Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện đông sơn, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.9 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________

NGUYỄN THỊ HOÀI

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN ĐƠNG SƠN,
TỈNH THANH HĨA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________

NGUYỄN THỊ HOÀI

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN ĐƠNG SƠN,
TỈNH THANH HĨA
Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN



NGHỆ AN, 2017


1
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học Vinh, chúng tôi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Nhà trường, Thầy Cơ, bạn bè, đồng
nghiệp.
Nhân dịp bảo vệ luận văn tốt nghiệp, chúng tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân
thành tới PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn, người đã định hướng đề tài và trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Phịng Đào
tạo Sau Đại học, Trung tâm Thơng tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào - Trường
Đại học Vinh, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Đơng
Sơn- tỉnh Thanh Hóa, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã tận tâm giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do điều
kiện nghiên cứu và khả năng còn hạn chế, luận văn chắc chắn khơng tránh khỏi
những thiếu sót về nội dung và hình thức. Chúng tơi rất mong nhận được sự góp
ý của Hội Đồng để cơng trình được hồn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoài


2
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 1
MỤC LỤC ............................................................................................................. 2
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG ..................................................................................................... 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ........................................ 10
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và những yếu tố cấu thành năng lực
lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ................................................................... 19
1.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cở sở Đảng ....... 29
1.4. Những yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ........ 31
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 33
Chương 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA .................................... 34
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội và tổ
chức cơ sở Đảng ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa .................................. 34
2.2. Tình hình năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa .............................................................................................. 44
2.3. Đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân về năng lực
lãnh đạo của tổ chức cơ Đảng ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ............. 55
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 6767
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN ĐƠNG SƠN,TỈNH
THANH HĨA HIỆN NAY ................................................................................. 68
3.1. Quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở huyện
Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay ............................................................. 68
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay ..................................... 74
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 105
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 106

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 108


3
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động. Đảng là tổ chức chặt chẽ thống nhất, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
bộ phận của hệ thống ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng Cộng
sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng, coi tổ chức cơ sở Đảng là cấp tổ chức nền tảng, là những
đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào của Đảng; chất lượng của các đảng bộ,
chi bộ cơ sở là nhân tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá
trình cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những thành tựu đã
đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt
nguồn từ nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức Đảng.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã nhất quán xác
định “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt”. Sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp cách mạng to lớn được thực
hiện trong điều kiện vừa có nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan
xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”, địi hỏi Đảng phải tiếp tục xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa tổng kết thực tiễn để nâng cao lý luận, làm sáng tỏ


4
chủ nghĩa Mác - Lênin đối với xây dựng Đảng, để Đảng đảm đương được nhiệm
vụ lãnh đạo.
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối, Nghị
quyết của Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào
việc hình thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua những
kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân
dân. Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, như kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá
đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân,
là khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ chức gần
dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. dân tin Đảng, theo Đảng hay không là
nhờ ở vai trò rất quan trọng, trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng, của cán bộ, đảng
viên tại cơ sở.
Do Tổ chức cơ sở Đảng có vai trị quan trọng như vậy, nên ở mọi thời kỳ
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ln coi các tổ
chức cơ sở Đảng là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào tạo nên sức
sống, sự lớn mạnh của Đảng. Ban chấp hành Đảng đã ban hành nhiều Nghị
quyết chuyên đề về công tác Đảng như: Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về
“Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”, Nghị quyết Trung ương 6 lần 2
(khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về “Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây

dựng Đảng hiện nay. Qua thời gian thực hiện, chất lượng của các tổ chức cơ sở
Đảng đã được nâng lên, số lượng chi bộ, đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh


5
ngày càng tăng. Nhiều chi bộ, đảng bộ đã lãnh đạo và thực hiện tốt chức năng
nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong cơng cuộc đổi mới, thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng bộ huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện có 39 tổ chức cơ sở Đảng
trực thuộc (trong đó: 15 Đảng bộ xã, thị trấn; 10 Đảng bộ khối cơ quan; 14 chi
bộ trực thuộc), với tổng số đảng viên là 5.446 đồng chí. Qua các nhiệm kỳ, Ban
thường vụ, Ban chấp hành Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng,
củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Vì vậy nhiều tổ
chức cơ sở Đảng đã giữ vững và phát huy được vai trị hạt nhân chính trị ở cơ
sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên;
thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, công tác chuyên môn
của cơ quan đơn vị. Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được
triển khai và đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Đảng và trong xã hội được
mở rộng hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở
được chăm lo. Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở được tăng thêm về số lượng và
chất lượng, trình độ, kiến thức về mọi mặt được nâng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã làm được, việc xây dựng, củng cố
tổ chức cơ sở đảng ở huyện Đơng Sơn cịn một số hạn chế như: năng lực lãnh
đạo của một số cấp ủy Đảng, cấp ủy viên cơ sở trong việc cụ thể hóa chủ
trương, Nghị quyết của Đảng, điều hành hoạt động của chính quyền có mặt cịn
hạn chế; cơng tác củng cố, xây dựng Đảng ở một số đơn vị cịn bị xem nhẹ;
cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở một số đơn vị còn chưa được
quan tâm, việc bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ một số đơn vị chưa hợp lý; công

tác kiểm tra, giám sát chưa được quan tâm, đặc biệt là việc kiểm tra đảng viên
thực hiện nhiệm vụ của chi ủy phân công; chế độ sinh hoạt, chế độ tự phê bình
và phê bình khơng được duy trì thường xuyên và nghiêm túc; vẫn còn hiện


6
tượng đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống. Có tổ chức cơ sở Đảng đạt
“trong sạch vững mạnh” nhưng thực tế chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ chưa tương xứng.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế về năng lực lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở Đảng huyện Đơng Sơn, để từ đó xây dựng những giải
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết và cấp
bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, chúng tôi chọn đề tài
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ Chun
ngành Chính trị học.
Trong những năm qua, có nhiều cơng trình, đề tài của các nhà khoa học,
các cơ quan nghiên cứu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng như cấp ủy Đảng
các cấp đã đi sâu tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Kết quả đã
được công bố trên các phương tiện thơng tin đại chúng, trên sách báo, tạp chí.
Thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiếp cận một số công trình nghiên như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII về “Một
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2),
khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”;
Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, Đảng viên” Nghị quyết
Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
- Đề tài khoa học cấp bộ:“Thực trạng và những yêu cầu xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện

nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10/1998. Đề
tài tập trung phân tích thực trạng tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng một số giải
pháp để củng cố và kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng ở vùng núi, vùng cao phía
Bắc Tổ quốc.


7
- Đề tài khoa học cấp Ban Đảng, mã số KHBD (2007) - 08 về "Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội
ngũ đảng viên" do TS. Đỗ Ngọc Thịnh làm chủ nhiệm đề tài.
- Đề tài luận án phó tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng
nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng”, do tác giả Đỗ Ngọc Ninh
(1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và đề ra
những giải pháp nâng cao chất lương tổ chức cơ sở Đảng ở vùng đồng bằng
Sông Hồng.
- Đề tài luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001), “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nơng thơn vùng cao
phía Bắc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS. Tô Huy Rứa và PGS.TS Trần
Khắc Việt đồng chủ biên (2004), “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong thời kỳ mới”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban tổ chức Trung ương (2004), “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng và đảng viên”, tập 1, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- TS. Nguyễn Xuân Phương chủ biên (2014) Tập bài giảng, “Xây dựng
Đảng”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Một số đề tài Luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002); “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng khối trực thuộc Đảng bộ huyện Hương
Khê, tỉnh Hà Tĩnh” của tác giả Phan Văn Long (2014); “Nâng cao năng lực lãnh

đạo của các Đảng bộ xã, phường ở thành phố Tân An, tỉnh Long An” của tác giả
Nguyễn Văn Hải (2016).
- Một số bài viết được đăng trên các sách báo, tạp chí khoa học: “Nâng
cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường mỗi quan hệ máu
thịt với nhân dân, Đảng - dân một ý chí”, của tác giả Lê Khả Phiêu (2000);


8
“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên”, của Ban tổ chức
Trung ương (2001), Tạp chí Xây dựng Đảng; “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Trương Thị Mỹ
Trang (2007), Tạp chí xây dựng Đảng số 2, 3; “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đáu của tổ chức cơ sở Đảng”, Vũ Văn Phúc (2011), Tạp chí
xây dựng Đảng số tháng 7; “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng hiện nay”, của tác giả Cao Ngọc Hải (2015), Tạp chí xây dựng
Đảng số 11; “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng
trong thời kỳ mới” của tác giả Tạ Xuân Đại (2015), Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam ngày 30/9/2015...
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, giúp tác giả kế
thừa và tìm ra những giải pháp hiệu quả, phù hợp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn huyện nhà.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng thuộc Đảng bộ huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, từ đó luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng.
- Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở huyện

Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh
đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề thuộc về tổ chức cơ sở Đảng nói chung,
trong đó tập trung nhấn mạnh, đi sâu vào nghiên cứu năng lực và năng lực lãnh


9
đạo của tổ chức cơ sở Đảng nhằm đề xuất quan điểm và các giải pháp để nâng
cao năng lực này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2010 - 2015 và đề xuất một số giải
pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong thời gian tới.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về năng lực lãnh đạo của
tổ chức cơ sở Đảng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử - logic.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp thống kê .
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Luận văn phân tích, làm rõ thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ
sở Đảng, đưa ra các giải pháp có cơ sở khoa học và tính khả thi góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh

Hóa hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho Đảng
bộ huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa và các tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ
huyện trong việc đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.


10
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Tổ chức cơ sở Đảng
Kế thừa những quan điểm, tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin luôn quan tâm chăm lo xây dựng các chi bộ cơ sở. Khi chuẩn bị thành
lập Đảng Dân chủ - xã hội Nga, V.I.Lênin chỉ rõ việc thành lập các tổ chức cách
mạng trong các xí nghiệp, nhà máy để lãnh đạo phong trào đấu tranh là nhiệm
vụ đầu tiên cấp bách của người Dân chủ xã hội Nga. Khi Đảng đã giành được
chính quyền, Lênin chỉ rõ: Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với
Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ
động, tuyên truyền, công tác tổ chức... Những chi bộ ấy phải thông qua cơng tác
mn hình mn vẻ mà rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng
một cách có hệ thống... Mỗi chi bộ và mỗi ủy ban công nhân của Đảng phải là
một điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức thực hiện
trong quần chúng. Khi chuyển sang thực hiện “Chính sách kinh tế mới” Lênin
cho rằng để giành thắng lợi trong việc chuyển biến chiến lược này, các tổ chức

cơ sở đảng có vai trò hết sức to lớn. Chỉ bằng con đường thực hiện nhiều biện
pháp nâng cao vai trò tổ chức đảng, chăm lo xây dựng, phát huy cao tính chủ
động sáng tạo của cơ sở, thì những nhiệm vụ và mục tiêu của chính sách kinh tế
mới của Nhà nước Xô - viết mới được thực hiện trong thực tiễn và giành được
thắng lợi. Là người kế thừa sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin đã tiếp tục
bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng Đảng kiểu mới và chăm lo xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng là nền tảng, là hạt nhân chính trị, lãnh đạo phong trào cách
mạng [44].


11
Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng lần đầu tiên được đề cập tại Đại hội Đại
biểu lần thứ III của Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga (25/4/1905). Đại hội
đã xác định "Mỗi tổ chức Đảng cho tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng phải
được xác định thành phần và nhất định phải ổn định những mối liên hệ đều đặn
với Trung ương". Sau đó trong bài "Tiến tới thống nhất", V.I.Lênin chỉ rõ
"Những điều kiện khách quan địi hỏi rằng những chi bộ cơng nhân phải làm cơ
sở của Đảng" [27].
Vận dụng vào Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản và tầm quan trọng của Tổ
chức cơ sở Đảng. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn quan
tâm đến việc xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở, đồng thời coi trọng vai trò to lớn
quyết định tới thắng lợi cách mạng của tổ chức cơ sở Đảng. Người khẳng định
trong công tác xây dựng Đảng, cái gốc là chi bộ, phải làm sao cho chi bộ vững
để lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, họ biết phát huy thắng lợi, khắc
phục trở ngại, vững vàng tiến lên; mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo
quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát
huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã nhấn mạnh: Đảng ta có một tổ
chức chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với

quần chúng, vì vậy phải được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở.
Người nói: "Ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường
phố, nơng thơn, đại đội có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ".
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn quan tâm xây dựng
các tổ chức cơ sở Đảng. Trong điều kiện hoạt động bí mật Đảng chú trọng phát
triển các chi bộ cộng sản ở các khu công nghiệp đông công nhân, những vùng
nông thôn, trong học viên, sinh viên và trí thức, nhằm tuyên truyền, cổ động
quần chúng đấu tranh giành chính quyền. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn


12
coi các tổ chức cơ sở Đảng là tế bào của Đảng. Chất lượng các tổ chức cơ sở
Đảng là yếu tố tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng trong q trình cách mạng,
là uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng và có tổ chức chặt chẽ,
khoa học. Tính tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thống
các cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Trong hệ thống đó, các tổ chức cơ sở: Chi bộ cơ sở và Đảng bộ
cơ sở dù được thành lập ở loại hình đơn vị cơ sở nào trong xã hội đều có vai trị
là nền móng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là sợi dây chuyền của Đảng
liên hệ với quần chúng. Các tổ chức cơ sở Đảng trực tiếp tiến hành các hoạt
động xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu
quả và trở thành hiện thực. Vì vậy, xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao là nhiệm vụ rất
quan trọng, cấp thiết góp phần xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được ghi rõ trong Điều lệ Đảng Cộng sản

Việt Nam và qua các kỳ Đại hội đều có sự điều chỉnh và từng bước hoàn chỉnh
về nội dung và ý nghĩa của nó. Tại Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được thơng qua Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI ghi rõ:
“1. Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức
cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, cơng an và các đơn vị khác có từ ba đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực
thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức


13
đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên
chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức
cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
chức đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở,
có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở” [19, tr.35-37] .
Tổ chức cơ sở đảng nói chung được thành lập theo ba hình thức:
- Chi bộ cơ sở, dưới chi bộ cơ sở có các tổ đảng.
- Đảng bộ cơ sở, dưới đảng bộ cơ sở là các chi bộ trực thuộc đảng ủy,
dưới các chi bộ có thể có các tổ đảng.
- Đảng bộ cơ sở, dưới đảng bộ cơ sở là các đảng bộ bộ phận và các chi bộ

trực thuộc Đảng ủy. Dưới đảng bộ bộ phận là các chi bộ, dưới các chi bộ có thể
có các tổ đảng.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở, việc
lựa chọn mơ hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào
số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, do yêu cầu của việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối ngoại
mở rộng của Đảng, nên ngồi các loại hình tổ chức cơ sở Đảng được tổ chức,
các đơn vị cơ sở hành chính (xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ
quan, doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội,... còn xuất


14
hiện loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Khái niệm năng lực
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các năng lực
hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân nó đóng vai trị quan
trọng, năng lực của con người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có, phần lớn
do cơng tác, do tập luyện mà có. Tâm lý học chia năng lực thành các dạng khác
nhau như năng lực chung và năng lực chuyên môn.
- Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều ngành hoạt động khác
nhau như năng lực phán xét tư duy lao động, năng lực khái quát hoá, năng lực
tưởng tượng...
- Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng trong lĩnh vực nhất định của
xã hội như năng lực tổ chức, năng lực âm nhạc, năng lực kinh doanh, hội hoạ,
toán học...
Theo Từ điển tiếng Việt do GS.Hoàng Phê chủ biên, năng lực là: “1. Khả

năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào
đó; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hồn thành một
loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao” [40, tr.660-661].
Theo quan điểm Mácxít, năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt
động của chính họ. Như chúng ta đã biết, nội dung và tính chất của hoạt động
được quy định bởi nội dung và tính chất của đối tượng của nó. Tuỳ thuộc vào
nội dung và tính chất của đối tượng mà hoạt động đòi hỏi ở chủ thể những yêu
cầu xác định. Nói một cách khác thì mỗi một hoạt động khác nhau, với tính chất
và mức độ khác nhau sẽ địi hỏi ở cá nhân những thuộc tính tâm lý (điều kiện
cho hoạt động có hiệu quả) nhất định phù hợp với nó.


15
Như vậy, khi nói đến năng lực cần phải hiểu năng lực khơng phải là một
thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ...) mà là
sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này không phải phép
cộng của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý
này diễn ra mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong
đó một thuộc tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai
trò phụ thuộc) đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó
đạt được kết quả mong muốn.
Từ các cách tiếp cận khác nhau về năng lực, chúng tôi cho rằng: Năng lực
là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu
của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao.
1.1.3. Năng lực lãnh đạo
Khơng ai sinh ra đã có sẵn trong mình những tố chất lãnh đạo bẩm sinh.
Để trở thành một nhà lãnh đạo giỏi, bạn cần phải có ý chí, có nỗ lực quyết tâm,
có tích luỹ kinh nghiệm, biết khơng ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn
thiện mình.
Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh

hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng
dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các
nhà lãnh đạo thực hiện q trình này bằng chính các kỹ năng của mình, chẳng
hạn như lịng tin, sự tơn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, kiến thức
hoặc kỹ năng.
Năng lực lãnh đạo là tổng hợp các thuộc tính cơ bản của người lãnh đạo
nhằm đáp ứng những yêu cầu và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo
hoạt động đạt hiệu quả cao. Đó là khả năng đề ra chủ trương, đường lối và
nhiệm vụ chính trị sát thực với thực tế ở địa phương và là khả năng thực hiện
chủ trương, thực hiện công tác kiểm tra. Năng lực lãnh đạo gồm 02 yếu tố là
năng lực hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện:


16
Năng lực hiểu biết: là tri thức toàn diện, khả năng nhận thức quan điểm,
đường lối, chủ trương, Nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
để vận dụng sáng tạo, khoa học phù hợp thực tiễn, có hiệu quả cao.
Năng lực tổ chức thực hiện: là khả năng đề ra chủ trương, phương hướng
công tác đúng, tổ chức thực hiện chủ trương, phương hướng đó tại cơ sở đạt
hiệu quả cao; kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm để bổ sung hồn thiện các chủ
trương cơng tác tại địa phương, đơn vị.
Để có được năng lực lãnh đạo, người cán bộ, đảng viên phải có trình độ
chun môn, nghiệp vụ tốt, phải nắm vững, quán triệt chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cấp trên. Hiểu biết sâu sắc về công
nghệ tiên tiến để áp dụng vào cơng tác của mình. Đồng thời nắm vững tình hình,
đặc điểm của đơn vị, khai thác thế mạnh, tiềm năng và vận dụng sáng tạo, biết tổ
chức, vận động quần chúng thực hiện Nghị quyết của Đảng. Biết tổ chức bộ máy
hoạt động có hiệu quả, tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác
và đời sống. Năng lực lãnh đạo còn thể hiện ở năng lực kiểm tra các tổ chức,
đoàn thể và mọi người thực hiện nghị quyết trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm

phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm để thực hiện Nghị quyết tốt hơn.
1.1.4. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
Theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của
Đảng (2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì Năng lực lãnh đạo của Đảng
là “Khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng
như thời kỳ và bằng những phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân
dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả” [37, tr.38].
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là khả năng của đảng bộ, chi
bộ cơ sở trong việc nắm vững, quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, các
Nghị quyết của cấp ủy cấp trên để đề ra mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ
lãnh đạo đúng đắn, sát hợp tình hình thực tế của địa phương, đơn vị trong từng


17
thời kỳ; đồng thời là khả năng cụ thể hóa nhiệm vụ chính trị của mình và bằng
những phương thức thích hợp nhất để lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là tổng hợp những khả năng,
điều kiện chủ quan của tổ chức cơ sở Đảng được tạo nên từ những yếu tố nội
sinh, từ sự phấn đấu của tổ chức cơ sở Đảng để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng chính là khả năng, điều kiện của tổ
chức cơ sở Đảng trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo
nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn. Năng lực đó được phản ánh thơng
qua việc ra Nghị quyết, tổ chức thực hiện Nghị quyết, kiểm tra, giám sát và sơ,
tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của các tổ chức cơ sở Đảng.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội
dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng Nghị quyết, chỉ
thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng được tạo nên bởi nhiều yếu tố, là

tổng hợp của nhiều năng lực, bao gồm:
Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng: Đó là khả năng thực tế
được cụ thể hóa bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến
lược và sách lược của Đảng, đồng thời nó phải là sự định hướng phát triển cho
cả thời kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu, am hiểu để dự báo, tổng kết
thực tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương và xây dựng
giải pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực liên quan đến
đời sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
Năng lực xây dựng Nghị quyết của Đảng: Đó là những vấn đề được
nghiên cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị (có nhiều
loại và do nhiều cấp bộ Đảng khác nhau quyết nghị). Đặc trưng cơ bản của Nghị
quyết là biểu quyết tập thể, ý chí và trí tuệ tập thể, sự đúc kết sâu sắc từ kinh
nghiệm thực tiễn phong phú và thể hiện đầy đủ quyền dân chủ.


18
Năng lực ra Nghị quyết, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của
tổ chức cơ sở Đảng trong từng thời kỳ. Các tổ chức cơ sở Đảng có chức năng,
nhiệm vụ quan trọng là cụ thể hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước và chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên thành các nhiệm vụ chính trị
của đảng bộ trong từng thời kỳ. Để xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
của địa phương, đơn vị, trước hết, các tổ chức cơ sở Đảng phải có khả năng
nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về các chủ trương, đường lối, chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, đặc biệt là chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; đồng thời phải có năng lực tư
duy và khả năng dự báo, nắm chắc đặc điểm, tình hình, tiềm năng, thế mạnh,
những khó khăn, hạn chế của địa phương, đơn vị. Từ đó giúp cho cấp ủy đề ra
Nghị quyết sát đúng với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của nhân dân, biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước thành hiện thực sinh động trong đời sống.

Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, Nghị quyết, chỉ thị
của Đảng là khả năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị để từ đó
tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp nhất thực hiện thắng lợi những
mục tiêu đề ra. Năng lực này thể hiện ở những khả năng cơ bản sau:
Lãnh đạo công tác tư tưởng, làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu trong mỗi cán bộ, đảng viên và
quần chúng, tạo sự thông suốt về tư tưởng, quyết tâm, thống nhất về hành động
trong toàn đảng bộ và nhân dân trong xã.
Cụ thể hóa các chỉ thị, Nghị quyết, xây dựng và thực hiện các chương
trình hành động, kế hoạch cơng tác cụ thể có tính khả thi cao trong từng thời
gian nhất định.
Bố trí, sử dụng cán bộ, đảng viên, phân cơng cấp ủy viên và cán bộ phụ
trách từng mảng công việc, định rõ thời gian, biện pháp thực hiện.


19
Phát huy vai trò, sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ
chức kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt là lãnh đạo phát huy vai trị, hiệu lực của
bộ máy chính quyền và các đồn thể chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của đảng bộ.
Tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của đảng bộ
một cách tích cực và tự giác, tạo ra các phong trào hành động cách mạng của
quần chúng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn; giữ vững an ninh, quốc phịng; xây dựng hệ thống chính trị và đời sống
văn hóa ở cơ sở v.v...
Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm
nghiệm thực tiễn những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những ưu
điểm, nhược điểm, tồn tại, hạn chế; đồng thời phát hiện những biểu hiện tiêu

cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đó. Có thể
nói đây là một trong những vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm để làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là năng lực nắm bắt
tình hình, ra quyết định, xác định nhiệm vụ chính trị đúng đắn, sát thực, phù hợp
và năng lực tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng trong từng
thời kỳ nhất định.
1.2. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ và những yếu tố cấu thành
năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
1.2.1. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng
Theo cuốn sách Tập bài giảng xây dựng Đảng (2014), do TS Nguyễn
Xuân Phương chủ biên [43, tr.194-196] đã viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Hệ thống tổ
chức của Đảng gồm bốn cấp cơ bản (tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính


20
nhà nước), bao gồm: Cấp trung ương, cấp thành phố trực thuộc trung ương; cấp
quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh, cấp cơ sở.
Từ những đặc điểm từ quy mơ tổ chức và tính chất hoạt động tại các đơn
vị trên địa bàn, lĩnh vực sản xuất và cơng tác, tổ chức cơ sở Đảng có vị trí, vai
trị rất quan trọng để Đảng thực hiện được hai chức năng cơ bản là xây dựng nội
bộ và lãnh đạo cách mạng theo mục tiêu của Đảng đi đến thắng lợi.
Ngay từ đầu của phong trào công nhân quốc tế, khi xác định vị trí, vai trị
của các chi bộ đảng cơ sở, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: Phải biến mỗi
chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của hiệp hội cơng nhân, trong đó, lập trường
và lợi ích của giai cấp vơ sản được đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh
hưởng tư sản. V.I.Lênin viết: Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với
Trung ương đảng, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động,

tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy
phải thơng qua cơng tác mn hình mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn
luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng và luôn khẳng định: mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo
quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát
huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng. Chi bộ là nền móng của
Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt.
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, những bài học thành công cũng
như chưa thành công đều gắn liền với vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng.
Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở
mà hạt nhân là tổ chức cơ sở Đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ
chức cơ sở Đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng.


21
Vị trí, vai trị của chức cơ sở Đảng được khái quát và khẳng định ở những
nội dung sau:
- Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nồi giữa các cơ quan
lãnh đạo của Đảng với quần chúng nhân dân, tổ chức cơ sở Đảng có vị trí rất
quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng.
- Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào quần chúng và tổ chức cho quần
chúng thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đồng thời phản ánh những tâm tư,
nguyện vọng, lợi ích của quần chúng để Đảng và Nhà nước để ra chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn, đáp ứng lợi ích, nguyện
vọng chính đáng của nhân dân.
- Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp, sàng

lọc đảng viên; nơi đào tạo cán bộ, nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội.
- Tổ chức cơ sở Đảng là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng, nơi bảo đảm
tính tiên phong, tính trong sạch của Đảng; là nơi mà mọi hoạt động xây dựng nội
bộ Đảng được tiến hành; là trung tâm đoàn kết nội bộ Đảng và tập hợp đoàn kết
quần chúng nhân dân.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, thực tế cho thấy: Nơi nào có
tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nội bộ đồn kết thì nơi đó thực hiện
tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, kinh tế - xã hội phát triển đi
lên rõ rệt, tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, niềm tin
của dân đối với Đảng không ngừng được củng cố, mối quan hệ giữa Đảng với
quần chúng nhân dân ngày càng bền chặt. Ngược lại, nơi nào tổ chức cơ sở
Đảng yếu kém, mất đồn kết, đảng viên khơng gương mẫu và tiên phong thì
lịng tin của dân đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế mạnh của địa phương
không được khai thác, chủ trương, đường lối của Đảng thực hiện không đến nơi,
dân chủ cơ sở không được bảo đảm và quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.


22
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
* Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng:
Khi có chính quyền, Đảng là người thiết lập hệ thống chính trị, lãnh đạo
hệ thống chính trị đó, đồng thời là một bộ phận của hệ thống chính trị. Trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa dù được thành lập ở loại hình nào, chi bộ cơ sở hay
đảng bộ cơ sở đều có hai chức năng: chức năng hạt nhân chính trị ở cơ sở và
chức năng xây dựng nội bộ Đảng [43, tr.196].
* Chức năng hạt nhân chính trị ở cơ sở:
Với chức năng là hạt nhân chính trị, tổ chức cơ sở Đảng là nơi bảo đảm
tính chất lãnh đạo chính trị của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn
vị cơ sở. Tính chất lãnh đạo chính trị được biểu hiện ở các mặt sau:

- Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chỉ thị và nắm vững đặc
điểm của địa phương, đơn vị, tổ chức cơ sở đề ra mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ công tác, biện pháp thực hiện tại cơ sở; đồng thời nắm vững tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân phản ánh cho Đảng và Nhà nước để định
ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
- Định hướng xây dựng tổ chức và hoạt động của chính quyền, các đồn
thể, các tổ chức kinh tế - xã hội theo đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và lãnh đạo tổ chức thực hiện có
hiệu quả.
- Định hướng tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, uốn nắn những lệch lạc, ngăn
chặn những tiêu cực, khẳng định và ủng hộ nhân tố mới trong hoạt động của các
tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức quần chúng tại cơ sở; phát động
và lãnh đạo các phong trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân dân [43,
tr.196-197].


23
* Chức năng xây dựng nội bộ Đảng
Chức năng xây dựng nội bộ Đảng được biểu hiện ở các mặt sau:
- Ln chăm lo, củng cố, kiện tồn hệ thống tổ chức, xây dựng đội ngũ
cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, kết nạp đảng viên mới.
- Thực hiện tốt chế độ sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật và sự đồn kết nhất trí trong nội bộ đảng.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, đường lối, Điều lệ Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên và cấp mình.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng;

tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nghị quyết của cấp trên.
- Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; thường xuyên tự phê
bình và phê bình; giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, giữa tổ chức đảng
với chính quyền, giữa tổ chức đảng, chính quyền với nhân dân.
- Tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và
cấp mình; tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên [43, tr.197-198].
* Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể nhiệm vụ của từng loại hình chi
bộ. Đối với chi bộ cơ quan, nhiệm vụ cụ thể là: “Làm sao cho toàn thể nhân viên
đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ, hết lịng hết
sức phục vụ nhân dân… vì nhân dân, vì Tổ quốc mà đấu tranh, đều thi đua làm
đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng, của Chính phủ” [35, tr.453-454].
Đối với chi bộ ở nơng thơn là: “Tăng cường đồn kết nơng thơn và làm cho tồn
thể xã viên, tồn thể nơng dân phấn khởi, hăng hái sản xuất, thực hành tiết kiệm,
phát triển và củng cố hợp tác xã… phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh
lệnh” [36, tr.222].


×