nhân
dân còn nghèo, thì người ta khơng có điều kiện quan tâm đến vấn đề
chính trị – xã hội cũng như hình thành và hồn thiện đạo đức của
mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

Tuy nhiên, tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử vẫn cịn
mâu thuẫn khi thực hiện, vì một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại”,
nhưng mặt khác ông lại chia xã hội thành nhiều hạng người khác nhau.
Ông chia ra làm bốn hạng người: Loại người “sinh ra đã biết là hạng
cao nhất, học rồi mới biết là hạng thứ hai, gặp khốn rồi mới chịu học là
hạng thứ ba. Gặp khốn rồi vẫn khơng học, dân chính là hạng thấp nhất
này” [92; 517]. Trong bốn hạng người trên, Khổng Tử cho rằng, “chỉ có


bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là khơng thay đổi được” [92; 527]. Từ việc
phân chia các hạng người với những trình độ nhận thức khác nhau, cách
dạy cũng khác nhau, ơng nói: “Từ người [trí lực] bậc trung trở lên, thì
có thể bảo cho đạo lý cao siêu. Từ người [trí lực] bậc trung trở xuống,
thì khơng thể giảng những đạo lý cao siêu”[92; 326]. Nhưng, ông lại
cho rằng phần đông dân cư lại thuộc về hạng học mới biết và gặp khốn
khó rồi mới chịu học đạo. Do vậy, nếu được giáo dục tốt thì hai hạng
người trên sẽ bỏ nết xấu mà theo điều tốt, bỏ điều tà khúc để trở về với
điều lễ, nhân, nghĩa, làm những cơng việc có ích lợi cho xã tắc, để tạo
nên một xã hội lành mạnh. Vậy, đối tượng giáo dục chủ yếu của Khổng
Tử là những người thuộc tầng lớp trung lưu, tầng lớp khá giả và các tầng
lớp bậc trên của xã hội, tức là những người có điều kiện học tập để trở
thành Nho và Sĩ. Khi được giáo dục những hạng người này sẽ có ảnh
hưởng tích cực đến hạng người dưới. Vì thế, Khổng Tử chủ yếu tập
trung vào giáo dục những người thuộc giai cấp thống trị (quý tộc) và
những người thuộc tầng lớp khác nếu có điều kiện chịu khó học thành
đạt, thì sẽ được đứng vào hàng ngũ của giai cấp thống trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

hiền thì mới có cơ hội đứng vào hàng ngũ của giai cấp thống trị. Với
chủ trương làm cho dân đơng, dân giàu rồi giáo hố dân (thứ – phú –
giáo), nhưng thực chất ở đó cũng là mục đích chính trị của Khổng Tử
trong việc giáo hoá dân là để cho dân biết những điều lễ nghĩa mà tuân
theo, để giai cấp thống trị dễ sai bảo, dễ trị dân, để “dân tín” với lễ chế
mà “bần nhi lạc”, tạo nên một xã hội có trật tự trên dưới. Điều đó cho
thấy rõ việc Khổng Tử dùng giáo dục như là một biện pháp thực hiện
những nội dung chính trị – xã hội của ơng.


Khi nói về phẩm chất đạo đức và nhân cách Khổng Tử chỉ ra hai
hạng người “quân tử và tiểu nhân” để thúc đẩy người ta từ bỏ cái ác
theo thiện, hành động theo chuẩn mực xã hội. Người quân tử tự mình


mà tăng tiến, không lo nghèo khó mà chỉ lo không tiến được tới đạo.
Theo Khổng Tử, ở người quân tử có sẵn đủ các đức tính tốt đẹp nếu
được đào tạo ra ngày càng nhiều thì việc ổn định thiên hạ từ trên xuống
dưới sẽ rất thuận lợi. Còn với kẻ tiểu nhân hay “cầu ở người”, “không
biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn bậc đại nhân, coi thường lời
dạy của thánh nhân” [92; 512]. Qua đó cho thấy, chính Khổng Tử đã
đưa ra chủ trương phân chia xã hội ra thành các hạng người khác nhau
giáo dục để đạt được mục đích chính trị của mình, nhưng ơng khơng
thừa nhận chính mình làm điều đó. Ơng cho sự phân chia các hạng
người đó là do trời định sẵn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

chưa thấy được sức mạnh của con người trong cải biến xã hội, hoặc có
nhận thấy sự biến đổi xã hội do chính hoạt động của con người. Ơng chỉ
thừa nhận là do sự biến đổi tuân theo ý trời trong một khuôn mẫu của xã
hội Tây Chu. Hạn chế này vừa mang tính lịch sử thời đại, vừa do
khuynh hướng bảo thủ về mặt chính trị của Khổng Tử. Cho nên, về tư
tưởng của mình, Khổng Tử chỉ giáo dục đạo đức trong các sách kinh
<i>(Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu), nhằm phục vụ mục đích chính </i>
trị, cịn ơng hầu như không đề cập tới việc học tập những tri thức trong
hoạt động sản xuất vật chất cũng như những tri thức về giới tự nhiên.
Điều này được thể hiện khi “Phàn Trì xin học làm ruộng. Khổng Tử nói:
Ta khơng bằng lão nơng. Phàn Trì xin học trồng rau. Khổng Tử nói: Ta
không bằng lão làm vườn. Phàn Trì ra khỏi, Khổng Tử nói: Phàn Trì
thật là tiểu nhân” [92; 443].


Về tư tưởng giáo dục và phương pháp giáo dục của Khổng Tử có
những luận điển nổi tiếng phù hợp với quá trình phát triển của lịch sử tư
tưởng giáo dục và cịn có ý nghĩa tích cực cho đến tận ngày nay. Đó là
các phương pháp giáo dục: Học kết hợp với tư duy, học gắn liền với
luyện tập, học phải đi đơi với làm. Đó là những biện pháp quan trọng


trong tuyên truyền, thực hành tư tưởng chính trị – xã hội của ơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

ba góc kia thì không dạy nữa” [92; 343]. Cứ như vậy, Khổng Tử dẫn dắt
học trò từ sự hiểu biết một sự vật mà suy ra hiểu biết được nhiều sự vật,
nghe một mà biết được nhiều. Vì, có học tất phải suy nghĩ về những gì
mình được truyền thụ, có suy nghĩ mới sinh ra hồi nghi, có hồi nghi
mới phải tiếp tục học để tìm lời giải đáp sâu xa và như vậy sẽ bồi dưỡng
được tinh thần tự giác hứng thú trong việc học.


Học kết hợp với suy nghĩ, nhưng phải luôn được gắn với quá trình
luyện tập, Khổng Tử dạy học trị phải ln luôn luyện tập những điều
được học và không được quên những điều đã được học. Quá trình nhận
thức của con người là sự tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại “ôn cố nhi tri
tân”. Ông yêu cầu học trò phải củng cố và thực hành ngay những điều
đã học bằng việc làm chứ không chỉ bằng cách ôn luyện trong sách vở,
ở câu văn, lời nói của thầy. Chính vì thế mở đầu tác phẩm “Luận ngữ”
đã nêu lên phương pháp dạy học của Khổng Tử “Học mà thường xuyên
thực tập, chẳng vui sao?” ( Học nhi thì tập chi) [92; 224].


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Khổng Tử yêu cầu học trò được dạy điều nhân, lễ, nghĩa, hiếu,
đễ, nhất định phải thực hành trong cách ứng xử với cha mẹ, thì ln
phải hiếu kính, với vua thì ln phải trung thành, với bạn bè, thì ln
phải tín thực có làm được như vậy, mới là người học đạo và thực hành
được đạo. Như vậy, Khổng Tử coi giáo hoá con người bằng đạo là biện
pháp hiệu quả nhất để đào tạo con người hồn thiện. Do đó, trong giáo
dục của Khổng Tử việc học – tư – tập - hành – học là những cơng
đoạn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau buộc người học phải trải
qua để tăng tiến tri thức của mình. Thế nhưng, ơng lại chỉ dạy học trị,
suy nghĩ, luyện tập và thực hành chỉ ở phương diện đạo đức, giao tiếp,
lễ nghi nhằm phục hồi tình hình chính trị – xã hội theo đường lối đức


trị, mà không dạy học và thực hành trong lao động sản xuất vật chất –
lĩnh vực quan trọng hàng đầu của đời sống xã hội có thể đáp ứng nhu
cầu tình hình thực tiễn chính trị. Cho nên, dù ở mục đích, nội dung và
phương pháp giáo dục của Khổng đều đi đến một đích duy nhất là phục
vụ cho chính trị và để thiên hạ được bình trị ơng đưa ra đường lối cai trị
bằng đạo đức (đức trị) . Đây là hạn chế trong nội dung giáo dục và
phương pháp học gắn liền với hành của ông.


Như vậy, nếu khắc phục những hạn chế lịch sử thì tư tưởng về mối
quan hệ giữa học và suy nghĩ, học và luyện tập, học và làm của Khổng
Tử là phương pháp giảng dạy tiến bộ. Cho đến ngày nay những tư tưởng
đó của ơng vẫn có thể phát huy tác dụng trong nền giáo dục coi trọng
tài năng và nhân cách người học, phát huy vị trí trung tâm của người
học trong việc tiếp thu tri thức, độc lập suy nghĩ, ôn luyện củng cố và
thực hành những điều được thày truyền dạy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

sinh mạng sống của mình vì ham hiểu biết và tinh thần học suốt đời của
ông là bài học quý giá cho chúng ta hôm nay.


Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo đã đào tạo hơn ba nghìn học
trị và đã có 72 bậc hiền tài mà khơng hề có ai là phụ nữ, quan điểm này
làm cho tư tưởng của ông trở nên hạn hẹp. Sự coi thường phụ nữ trong tư
tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử có thể nói là một trong những hạn
chế lớn nhất của ông. Tuy nhiên, trong truyền thống giáo dục Việt Nam,
Khổng Tử luôn được coi là nhà giáo dục, là tấm gương của sự hiếu học, với
tinh thần “học không biết chán”, “dạy không biết mỏi”, và Khổng Tử sử
dụng phương pháp học kết hợp với suy nghĩ, học gắn liền với luyện tập, học
đi đôi với thực hành, phương pháp đàm thoại, gợi mở, nêu gương và nguyên
tắc tuỳ đối tượng mà dạy nhằm phát huy tốt nhất năng lực tư duy của người
học một cách linh hoạt đã khích lệ ý chí vươn lên trong học tập để lập thân,


lập nghiệp, phụng sự xã hội .là những phương pháp giáo dục có ý nghĩa
thực tiễn trong giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.


Thực trạng giáo dục nước ta hiện nay cho thấy, về phương pháp giáo
dục phổ biến trên lớp còn rất lạc hậu, nặng nề về nhồi nhét kiến thức, nhiều
thầy cơ muốn có thành tích cho mình nên dùng phương pháp giải sẵn những
bài toán, bài văn mẫu, đã khiến cho tư duy của học sinh bị thu hẹp đi và đẩy
học sinh vào tình trạng học vẹt, thụ động không nắm bài sâu sắc. Thiếu các
trang thiết bị để thực hiện việc học đi đôi với việc hành, phương tiện dạy
học nghèo nàn dẫn đến tình trạng dạy và học chay, thời gian tự học, tự thực
hành quá ít.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

với hành phải đi đôi. Học mà khơng hành thì vơ ích. Hành mà khơng học
thì hành không trôi chảy” [69; 98]. Kế thừa tư tưởng của Khổng Tử Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh việc học và hành, “hồng và chuyên” của người cách
mạng chân chính.


Tóm lại, mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có những giá trị vô
cùng to lớn đối với lịch sử giáo dục Việt Nam, nhưng thời đại hiện nay là
thời đại bùng nổ thơng tin, tồn cầu hố tri thức, lượng kiến thức con người
tiếp nhận tăng lên theo cấp số nhân cùng với thời gian. Do đó, nhu cầu học
tập trở thành thiết yếu đối với tất cả mọi người. Cho nên, muốn phát triển
chúng ta không chỉ dựa vào phương pháp giáo dục truyền thống, mà phải
tiến hành đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng tích cực, phù hợp với
xu thế hiện đại của thế giới, cố gắng hiện đại hóa phương tiện dạy học,
nhằm giúp người học tiếp cận được tri thức từ nhiều phía, trong mọi điều
kiện cho phép. Làm được như vậy sẽ phát huy được tinh thần độc lập suy
nghĩ và sáng tạo của người học, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn và tay nghề của người học. Với phương châm; Dạy học là dạy cách tư


duy, phát triển được tư duy độc lập sáng tạo ở người học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

luận lớn về một số mặt nào đó, chứ nó khơng thể thay thế cho người đời sau
giải quyết đúng đắn mọi vấn đề cụ thể.


ở nhiều mặt khác nhau của cuộc sống như: những chuẩn mực đạo
đức, lễ nghi, giáo dục, . trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng
Tử đã hằn sâu trong tư tưởng truyền thống của xã hội Việt Nam qua
nhiều thế kỷ. Sự ảnh hưởng đó có mặt tích cực, nhưng cũng có mặt tiêu
cực, cho nên sự nhận định, đánh giá về vai trị và vị trí của nó trong tiến
trình lịch sử Việt Nam là rất khó. Đã nhiều thập kỷ nay, chúng ta cũng
từng chứng kiến sự ca ngợi hay phê phán rất gay gắt, nặng nề đối với
học thuyết Nho giáo nói chung và Khổng Tử nói riêng. Trong giới hạn
luận văn này, chúng tôi xin chỉ điểm qua những nội dung cơ bản trong
tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử có ảnh hưởng đến tình hình
thực tế xã hội Việt Nam, để chúng ta cùng nhau suy ngẫm. Từ đó chúng
ta chọn cái tốt, cịn giá trị thích hợp thì dùng, cái gì xấu, lỗi thời và có
hại thì ta loại bỏ.


<b>Kết luận Chương 2 </b>


Cùng với các nhà tư tưởng khác ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc,
tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử luôn lấy con người làm trung
tâm, từ đó bàn đến các quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội để
đưa ra quan niệm về xã hội lý tưởng (xã hội đại đồng). Một xã hội có
vua thánh, tơi hiền, nhân, lễ, trung tín được mọi người tự giác thực hiện
nhằm đảm bảo chính danh. Những quy phạm đạo đức trên, khơng chỉ là
những nguyên tắc đạo đức của đạo làm người, chi phối mọi hành động
của con người trong các mối quan hệ mà còn là những cơng cụ, biện
pháp chính trị cơ bản nhất để trị nước.



</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

trị- xã hội của mình theo lý tưởng tu, tề, trị, bình qua các mối quan hệ
cơ bản vua- tôi, cha- con, bạn- bè, để hướng người ta vào sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân, thực hành đạo làm người để trở thành người quân tử.
Khổng Tử đã định hướng cho con người tự xác định được trách nhiệm
nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội dựa trên khuôn
mẫu đạo đức định sẵn của Lễ. Trong khi thực thi đường lối đức trị của
mình, đơi khi Khổng Tử vẫn cịn dựa vào ý trời, mệnh trời và đề cao vai
trò của nhà vua, của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì chế độ tơng pháp.
Điều đó làm đường lối đức trị của ông không tránh khỏi tính chất duy
tâm, siêu hình.


Đề cập đến các quan hệ cơ bản của con người, từ đó cột con người
vào các phạm trù nhân, lễ, chính danh và coi giáo dục là biện pháp quan
trọng để con người thành đạt là phải thực hành được những gì đã học.
Thế nhưng, nội dung giáo dục của Khổng Tử chỉ đi đến thực hiện mục
đích chính trị nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, chứ ông không
dạy mọi người về học và hành trong lao động sản xuất.


Tư tưởng chính trị - xã hội của Khổng Tử đã mô tả thực trạng xã
hội lúc bấy giờ đang khủng hoảng về chính trị – xã hội. Để khắc phục
tình hình đó, Khổng Tử mới chỉ nhìn thấy sự biến đổi trên lĩnh vực
chính trị – xã hội, mà chưa thấy được nguyên nhân của sự biến đổi đó
là do sự phát triển của kinh tế – xã hội, sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Từ đó, ơng coi việc giáo dục, tuyên truyền tư tưởng chính trị, đạo
đức sẽ làm cho xã hội phát triển ổn định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85></div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<b> kÕt luËn </b>



Xã hội Trung Quốc thời cuối Xuân Thu là một xã hội loạn lạc,


chiến tranh liên miên, tôn ty trật tự đảo ngược, đời sống của người dân
vơ cùng đói khổ, người ta khơng cịn tin vào vai trò thống trị của nhà
Chu. Tình hình đó tác động vào tâm tư, tình cảm của tầng lớp trí thức
đương thời, đòi hỏi họ những sự nhìn nhận và giải thích để đưa ra tư
tưởng trị nước phù hợp, nhằm ổn định trật tự xã hội. Tư tưởng chính trị -
xã hội của Khổng Tử chủ yếu được hình thành trong bối cảnh, điều kiện
như thế.


Khổng Tử là một trí thức uyên bác nhất đương thời. Sự hiểu biết
của ông bao gồm nhiều lĩnh vực, đề cập đến nhiều vấn đề, từ kiến thức
bình thường cho đến những vấn đề lý luận, đâu đâu cũng cho thấy
những nhận thức sâu sắc ở ông, những khám phá kỳ lạ ở ông, những tư
duy khiến người đương thời và hậu thế phải khâm phục ông. Riêng về
phương diện lý luận, người ta thấy ở ông các tư tưởng về chính trị – xã
hội, về triết học, về giáo dục, về kinh tế, về tâm lý, về văn hố, trong
đó nổi bật nhất là tư tưởng chính trị – xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Về tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử, có người tiếp cận
từ đường lối trị nước, có người từ lập trường chính trị và xu hướng thời
đại, có người từ nguồn gốc thất bại của các chủ trương chính trị của
ông,... Để làm rõ nội dung tư tưởng của ông, ở đây qua sự giới thiệu về
con người với tính chất và quan hệ của nó, chúng tơi cho rằng cần phải
phân tích các khái niệm, các nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị –
xã hội của ơng. Đó là “nhân”, “lễ” và “chính danh”.


“Nhân” là một trong những khái niệm cơ bản trong học thuyết
của Khổng Tử. Ông cho rằng, trong xã hội nếu mọi người có lịng nhân
với nhau thì xã hội sẽ yên bình, những giành giật, tranh chấp, chém giết
nhau sẽ chấm dứt.



“Nhân” của Khổng Tử mang tính chất nhân đạo cao cả. “Nhân”
đó là yêu người, yêu rộng ra mọi người, chứ khơng phải chỉ u người
thân của mình, u huyết thống mình, u giai cấp mình. “Nhân” đó là
cái gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người, cái gì mình muốn thì
cũng làm cho người, xem người như mình và suy từ mình ra người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

“Lễ” là một trong những khái niệm cơ bản khác trong tư tưởng
chính trị – xã hội của Khổng Tử. “Lễ” có quan hệ mật thiết với “nhân”
và làm cơ sở cho chữ “nhân”.


“Lễ” trong tư tưởng của Khổng Tử có nội dung rộng. Lễ là tế lễ,
là những quy định về tế trời đất, tế thần thánh, tế tổ tiên; Lễ là cơ sở tư
tưởng để trị nước, là tiêu chuẩn để uốn nắn hành vi con người; là những
tập tục đã hình thành có tính chất như pháp luật để ràng buộc con
người; Lễ còn là những nguyên tắc ứng xử giữa con người và con người,
giữa trên và dưới, giữa thân và sơ. Lễ đó đã được thể hiện trong “Lục
<i>Kinh” và nhất là trong Kinh Lễ mà Khổng Tử thấy con người phải tuân </i>
theo.


Lễ trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử, thể hiện bản
chất giai cấp của ông, là một trong những nội dung chủ yếu trong tư
tưởng của ơng. Chính vì vậy, Khổng Tử đã nói: “Tề chi dĩ lễ” (Làm cho
ngay ngắn thì dựa vào lễ), “Vi quốc dĩ lễ” (Làm việc nước phải dựa vào
lễ). Sau này Tuân Tử vận dụng tư tưởng “Lễ” của Khổng Tử ở cuối thời
kỳ Chiến Quốc cũng nói: “Lễ giả, cường quốc chi bản dã” (lễ là cái gốc
làm cho nước mạnh”,...


Để thực hiện được lễ, Khổng Tử thấy mỗi người đều phải tu thân,
phải sửa mình và biết được thân phận của mình để suy nghĩ và hành
động cho đúng với vị trí ở trong thang bậc của xã hội đương thời. Vì


vậy, đi liền với chữ “nhân” và chữ “lễ” là “chính danh”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

trên thì tơn ti trật tự sẽ bảo đảm, điều mà Khổng Tử luôn mơ ước và cố
thuyết phục con người lúc bấy giờ thực hiện, song vẫn không thấy xuất
hiện trong thực tế.


“Nhân”, “lễ” và “chính danh” là ba phương diện cấu thành tư
tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử. ở đó, “nhân” nói lên lịng u
thương con người, “lễ” nói lên chế độ đẳng cấp tông pháp đương thời
mà Khổng Tử thấy cần phải duy trì và chính danh là một nội dung để
con người biết được vị trí của mình trong xã hội mà hành động.


Để thực hiện được một xã hội có nhân, có lễ và chính danh. Theo
Khổng Tử chỉ có con đường giáo dục, làm cho mọi người thấy được lý
lẽ để tự giác tuân theo, giáo dục được xem như là một biện pháp cần
thiết để thực hiện lý tưởng chính trị – xã hội của ơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<b>Mục lục </b>



<b>mở đầu ... 1</b>


<b>nội dung ... 10</b>


<b>Chng 1. Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng chính trị - xã </b>
<b>hội của Khổng Tử ... 10</b>


<b>1.1. Cơ sở kinh tế, chính trị </b> <b> xã hội cho sự hình thành tư </b>
<b>tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử ... 10</b>


<i>1.1.1. C¬ së kinh tÕ ... 10</i>



<i>1.1.2. C¬ së x· héi ... 13</i>


<i>1.1.3. Cơ sở chính trị ... 16</i>


<b>1.2. Tin t tng cho sự hình thành tư tưởng chính trị xã </b>
<b>hội của Khổng Tử ... 20</b>


<b>1.3. Khổng Tử Người tập đại thành tư tưởng của thời đại . 26</b>
<b>Chương 2. Tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử ... 34</b>


<b>2.1. Quan niệm của Khổng Tử về con người </b> <b> nền tảng xây </b>
<b>dựng tư tưởng chính trị xã hội của ông ... 34</b>


<i>2.1.1. Quan niệm của Khổng Tử về tính người. ... 34</i>


<i>2.1.2 Quan niệm về con người trong các mối quan hệ ... 38</i>


<b>2.2. Nhân, lễ, chính danh hạt nhân tư tưởng chính trị xã </b>


<b>héi cđa Khỉng Tư ... 48</b>


<i>2.2.1. Nhân trong tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử ... 49</i>


<i>2.2.2. Lễ trong tư tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử ... 58</i>


<i>2.2.3. Tư tưởng chính danh của Khổng Tử ... 68</i>


<b>2.3. Giáo dục một biện pháp quan trọng trong thực hành tư </b>
<b>tưởng chính trị xã hội của Khổng Tử ... 72</b>



<b>PhÇn kÕt luËn ... 84</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Lời cam đoan



<i>Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu </i>
<i>khoa học của riêng tôi, nội dung và các trích dẫn đưa </i>
<i>ra trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. </i>


<b> Tác giả luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<b>Danh mục tài liệu tham khảo </b>


<i>[1] Đào Duy Anh (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luËn, Nxb Quan h¶i tïng </i>
th­, HuÕ


<i>[2] Hứa Văn Ân và nhiều tác giả (1998), Truyền thống tôn sư trọng đạo, Nxb Trẻ, </i>
Hà Nội.


<i>[3] Dương Ba (2006), Văn kiện hối biên, Bắc Kinh tháng 6, tr7 </i>


<i>[4] Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị xà héi cđa Nho gi¸o </i>


<i>và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), </i>


Luận án tiến sĩ triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
<i>[5] Hồng Thị Bình (2001) “Nhân, Nhân nghĩa, Nhân chính trong "Lun ng" </i>


<i>và "Mạnh Tử" , Tạp chí Triết học, (8), tr38 - 41. </i>



[6] Nguyễn Văn Bình (2000), Quan niệm về Lễ của Nho giáo và những bài
<i>học cho chúng ta hôm nay, Tạp chí Triết học, (4), tr46 - 49. </i>


<i>[7] “Bước ngoặt tinh thần trong Triết học” (2006), Phạm Hùng dịch, Tạp chí </i>


<i>TriÕt häc sè 7, tr34 </i>


[8] Phan Văn Các (1993), “Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh
<i>khu vực và thời đại”, Tạp chí Triết học, (3), tr61 - 65. </i>


<i>[9] Phan Văn Các (1995), “Nho học trong sự nghiệp đổi mới đất nước , Tạp </i>


<i>chÝ Céng sản, (9), tr22 - 26. </i>


[10] Phan Văn Các (1991) Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ë Trung
<i>Quèc trong thËp kû 80”, T¹p chí Triết học, số 3. </i>


[11] Phan Văn Các (1994), Giới Nho học quốc tế đang quan tâm những gì?.


<i>Tạp chí Triết học số 1. </i>


<i>[12] Phan Bi Châu toàn tập (1990), Chương Thâu sưu tầm, biên soạn, Nxb </i>
Thuận Hoá, T9.


<i>[13] Phan Bội Châu toàn tập (1990), Chương Thâu sưu tầm, biên soạn, Nxb </i>
Thuận Hố, T10.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

<i>[15] Dỗn Chính (chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb </i>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội



<i>[16] Ngơ Vinh Chính, Vương Miên Quý (chủ biên) (1995), Đại cương lch s </i>


<i>văn hoá Trung Quốc, Nxb Văn hoá thông tin. </i>


<i>[17] Trịnh Dỗn Chính (2001), “Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục, đào </i>


<i>tạo con người và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam </i>
<i>hiện nay , Hội thảo quốc tế Nho học lần thứ III: Nho học tại Việt Nam, </i>


Thµnh phè Hå ChÝ Minh.


<i>[18] Phạm Như Cương (chủ biên) (1978), Vấn đề xây dựng con người mới, </i>
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>[19] Nguyễn Bá Cường (2002), Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục, Luận </i>
văn thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Hà Nội.


<i>[20] Nguyễn Tự Cường (2001), Đọc một cách phê phán "Luận ngữ trích lục </i>


<i>dÉn gi¶i" cđa Phan Bội Châu", Hội thảo quèc tÕ Nho häc lÇn thø III: </i>


Nho häc t¹i ViƯt Nam, TP Hå ChÝ Minh.


[21] Phan Đại Doãn (chủ biên) (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam,
Nxb Chính tr Quc gia, H Ni.


<i>[22] Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội </i>
<i>[23] Đại Học, Trung dung Nho giáo (1991), Nxb Khoa học xà hội, Hà Nội </i>
<i>[24] Đại Việt sử ký toàn thư (2000), (tập 1),(Ngô Đức Thọ dịch và chú thích) </i>



Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.


<i>[25] Đại Việt sử ký toµn th­ tËp, tËp 2 (2000), Hoàng Văn Lâu dịch và chú </i>
thích Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội


<i>[26] Đại Việt sư ký toµn th­, tËp 3 (2000), Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long </i>
dịch và chú thích, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.


<i>[27] Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn Hoá, Hà Nội. </i>


<i>[28] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban </i>


<i>chấp hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị - Quèc gia, Hµ Néi. </i>


<i>[29] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

<i>[31] TrÇn Văn Giàu (1990), Các giá trị tinh thần truyền thống cđa d©n téc </i>


<i>ViƯt Nam, Nxb Khoa häc x· héi, Hµ Néi. </i>


<i>[32] Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào </i>


<i>cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội </i>


<i>[33] Đỗ Đình Hãng (1994), Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, tập I: Văn </i>
minh Trung Quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.


<i>34] Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường (1960), Bàn về tư tưởng cổ </i>


<i>đại Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội. </i>



<i>[35] Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường (1959), Hiển hc Khng </i>


<i>Mặc, Nxb Sự thật, Hà Nội. </i>


<i> [36] Lª Anh Hoa (2001), TrÝ tuệ Khổng Tử, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà </i>
Néi.


<i>[37] Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học Phng ụng gi nhng im </i>


<i>nhìn tham chiếu, Nxb Văn häc, Hµ Néi </i>


<i>[38] Trần Đình Hượu (1984), “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo”, Tạp </i>


<i>chÝ nghiªn cøu NghƯ tht, sè 1, 2, 3. </i>


<i>[39] Trần Đình Hượu (1997), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hố, Hà Nội. </i>
<i>[40] Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, </i>


Nxb Gi¸o dơc, Hµ Néi.


[41] <i>Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb </i>
Đại học Quốc gia, Hà Nội


<i> [42] §inh Gia Khánh (chủ biên) (2000), Văn học Việt Nam (thế kỷ X nửa </i>
đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.


<i>[43] Vũ Khiêu (chủ biên) (1990) Nho giáo x­a vµ nay, Nxb Khoa häc x· héi, </i>
Hµ Néi.



<i>[44] Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb Khoa häc x· héi, Hµ </i>
Néi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

<i>[46] Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam xã hội và con người, Nxb </i>
Khoa học xã hội, H Ni.


<i>[47] Trần Trọng Kim , Nho giáo (1992), Nxb Thµnh phè Hå ChÝ Minh . </i>


<i>[48] Trần Hậu Kiêm (chủ biên),(1993) Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính </i>
trị - Quốc gia, Hà Nội.


<i>[49] Kinh LƠ (1999), Nguyễn Tôn Nhan biên dịch và chú giải, Nxb Văn học, </i>
Hà Nội.


<i>[50] Khng T san nh (1991), “Kinh Thi 3 tập, Tạ Quang Phát dịch, Nxb </i>
Văn học, Hà Nội.


<i>[51] Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (chủ biên) (1999), Khổng Tử gia </i>


<i>gi¸o, Nxb thÕ giíi. </i>


<i>[52] Phùng Hữu Lan (1998), Đại cương triết học sử Trung Quốc (Nguyễn Văn </i>
Dương dịch), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.


<i>[53] L· BÊt Vi (1999), L· Thị Xuân Thu, Phan Văn Các dịch, Nxb Văn học </i>
Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.


<i>[54] LÃ Trấn Vũ (1964), Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc (Trần </i>
Văn Tấn dịch), Nxb Sự thật, Hà Néi.



<i>[55] Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - đạo của con người quân tử, Nxb </i>
Văn Học.


<i>[56] Nguyễn Hiến Lê (1995), Khổng Tử, Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội. </i>
<i>[57] Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học sử Trung Quốc, tập 1, Nxb </i>


TP. Hå ChÝ Minh.


<i>[58] Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học sử Trung Quốc, tập 2, Nxb </i>
TP. Hồ Chí Minh.


<i>[50] T¹ Ngäc LiƠn (1999), Về chữ Lễ của Khổng Tử , Tạp chí Xưa và nay, </i>
số 62B, tháng 4, tr6 - 7.


<i>[60] NguyÔn ThÕ Long (1995), Nho häc ë ViÖt Nam Giáo dục và thi cử, </i>
Nxb Giáo dục, Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

<i>[62] Nguyễn Hữu Lương (1997), Kinh dịch với vũ trụ quan Đơng Phương, </i>
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.


<i>[63] Trần Trí Lương (1999), Đối thoại với tiên triết v vn hoỏ phng ụng </i>


<i>thế kỷ 21, Nxb Đại häc quèc gia, Hµ Néi. </i>


[64] Lý Hải Tường (2002), Khổng Tử, Nguyễn Quốc Thái dịch, Nxb Văn hoá
- Thông tin.


<i>[65] C. Mác Ph. Ăngghen tuyển tập, tập I (1980), Nxb Sự thật, Hà Nội. </i>
<i>[66] Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Quan niệm của Nho giáo về con người, về </i>



<i>giáo dục và đào tạo con người, Luận án tiến sỹ triết học, Viện Triết </i>


häc, Hµ Néi.


<i>[67] Hồ Chí Minh tồn tập, tập 4 (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[68] Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5 (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[69] Hồ Chí Minh (1980), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. </i>


<i>[70] Đỗ Duy Ninh (2006), “Bước ngoặt tinh thần trong triết học”, Tạp chí </i>


<i>TriÕt häc sè 7. </i>


<i>[71] Đổng Thư Nghiệp (1963), Nghiên cứu tư tưởng Khổng Tử, Vũ Hoàng </i>
Địch dịch, tư liệu Viện triết học, ký hiệu: TL 703


<i>[72] Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, </i>
Hà Nội.


<i>[73] Phan Ngọc (1995), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb văn </i>
hoá, Hà Nội.


<i>[74] Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb </i>
Giáo dục, Hà Nội.


<i>[75] Ngũ Kinh (2002), Ngữ văn Hán Nôm, tËp 2, Nxb Khoa häc x· hội, Hà </i>
Nội.


<i>[76] Nhữ Nguyên biên soạn (1996), LƠ ký kinh ®iĨn vỊ viƯc LƠ, Nxb §ång </i>
Nai.



</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<i>[78] Lê Văn Quán (2003), “Thử bàn về đạo hiếu của Nho gia”, Tạp chí Hán </i>


<i>N«m. T2, tr. 3-9 </i>


<i>[79] Lê Văn Qn (1997), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Giáo </i>
dục, Hà Nội.


<i>[80] Qc sư gi¸m triỊu Ngun (2002), Đại nam thực lục (tập I) (tổ biên dịch </i>
Viện sử học Việt Nam), Nxb Giáo dục.


<i>[81] Trần Trọng Sâm biên dịch (2002) Luận ngữ - viên ngọc q trong kho </i>


<i>tàng văn hố phương Đơng” Nxb Văn hoỏ - Thụng tin. </i>


<i>[82] Đặng Đức Siêu (1990), Nền giáo dục theo tinh thần Nho giáo , Nho </i>


<i>giáo xưa và nay, Vị Khiªu chđ biªn, Nxb Khoa häc x· héi, tr. 206 - </i>


216.


[83] Ngun §øc Sù (2003), Những khía cạnh tôn giáo của Nho giáo ở Việt
<i>Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4. </i>


<i>[84] Vũ Minh Tâm (chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb </i>
Giỏo dc.


<i>[85] Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học </i>
xà hội, Hà Néi.


<i>[86] Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 1), Nxb </i>


Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>[87] Ngun Tµi Th­ (1997), Nho häc vµ Nho häc ë ViƯt Nam, ViƯn triÕt häc, </i>
Trung tâm khoa học xà hội và Nhân văn Quốc Gia, Hµ Néi.


<i>[88] Nguyễn Tài Thư (2005), Vấn đề con người trong nho học sơ kỳ, Nxb </i>
Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>[89] Nguyễn Đăng Thục (1997), Lịch sử triết học phương Đông – tập 1, Nxb </i>
Thành phố Hồ Chí Minh.


<i>[90] Lương Duy Thứ chủ biên (1996), Đại cương văn hố phương Đơng, Nxb </i>
Giáo dục.


<i>[91] Trịnh Trí Thức và Nguyễn Vũ Hảo (chủ biên) (2006) Tư tưởng triết học </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<i>[92] Tứ thư (2002), Trần Lê Sáng (chủ biên), Trần Lê Sáng, Phan Văn Các, </i>
Đặng Đức Siêu, Trịnh Khắc Mạnh dịch và chú giải, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.


<i>[93] Vi Chính Thông, (1996), Nho giáo với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính </i>
trị - Quốc gia, Hà Nội, tr198.


<i>[94] Nguyn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. </i>
<i>[95] Nguyễn Hữu Vui chủ biên (2002), Giáo trình lịch sử triết học, Nxb Chính </i>


</div>

<!--links-->

×