Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Chăm sóc phụ nữ mang thai, sinh đẻ của người dân tộc thiểu số và một số rào cản về tiếp cận dịch vụ y tế tại gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 5 trang )

vọng đ ề u trị mới cho các bệnh nhân sốt dengue thể
nặng.
TÀ I LIỆU T H A M K H Ả O
1. Anders KL, Nguyet NM, Chau NV, Hung NT, Thuy
TT, Lien le B, Farrar J, Wills B, Hien TT, Simmons CP:
Epidemiological factors associated with dengue shock
syndrome and mortality in hospitalized dengue patients in
Ho Chi Minh City, Vietnam. Am J Trop Med Hyg 2011, 84:
127-134.
2. Khor cc, Chau TN, Pang J, Davila s, Long HT,
Ong RT, Dunstan SJ, Wilis B, Farrar J, Van Tram T, Gan
TT, Binh NT, Tri le T, Lien le B, Tuan NM, Tham NT, Lanh
MN, Nguyet NM, Hieu NT, Van NVinh Chau N, Thuy TT,
Tan DE, Sakuntabhai A, Teo YY, Hibberd ML, Simmons
CP:
Genome-wide
association
study
identifies
susceptibility loci for dengue shock syndrome at M!CB
and PLCE1. Nat Genet 2011, 43:1 1 3 9 -1 1 4 1 .
3. Kamatani, Y., et al., Genome-wide association
sỉudy of hematoiogical and biochemical traits in a
Japanese population. Nat Genet, 2010. 42(3): p. 210-5.
4. Chow VT: Molecular diagnosis and epidemiology of
dengue virus infection. Ann Acad Med Singapore 1997,
26: 820-826.
5. Yang TP, Beazley c, Montgomery SB, Dimas AS,
Gutierrez-Arcelus M,
stranger BE, Deioukas p,
Dermitzakis ET: Genevan a database and Java



application for the analysis and visualization of SNP-gene
associations in eQTL studies. Bioinformatics 2010, 26:
2474-2476.
6. Stranger BE, Nica AC, Forrest MS, Dimas A, Bird
CP, Beazley c , ingle CE, Dunning M, Fiicek p, Koiler D,
Montgomery s, Tavare s, Deloukas p, Dermitzakis ET:
Population genomics of human gene expression. Nat
Genet 2007, 3 9 :1 2 1 7 -1 2 2 4
7. Whitehorn J, Chau TN, Nguyet NM, Kien DT,
Quyen NT, Trung DT, Pang J, Wilis B, Van Vinh Chau N,
Farrar J, Hibberd ML, Khor cc, Simmons CP: Genetic
variants of MICB and PLCE1 and associations with nonsevere dengue. PloS One 2013, 8: e59067.
8. Vaughn DW, Green s , Kalayanarooj s, Innis BL,
Nimmannitya
s,
Suntayakorn
s,
Endy
TP,
Raengsakulrach B, Rothman AL, Ennis FA, Nisaiak A:
Dengue viremia titer, antibody response pattern, and virus
seroiype correlate with disease severity. J infect Dis 2000,
1 8 1 :2 -9
9. Xu, z. and J.A. Taylor: SNPinfo: integrating GWAS
and candidate gene information into functional SNP
selection for genetic association studies. Nucleic Acids
Res, 2009. 37(Web Server issue): p. W600-5.
10. Mason, K.D., et al., Programmed anuciear cell
death delimits platelet life span. Ceil, 2007. 128(6): p.

1173-86.

CHĂM SÓC PHỤ NỮ MANG THAI, SINH ĐẺ
CỦA NGƯỜIDÂN TỘCTHIẺU SỐ VÀ MỌT SỐ RÀO CẢN
VÈ TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TÉ TẠI GIA LAI
Ths. T rần Thị Đ iệ p 1, PG S . T S Đ inh T h ị Phư ơ ng H òa2.
Ths. T rần K hánh Lon g 1, P G S . T S Trần Hữu Bích*

1 Giảng viên, Trường Đại h ọ c Y tế công cộng
2 Nguyên giảng viên, Trường Đại học Y tế cơng cọng
TĨ M T Ắ T
Mặc tíừ nước ta đẫ có nhiều thành cơng về cải thiện sức khỏe phụ nữ trong thời gian mang thai và sinh đẻ

nhưng nhiều phụ nữ dân tộc ở các vùng sâu, xa vẫn khó tiếp cận với cốc dịch vụ này. Các tập tục còn ảnh hưởng
nặng nề đến sức khỏe bà mẹ tuồi sinh đè. Vi vậy, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: Mơ tả thực trạng
và rào cản về chăm sóc sức khỏe bà mẹ mang thai và sinh đẻ ở người Bana và J ’rai tỉnh Gia Lai: Sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính, thu thập số liệu từ 12 cuộc phỏng vấn sâu và 12 cuộc thảo luận nhóm bà mẹ
có con dưới 5 tuổi. Kểt quả và bàn luận: Phụ nữ người dân tộc hiểu biết về lợi ích của khám thai và sử dụng dịch
vụ chăm sóc trong thời gian mang thai rất hạn chế. Đẻ tại nhà còn phổ biến. Câc bà mẹ sau sinh thường ăn kiêng
kéo dài; đí làm nương/rẫy sớm vì vậy thường mệt mỏi và không đù sữa cho con bú. Ba rào cản chính cho việc
tiếp cận chăm sóc sức khỏe là 1) phụ nữ dàn tộc thiều số không hiểu hết các thơng điệp truyền thơng và hình
thức truyền thơng chưa phù hợp. 2) Tại gia đình, việc chăm sóc thai nghén, sinh đẻ phần lớn do chồng và bố, mẹ
quyết đmh. 3) Kinh tế gia đình khó khăn càn trở lớn đến việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế. Kết luận: Các can
thiệp đồng bộ cần tiếp tục tiên hành nhằm cải thiện sức khỏe bà mẹ mang thai, sinh đẻ cho cộng đồng Bana và
J ’rai. Cần ưu tiên cho can thiệp truyền thông, đặc biệt với nhóm đối tượng chồng, bà mẹ; tư vấn nhóm nhỏ cần
được sử dụng nhiều hơn.
Từ khóa: Phụ nữ, mang thai và sinh đẻ, dân tộc.
SUMMARY _

CARE OF ETHNIC MINORITY WOMEN DURING PREGNANCY AND A T BIRTH AND SOME BARRIERS

ON ACCESS TO HEALTH CARE SERVICES IN GIA u \ i
MS. Tran Thi Diep1, Asso. Prof. Dinh Thi Phuong Hoa2,
MS. Tran Khanh Long1, Asso. Prof. Tran Huu Bich1
1 Lecturer, Hanoi School o f Public Health
2 Former Lecturer, Hanoi School o f Public Health

445


While more impressive achievements has been made in care o f women during pregnancy and at birth in
Vietnam, many ethnic women in remote areas remain difficult to access the healthcare services. The backward
practices still exist that seriously affect the health o f women at childbearing age. Our study was conducted with
the objective is to describe the current status and barriers on the care for women during pregnancy and at birth
among Bana and J'rai people in Gia Lai province. Qualitative method was used to collect data from 12 in-depth
interviews and 12 focus group discussions with mothers o f children under 5 years old. Findings: Ethnic minority
women have limited knowledge o f benefits o f antenatal care and low use o f health services during pregnancy.
Home delivery is still common. After delivery, the mothers usually have a long - term diet; early heavy work in
fields. As the results, they often feel tired and don’t have enough milk for their babies. Three main barriers on
assessing healthcare services for women during pregnancy and delivery including (1) women don’t understand
well about communication messages and the ways to transfer information in community are not appropriate. (2)
At home, the husband and/or his/her parents are the main persons to decide how to care o f a woman during
pregnancy and giving birth. (3) Poverty is a big challenge for women to access health care services. Conclusions:
The comprehensive interventions should be carried out to improve the health o f women during pregnancy and at
birth forJ'rai and Bana community. Communication intervention should be prioritized, especially for the targeting
population o f the husband and his/her mother. Consulting with small groups should be more used.
Keywords: Women, pregnancy and at birth, remote areas.
Đ ẶT VÁN ĐỀ
ở nước ta, việc tư vấn và truyền thông về lợi ích
của việc nâng cao bú sữa m ẹ và các nỗ lực hỗ trợ
thực hành chăm sóc dinh dưỡng tốt cho trẻ nhỏ đã

được thực hiện từ những năm 80 của thế kỷ 20, và
cho đến nay các hoạt động này đã được đưa vào các
chương trinh y tể quốc gia về sức khổe bà mẹ và trẻ
em. Mạc dù vậy, kết quả điều tra dinh dưỡng quốc gia
năm 2Ị10 cho thẩy ty lệ ni con bằng sữa mẹ sớm
trên toàn quốc chỉ đạt khoảng 61,7% , ty lệ trẻ bú hoàn
toàn đến hết 6 tháng đầu là 19,6% . Trong khi ổó, các
tỷ lệ này ở Gia Lai vào khoang 7 3% và 22% [1].
Những con sổ thống kê năm 2 012 của Sở Y tế Gia Lai
cho thấy các hoạt động phòng chổng suy dinh dưỡng
đẵ và đang được triển khai thông qua các hoạt động
truyền thông, tư vấn và thực hành dinh dưỡng và đánh
giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ đưới 2 và 5 tuổi dựa
trên cân nặng [2]. Tuy nhiên, Gia Lai vẫn cịn là tỉnh có
tỷ iệ suy đinh dưỡng thể nhẹ cân (26,2% ) và còi cọc
(36,2% ) ở trẻ dưới 5 tuổi cao trong toàn quốc [1 ].
Trong số 33 cộng đồng dân tọc thiểu số sinh sống
tại Gia Lai, đồng bào Bana và J’rai chiếm tỷ íệ lớn nhẩt
(lần lượt 33,5% và 13,7% )- Những thực tế chúng tôi
ghi nhận được về cách thức nuôi con nhỏ của phụ nữ
các dân tộc nàv phần nào giải thích được nguyên
nhân của con so trên. Chính tập tục ni con lạc hậu
!à rào cản chính khiến cho tình trạng suy dinh dữỡng ở
trẻ dưới 5 tuổi của khu vực nàỹ còn chưa được cải
thiện.
Dựa trên số liệu của một nghiên cứu nằm trong
khn khổ cùa Chương trình Sự sống cịn và phát
triển của trẻ em, một trong những hợp phần của
Chương trình Hợp tảc giữa U N IC E F và tình Gia Lai
trong giai đoạn 2Ị12-2016, bài viết này tập trung mơ tồ

thực trạng và rào cản về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
nhỏ (dưới 5 tuổi) ở người Bana và J’rai tại Gia Lai. Từ
đó đề xuát một số giải pháp nhằm đỗi mới các chương
trình can thiệp truyen thơng để cải thiện tình trạng suy
dinh cho trẻ nhị trong hai cộng đồng này tại Gia Lai.

ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯỚNG PHAp NGHIÊN cứu
Nghiên cứu sử dụng íhỉết kế định tính với 12 cuộc
phỏng vần sâu (P V S) và 12 cuộc thảo luận nhóm

(TLN) các bà m ẹ Bana và J’rai có con dưới 5 tuổi, tại 4
huyện Krong Pa, Kong Chro, Mang Yang và K' Bang
của tỉnh Gia Lai vào tháng 5/2014. Các đối tượng
được iựa chọn có chủ đích, !à bà m ẹ có con dưới 5
tuổi và có khả năng nối được tiếng kinh. Hướng dẫn
phỏng vấn sâu và thào luận nhóm được thiết kế nhằm
tim h ỉlu sâu về thực trạng, rào cản văn hóa và các vắn
đề iiên quan đến chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ nhỏ.
Số liệu được m ã hóạ và phân tích theo chủ đề.
KẾT Q U Ả V À B ÀN LUẬN
1.
N uôi co n giai đ oạn 6 th á n g đầu - “ M ẹ ăn gì
con ăn nấy, m ẹ uống gì co n uống nấy”
Thơng tin chúng tôi thu được cho thấy, trẻ phần lớn
không được bú sữa m ẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
Khi được hỏi trong 6 tháng đầu sau sinh, ngoài sữa
mẹ thì trẻ cịn được cho ăn/uống gì thêm khơng, nhiều
bà mẹ thông báo về việc trẻ được uống thêm nước.
“Sáu tháng đầu thi thường người ta cũng nói ià bú
sữa mẹ thôi, nhưng sợ thiếu nước người ta vẫn nhỏ

nước cho bé. ở trong đây thấy nqười ta toàn nhỏ hết
á. Hồi trước em thường hay làm đôi công với người ta,
là thấy ví dụ trong tháng lâu lâu người ta cũng lầy
nước, ví dụ mẹ uống lả nhỏ một giọt vào miệng, người
ta sợ khô miệng, con thiếu nước? (PVS, Bà mẹ Bana,
xã Lơ Pang, huyện Mang Yang)
Trẻ cũng thường xuyên được cho ăn dặm không
phù hợp với giai đoạn phát triển. Hiện tượng cho án
dặm sớm trước 4 tháng là phổ biến. Thực phẩm cho
trẻ thường là “có gi ăn nấy” và thậm chí cho ăn cơm
hạt ngay trong tháng đầu tiến.
Qua các cuộc phỏng vấn sâu, chúng tơi ghi nhận
được cịn nhiều tập tục hạn chế trong chăm sóc dinh
dưỡng sau sinh cho bà mẹ dân tộc thiéu sổ tại Gia Lai.
Đàu tiên phải kể đến chế độ ăn uống. Sau khi sinh, bà
mẹ thường ăn kiêng nhỉều loại thức ăn, ăn kiêng kéo
dài và chỉ nghe tư vẩn từ bố mẹ mình và người già
trong làng (thường là bà già đỡ đẻ/bà mụ). Thôna
thường, bà m ẹ sau sinh sẽ chỉ được ăn cơm với muổi
trắng và thịt nạc heo nướng với rất ít rau và thậm chí
có trường hợp khơng ăn rau. Chế độ ăn này kéo dài
đến khoảng 2 - 3 tháng sau sinh hoặc lâu hơn. Trong
thời kỳ cho con bủ, việc người mẹ sừ dụng thức ăn

446


quá khô, quá mặn, không ăn rau, không ăn canh... sẽ
dẫn đến tình trạng mẹ thiếu nươc, thieu các vitamin
cần thiết. Từ đó, người m ẹ sẽ bị giảm các ỉố chất trong

cơ íhể và sê ảnh hưởng nhất định đến tinh trạng dinh
dưỡnc) của trẻ.
Tiếp đến phải kể đến việc bà m ẹ uống nước nóng
hồn íồn đển khoảng 3 - 4 tháng sau sinh. Họ không
dám ăn uống khác đi vi m ẹ không cho ăn, họ sợ mẹt
và ốm”. Chị em cho biết không giong như người Kinh,
người đồng bào phải làm việc nặng nhọc quá sớm sau
khi sinh, nên ăn cái gì cũng sợ.
“Người Kinh thì khơng uống nước nóng, người
đồng bào thì uống nước nóng tới 4 tháng ln. Người
Kinh íhl đẻ xong thì ờ nhà không, ăn uống đầy đủ,
người đồng bào đi làm nhanh !ắm, 2 tháng £ luôn. Sợ
đi nắng đi mưa, sợ chết. Phải sợ chứ”. (TLN, Bà mẹ
J’rai, xã Chư Đrăng, huyện Krong Pa)
Tuy nhiên, sau giai đoạn phải uống nước nóng, họ
iập tức chuyển sang uống nước “lạnh", tức !à nứớc
không qua đun nấu mà ùong trực tiếp từ giếng hay
sơng, suối. Điều đáng nói ià, khi m ẹ uống nước iạnh
thi con cũng uống nươc lạnh. Có khi con được 2 thẩng
đã bắt đầu cho uổng nước lạnh. Hiện tượng này là khá
phổ biến. V ì người đồng bào khơng có thói quen uống
nước đun sơi. Hơn nữa, các bà m ẹ cũng cho rằng “mẹ
ăn gì con ăn nấy, m ẹ uống gi con uống nấy”.
Tất cả chế độ ăn uống như trên của bà mẹ sau
sinh cũng như chăm sóc trẻ là dựa hồn tồn vào kinh
nghiệm của người già (m ẹ cùa bà mẹ) và những
người iớn íuổi trong Tàng. V iệc cho uống nước “lạnh
từ giếng, suối khi trẻ còn quá nhỏ cũng là do “người
già bảo thế” và cho rằng trẻ “thích” uống nước như
thế. Khi đến trạm y tế xã, họ không chủ động hỏi cán

bộ y tế về thông tin chăm sóc trẻ vì “có ngữời nhắc rồi,
do mẹ, cơ chú, những người sinh con trước, nên đi
không hỏi”. (TLN, Bà mẹ Bana, xă Lơ Pang, huyện
Mang Yang)
Về chế độ làm việc, phụ nữ người đồng bào cũng
đi làm trở lại rất sớm, thường sau sinh khoảng 2
tháng. C á biệt có trường hợp đi làm ngay sau khi con
“đứt rốn" (sau khoảng 7 ngày).
“ở đây thỉ vẫn lạc hậu lắm. C ứ con mà đứt rốn
xong là mẹ đi làm rồi. Đ ứ t rổn ià khoảng 7 ngày. Hoặc
là 15 ngày, có những người là 3 ngày" Làm cơng tác
tuỵên truyền ở đây cũng khơng được. Bởi vì từ trước
tới giờ người ta CÍP nghĩ7 mà ke cả cho dù chứng tơi có
tuyen truyền thi những bà m ẹ ờ lóp trước chúng tơi
cũng thế, cũng có bị sao đâu, bây giờ vẫn sống khỏe
mạnh, không sao hết, thi cũng rất là khó.” (Bà mẹ
Bana, xã Đ ăk Sơng, huyện Kong Chro).
Họ cũng thường bế cả con đi theo, cho dù ỉà đí
chăn bị hay đi lên nương rẫv. Nghiên cứu của Viện
V ệ sinh Dịch tễ Tây nguyên ve tìm hiểu tập qn ni
con của bà mẹ một số dấn tộc thiểu số tại’Tây Nguyên
cũng cho thấy, đối với những phụ nữ ni con nhỏ, có
đến 67% cịn tập quán cõng con theo'khi đi làm trên
nương rẫy [3].
Người chồng có ảnh hường quyết định đến chế độ
ỉàm việc của người vợ. Theo đo, nếu chồng thương vợ
thì sẽ để vợ iàm ít hoặc được nghỉ hẳn ờ nhà trơng

447


con. Đ ã có những so sánh về "sự tâm lý” giữa đàn ông
người đồng bào và đàn ông người Kinh.
"Có gia đinh người ta thương vợ iắm ỉhỉ cho vợ
làm ít. Nhưng có những nhà người chồng chưa thơng
cảm iắm đâu. Vợ có bau thì người ta nghĩ là bà nào
cũng chả mang bầu, bà nào cha nghén. Chứ trong đây
thì cũng rất là khó. Bây giờ mà muốn chăm sóc như
ngồi kia thì đàn ơng ở ngồi kia người ta rất là tâm lý,
biết ỉà giai đoạn phụ nữ m à mang bầu ấy ỉà giai đoạn
khó khăn nhất, tâm lý cũng thay đoi này.” (PVS, Bà mẹ
Bana, xã Lơ Ku, huyện KBang)
Qua phỏng vấn, chúng tôi cũng thấy rằng việc đỡ
đần vợ các công việc nhà như nấu ăn, giặt quần áo,
xách nước... trong thời gian vợ đang ni con nhỏ là
quen íhuộc với người ốhồng dân tộc Jraỉ hơn so với
dân tộc Bahnar.
2. Xa lạ vớ i n hữ n g khái n iệm liên quan đến
“dinh d ư ỡ n g ”
ở những xã chúng tơi đánh giá, các bà mẹ khơng
có khái niệm về chất dinh dưỡng cũng như cho con ăn
thế nào là đủ chất. Con thích ăn gì thì cho ăn nấy tại
bất cử thời điểm nào trong ngày. Họ cho con ăn các
sản phẩm công nghiệp như bim bim, kẹo, sữa tươi
đóng hộp bất kể thời điểm nào ỉrong ngày, ngay cả
trước bữa ăn chính, ở cả 4 xâ điều tra, hiện tượng các
bà mẹ không tự nấu cháo cho con trong giai đoạn an
dặm ban đầu là phồ biến. Họ cho con ăn cháo đóng
gói mua sẵn ngồi cửa hàng. M ặc dù hàng năm trạm y
tế xã đều tập huấn cho các bà m ẹ cách nấu cháo có
đủ chất đinh dưỡng cho con, và bất chấp thực tế là họ

thích, khen ngon và có nói rằng về nhà nấu được,
nhưng khơng ai chịu iàm.
“Cũng ít người nấu cháo. Họ mua cháo gói cho con
ăn thơi. Cho dù được học tập người ta nói là phải nấu
cháo cho con, nhưng mà họ cứ nói họ khơng có rảnh,
khơng có thời gian. V í dụ họ cũng nấu, nhưng con
khơng chịu ăn là bỏ. Chứ hồi trước ờ trạm là thường
nấu cháo dinh dưỡng ấy, ở các làng. Tập huấn ở mồi
làng cũng 2,3 lần làm đó chứ. Như tơi cũng chính là đi
gọi chị em, xem rồi tập làm. Nhưng mà học rồi cũng bỏ
đấy à, cũng không ai chịu làm.” (PVS, Cán bộ hội phụ
nữ xã Lơ Pang, huyện Mang Yarìg)
Lý do viện dẫn cho việc khơng thể tự nấu cháo ở
nhà ỉà họ khơng có thời gian, khơng có điều kiện đề
mua các loại thực phẩm, và thậm chí có bà m ẹ cịn
cơng nhận là do lười và ngại nấu.
“H: thế chịu khó nấu ở nhà ấy. Thịt gà hay có con
cá con tơm bắt ở đồng ấy. C hứ mua cháo ờ ngồi hiệu
cũng khơng đù đinh dưỡng đâu. Có làm được khơng?
Đ: được, nhưng mà lười làm lắm (cười)”
(P V S - Bà m ẹ Bana, huyện Mang Yang)
3. R ào c ản tron g c h ă m s ó c dinh d ư ỡ ng c h o trẻ
nhỏ
Đi sâu tìm hiểu cách thức nuôi con nhỏ cùa đồng
bào, chúng tôi nhận thấy “tự nó lớn thơi" !à quan điểm
đã ngự trị từ đời này sang đời khác ỉrong cộng đồng
người DTTS. Cách thức nuôi con của bà mẹ Bana và
J’rai khá giống nhau, ở chỗ họ để cho con trẻ utự lớn",
con ăn ỉoại thức ăn và uống nguồn nước như bố mẹ,
không chứ ý giúp trẻ làm quen với quá trinh chuyển



giai đoạn (giai đoạn ăn dặm) của con. V ì thể, Hiện
tượng trẻ không được cho ăn đúng cách, biếng ăn và
gầy yếu trờ nên “bình thường” ờ các địa bàn chúng tơi
đi qua. Khái niệm “chăm sóc” cũng thực sự xa lạ vởi
phần ổông đồng bào nơi đây:
“Người đồng bào đâu blểt chăm sóc đâu. Sau khi
sịnh |à nhi p \/â v thAỊ Ăn r.ÍỊÍ nì I innn cáị đốư tụ> ỊrVrt Ti p

nó lớn thơi." (PVS, Bà mẹ Jrai, xã Chư Đrăng, huyện
Krong Pa)
Một rao cản nữa tà “sức ì” của người D TTS q
íớn. Họ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tài trợ của nhà
nước hay của dự án nào đó. Điều này khơng cịn là
mới và đã được đề cập đến trong nhieu nghiên cứu.
Tuy nhiên, naay trong việc chăm sóc con, tưởng
chưng rihư hiên nhiên vì vổn vẫn được coi như “thiên
chức” của người mẹ, thì họ cũng có tư tưởng “ăn sẵn”.
Khi ổược hỏi về đề xuất ý tưởng nhằm cái thiện thực
trạng chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ, thì có ý kiến cho
rằng:
“Chắc cũng cần thêm cháo dinh dưỡng thì nhà
nước nên hỗ trợ. V í dụ như thỉnh thoảng người ta nấu
cháo ở iàng thì cũng được. Em nghĩ như thể.” (PVS,
Bà mẹ Bana, xã Đ ăk Sông, huyện Kông Chro)
Chúng tôi cảm nhận được một điều rất rõ ràng là
đồng bào chưa có nhận thức đầy đủ về việc phái tự
giải thốt mình khỏi cảnh nghèo khó, chưa ío tich cóp
vốn đề đầu tư phát triển sồn xuất. Họ chỉ cần đủ ăn để

sống qua ngày chứ chưa thực sự muốn vươn !ên
íhốí nghèo. Với họ, “thốt nghèo” đồng nghĩa với việc
mất đi số tiền nhà nước hỗ trợ hàng tháng, mất đi ưu
ổãi vay vốn ngân hàng. V ì thế, số lượng các hộ gia
đình dùng tiền vốn vay từ ngân hàng chfnh sách xã hội
của ỉỉnh để mua xe m áy và tivi thay vì đầu tư vào
nương rẫy là khơng nhỏ. Đi từ khía cạnh này thì việc
họ khơng tự nẩu cháo hay chăm sóc con là hồn tồn
cổ thể hiểu được. V à cũng chính những hạn chế có
tính hệ thống này đã phần nào lý giải cho sổ íiệu về tỷ
lệ suy dinh dưỡng năm 2013 ở trẻ dưới 5 tuổi còn rất
cao ờ Gia Lai, với 35 ,5 % suy dinh dưỡng thấp còi và
24,8% suy dinh dưỡng nhẹ cân [4]. Con số này tuy đã
giảm so với tổng điều tra năm 2010, song Gia Lai vẫn
cịn nằm trong top dẫn đầu cả nước.
Ngồi hai rào cản chính trên đây, thì hạn chế về cả
phương tiện và cách thức truyền thông cũng khiến
việc trang bị kiến thức cho chị em người D TTS về
chăm sóc con và chăm sóc bản thân gặp nhiều khó
khăn. Đối tượng phỏng vấn cho biểt về hình thức sổ
lay chăm sóc SKSS và D D T E hiện vẫn đang được
triền khai là không phù hợp. Phần lớn chị em khơng
biết đọc hoặc khơng có mong muổn đọc tài liệu để có
thêm hiểu biết. Ngồi ra số lượng các cuốn số tay này
cũng hạn chế, chì có một số ít chị em được cấp phát.
Tường tự với tờ truyền thông về chăm sóc thai
nghén và chăm sóc trẻ được dán trên tường của các
T Y T xã. Những nội dung đó đơi khi cũng được các bà
mẹ để ỷ, song chi trong trường hợp họ tranh thủ đọc
trong thời gian chờ ổến lượt tiêm cua mình. Vi là hoạt

động đọc khơng chủ ổích, nên những nội dung ấy khó
cố thể ồn sâu vào tiềm thửc của chị em.
Hình thức truyền thơng nhóm iớn khơng thực sự

phát huv tác dụng đối với chị em D TTS, do những bất
đồng vế ngôn ngữ. Mỗi khi có chương trình truyền
thơng, cán bộ trạm y tế sẽ đi đến từng thôn, tập trung
chị em cả thơn lại để nói chuyện. Phần lớn chị em
khơng biết hoặc hiểu rẩí hạn chế những nội dung
tuyên truyền bằng tiếng Kinh, người hiểu nhiều dịch lại
cho nnicrvị hịết ít nêr> thnng tin th'pfrng hị gián đoạn và
có nhĩều khả năng bị sai lệch. V I thể, tuy chị em rất
hào hứng với những buổi tập trung đông như thể,
song thực sự không đạt được hiệu quả iớn giúp thay
đổi nhận thức và hành vi. Đ ây là hạn chế lớn về mạt
truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số cần
được khắc phục.
Chia sẻ với chúng tôi về giải pháp nâng cao hiệu
quả truyền thông trong chăm sóc trẻ, một số ý kiến thể
hiện mong muốn được tư vấn tại chỗ, thay V! xem các
tài liệu truyền thơng hay sổ sách. Họ cần có người tư
vấn hiểu rõ các vẩn đề về chăm sóc trẻ yà có thể giúp
họ giải quyết thỏa đáng những vướng mắc.
■'Em nghĩ ià phải có người tư vấn tại chỗ. C ó người
để hỏi thì chắc chắn là phải tiện íợi hơn xem mấy cái
nhìn rồi. V í dụ hơm nay đi cân em cũng muốn hỏi là
con em rất íà biểng ăn, m à trong khi đấy thi em cũng
xay bột xay cháo cho bé ăn này, mà tại sao nó íại
khong ăn, mà nó khơng ăn là nó cử phun ra. Đ ó bây
giờ íà có cách nào giải quyết cho em. Thực tế íà em

muốn hỏi cái người mả người ta nắm trực tiếp, cái
người đó phải trả lời mình chứ sồ sách thì, người ta
nói là cứ ép con ép con, nhưng mà ép bằng cách nào”.
(PVS, bà mẹ Bana, xã Lơ Pang, huyện Mang Yang)
Ý kiến trên đây gợi lên rằng, đối với chị em DTTS,
tài liệu truyền thơng về mảng chăm sóc trẻ em cỏ vẻ
mang tính "lý th u y ế r và khơng giúp họ nhiều trong việc
chăm con hàng ngày. Cái họ cần là những người tư
vấn có kinh nghiệm và kỹ năng thực tế trong chăm sóc
trẻ.
Khi được hỏi tại sao khơng hỏi cán bộ ở trạm y tế,
thỉ họ cho biết tại trạm chỉ cố từ một đến hai cán bộ
chuyên trách, làm việc tại trạm nên không thể kịp thời
giải đáp ngay những vấn đề trong quá trinh nuôi con
hàng ngày. M ặt khác họ cũng ngại phải làm phiền cán
bộ y tế vởi quá nhiều thắc mắc và câu hịi của mỉnh.
Cịn y tế thơn bản thì tuy ở tại địa bàn nhưng lại chưa
nắm rõ kiến thức và chưa có kỹ năng tư vấn.
Hạn chế của nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu có chủ đích trong nghiên
cứu này khống mang tính đại diện cho quần thể
nghiên cứu. V ì vậy, kết quả nghiên cứu nên được
nhận định dưới góc độ chỉ cung cấp thông tin về thực
trạng nuôi con nhỏ từ phía bà mẹ. Bài viết đã phân tích
thực trạng và rào cản trong việc nuôi con nhỏ của chị
em phụ nữ người Bahnar và J’rai. Tuy nhiên, nghiên
cứu này chưa tìm hiểu quan điểm trong việc chăm sóc
trẻ từ những íhành viên khác trong gia đinh, những
người có ảnh hưởng quan trọng đến việc chăm sóc
con nhỏ của chị em, đó là người chồng và m ẹ đẻ/mẹ

chồng để có thêm thơng tin đa chiều và cung cấp một
cái nhìn tồn diện hơn từ phía những người trong
cuộc.
K ẾT LUẬN V À K H U Y Ế N N G H Ị


Cịn nhiều tập qn ni con cần được thay đổi và
cải thiện trong cộng đồng D TT S người Bana và J’rai.
Trong đó trẻ khơng được bú sữa m ẹ hồn tồn trong 6
tháng đầu, khơng được ăn dặm đúng cách và người
mẹ khơng có khai niệm về dinh dưỡng là những Thực
tế đang khiến cho tình trạng suy dinh dưỡng trẻ nhỏ
trong cộng đồng D TTS tại Gia Lai nói riêng và Tây
Ngun nói chung duy trì ở mức cao. Các rào cản
chính trong chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ nhỏ nằm ờ
quan điểm “tự nỏ lớn thôi” và "sức ì” của người DTTS
chi phối những hù tục liên quan đến chăm sóc trẻ.
Thêm vào đỏ, hạn chế về cả phương tiện và cách thức
truyền thông cũng khiển việc trang bị kiến íhức cho chị
em người DTTS về chăm sóc con và chăm sóc bản
thân gặp nhiều khó khăn.
Đ e nâng cao chất iượng của hoạt động chăm sóc
dinh dưỡng trẻ em ỉrong cộng đồng Bana và J’rai,
chúng tôi cho rằng trước tiên cần đổi mới các can
thiệp về mặt truyền ỉhông.
Một là, các kết quả cho thấy truyền thơng nên bổ
sung thêm các nhóm đối tượng đích có v a ĩ trò ảnh
hưởng hoặc quyết định đối với bà mẹ, đó là ơng bố và
bà mẹ lớn tuổi trong gia đinh. Xuất phát từ chính mong
muốn của đối tượng nghiên cứu, thì nên truyền thơng

cho cả ơng bố để co sự đồng lòng và nhất quán trong
việc chăm sóc con. Ngồi ra, cà hai dân tộc J’rai va

Bana thuộc 4 xã điều tra đều theo chế độ mẫu hệ, nên
tiếng nói của người mẹ có ảnh hưởng lớn đến hành vi
cùa hai vợ chồng. V ì thế, cũng cần bổ sung thêm đối
tượng ìruyền thơng !à bà m ẹ lớn tuổi trong gia đình.
Đối với Gia Lai, trong điều kiện thực trạng có quá
nhiều vấn đề đan xen cần cải thiện, thì việc bồ sung
thêm đối tượng đích trong ỉruyền thơng, ngồi đồi
tượng chính ỉà bà mẹ, sẽ giúp thay đồi hiệu quả các
tập quán lạc hậu tronq chăm sóc trẻ.
Hai là, thay vì truyen thơng nhóm lớn như vẫn đang
thực hiện tại các địa bàn và tỏ ra không hiệu quả, nên
chuyển sang hỉnh thức truyền thông nhóm nhỏ. Đ ể
làm được điều này, cần tăng cường nâng cao kiến
thức và kỹ năng cho Y tá thôn bản để đảm bảo hiệu
quả tức thời của tư vấn tại chỗ theo nhóm nhỏ.

TÀÍ LIỆU THAM KHẤO
1. Bộ Ỷ tế (2010). Tổng điều íra dinh dưỡng 2009 2010. N X B Y học.
2. Sở Y tế Gia Lai (2013). Báo cáo công tác y tế năm
2012 .
3. Ths. Đặng Oanh, BS. Phan Hải Bình, BS. Nguyễn
Thị Thuỳ (2014). Tìm hiểu tập quán nuôi con của bà mẹ
một số dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Đ ề tài đã nghiệm
thu của Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên.
4. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2014). số liệu giám sát
dinh dương trẻ em năm 2013.


THỰC TRANG QUAN HỆ TÌNH DỤC, s ử DỤNG BIỆN PHÁP
TRÁNH THAI VA ỴÉU TỐ LIÊN QUAN Ờ N Ữ LAỎ ĐỘNG DI CƯ CHƯA
CHỒNG TẠI MỘT SỐ KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM, 2015
T hs. Trần Thị Đ ứ c Hạnh (Bộ m ôn Dich tễ, Đ ại học Y tế công cộng)
H ư ớ ng dẫn: T S . Lê Th ị Kim Á nh (Bộ m ôn Thống kê, Đ ại học Y tế công cộng)
PG S . T S . B ùi T h ị Thu Hà (Bộ m ôn Sưc khỏe sin h sản, Đại học Y tế công cộng)
Đ Ặ T VÁ N Đ Ề V À M Ụ C TIÊU
Quá írlnh đơ thị hố diễn ra nhanh chóng, thị
ỉrường iao động hình thành và phát triền tại các trung
tâm đơ thị, các thành phố lớn, tạo ra những nhu cầu ve
sức iao động. Di cư nông thôn - thành thị thường có
sự tham gia đơng đảo của phụ nữ do nhu cầu sức lao
động ờ khu vực công nghiệp nhẹ, kinh doanh và dịch
vụ ơ các thành phố ĩớn [1J. Đ ến năm 2009, số lượng
nữ giới đã nhiều hơn số lượng nam giới trong tất ca
các nhóm dân số di cư [2].
Các nghiên cứu trươc đây cho thấy phụ nữ di cư là
đối tượng dễ bị tổn thương với các vấn đề về sức
khỏe sinh sản (SKSS) đặc biệt là mang thai ngồi ý
muốn và nạo phá thai khơng an toàn, điều này tạo
thành một vấn đề y tế công cộng rất lớn [3]. Hơn nữa,
phần lớn phụ nữ di cư con trẻ và chưa lập gia đình
[1,4], có nhu cầu rát lớn về dịch vụ và thông tin SKSS
[2]. Những chương trinh y tế, các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe thường ít khi đề cập đến người nhập cư,
thậm chí bỏ qua người lao động nhập cư do vị thế
khơng chính thức của họ về m ặt pháp lý ờ nơi nhập
cư. Do vậy, việc nghiên cứu về các van đề SKSS cua
nữ lao động di cư trẻ, đặc biệt là các vấn đề liên quan
đến tinh trạng quan hệ tình dục trước hơn nhân, sử


dụng biện pháp tránh thai trở nên vô cùng quan trọng.
Nghiên cứu này nhằm mơ tả thực trạng quan hệ tình
đục, sử dụng biện pháp tránh thai và moi liên quan với
cac yếu tổ nhân khẩu học, tình trạng đi cư, ơ nữ iao
động di cư chưa chồng tại một số khu công nghiệp
(KCN) V iệỉ Nam.

ĐỘI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
Đ ổ i tư ợ n g: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng
8/2013 đến tháng 8/2 0 1 5 trên các nữ !ao động đi cư
chưa lập gia đình, 18-49 tuồi làm việc tại các KCN: Sài
Đồng (H a Nội), Hòa Khánh Bắc (Đ à Nẵng), và Tân
Tạo (TP Hị Chí Minh) và Bình Dương. C ác khu công
nghiệp này đặc trưng về vùng - miền, chủ yếu tập
trung các cơ sơ cơng nghiệp nhẹ vốn ìhu húỉ nhiều lao
động nữ trẻ.
Tiêu chuẩn chọn đối tượng: Nữ di cư là người
chưa lập gia đinh tại thời điềm nghiên cứu, di cư từ
các tỉnh/thành khác đến địa bàn nghiên cứu, có thời
gian lưu trú liên tục tại địa bàn nghiên cứu từ 6 íháng 5 năm, chưa có hộ khẩu tại địa bàn, làm việc tại các
cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các KCN, và đong ý
iham gia nghiên cứu [5]
T hiết kê nghiên c ứ u : c ắ t ngang mô tả.
C ỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính nhằm xác định íỷ lệ nữ

449




×