Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở đảng bộ quận tân phú, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.13 KB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ VIẾT TUẤN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN
CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN PHÚ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Thế Định

Nghệ An, tháng 7/2017


2

LỜI CẢM ƠN

Được sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của Quận ủy, Ban Dân vận quận
Tân Phú, đặc biệt là Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Thế Định - Trưởng Khoa Giáo
dục Chính trị, Trường Đại học Vinh, học viên đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Chính trị học với đề tài Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
Đảng bộ quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
Trong q trình tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, đánh giá để thực hiện


luận văn, bản thân đã nỗ lực, cố gắng hết mình, song chắc chắn sẽ khơng tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Học viên xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, những ý kiến đóng
góp q báu của q thầy cơ, của các đồng chí lãnh đạo, bạn bè, đồng nghiệp và
những người làm công tác dân vận.

Tân Phú, ngày 22 tháng 5 năm 2017

Hồ Viết Tuấn


3

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA

1

LỜI CÁM ƠN

2

MỤC LỤC

3

DANH MỤC CÁC BẢNG

4


A- MỞ ĐẦU

5

B- NỘI DUNG

11

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
1.1. Khái niệm dân vận và cơng tác dân vận của Đảng

11
11

1.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác dân vận của Đảng

24

1.3. Sự cần thiết phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

33

công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ

40

QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh


40

2.2. Những kết quả và hạn chế về công tác dân vận của Đảng bộ quận Tân

47

Phú, thành phố Hồ Chí Minh
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

74

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN
3.1. Quan điểm về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ quận

74

Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh về công tác dân vận
3.2. Giải pháp tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ quận Tân

79

Phú, thành phố Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trong giai đoạn hiện nay
C- KẾT LUẬN

100

D- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


103


4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên Bảng

Trang

Bảng 2.1. Dân số quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016

42

Bảng 2.2. Tình hình đảng viên Đảng bộ quận giai đoạn 2011 – 2016

47


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân, tạo đồng thuận xã hội,
phát huy sức mạnh của Nhân dân là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta. Trong
thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định
để tăng cường công tác dân vận nhằm giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng với Nhân dân.

Xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với
tồn bộ sự nghiệp cách mạng, trong từng giai đoạn cụ thể, Đảng đã có nhiều chủ
trương, quyết sách lớn về cơng tác dân vận, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân
dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về
công tác dân vận. Cụ thể, ngày 27/3/1990, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về “Đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân”; ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30CT/TW về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đã ban hành các nghị quyết:
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về “Phát huy sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về “Công tác dân tộc”, Nghị quyết số
25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về “Cơng tác tơn giáo”; Bộ chính trị (Khóa X) đã ra
Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 về việc ban hành “Quy chế công
tác dân vận của hệ thống chính trị”. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác


6

dân vận trong tình hình mới”… Những chỉ thị, nghị quyết nêu trên đã thể hiện
Đảng ta hết sức coi trọng công tác dân vận. Thông qua công tác dân vận, Đảng
đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên động lực to lớn
đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (Khóa XI) về Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác dân vận trong tình hình mới nhận định “Công tác dân vận thời gian qua
đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phịng, an
ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, Nghị quyết cũng đã chỉ rõ những hạn chế,
yếu kém của công tác dân vận trong thời gian qua “Chưa đánh giá và dự báo
chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân... để có chủ trương, chính sách phù hợp.
Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Việc thể
chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời,
nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Nhiều
bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân ở nhiều nơi bị vi
phạm, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Công tác kiểm
tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cơng tác
dân vận chưa được quan tâm đúng mức”.
Đã có nhiều cơng trình khoa học, đề tài nghiên cứu về công tác dân vận
từ khi Đảng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay. Tiêu biểu cho các cơng
trình nghiên cứu đó là : Nguyễn Duy Việt (2013), Những nội dung, quan điểm
và giải pháp cơ bản về tăng cường, đổi mới cơng tác dân vận, Nxb Văn hóa –
Thơng tin, Hà Nội; Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(2013), Đề cương chuyên đề bồi dưỡng công tác dân vận (Dành cho Trưởng


7

Ban, Phó Trưởng Ban Dân vận các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương và
tương đương); TS. Vũ Ngọc Am – Vũ Thị Thùy Linh (2013), Tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội; Nguyễn Thế Trung (2015), Một số vấn đề
về cơng tác dân vận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Luận văn “Sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
hiện nay” của Nguyễn Quốc Việt (2015); Luận văn “Công tác dân vận trong xây

dựng nông thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay” của Trần Thị
Hiên (2015); Luận văn “Nâng cao chất lượng công tác dân vận của đảng bộ
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” của Cù Thị Mỹ Hiệp
(2016); Luận văn “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ thành phố
Vinh trong giai đoạn hiện nay” của Phan Thanh Hùng (2016); Luận văn “Công
tác dân vận của đảng bộ tỉnh Bình Phước trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số” của Lý Trọng Nhân (2016) ... Những cơng trình khoa học trên đã cung cấp
những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng về công tác dân vận trong quá trình
lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong những năm qua.
Công tác dân vận quận Tân Phú trong những năm qua có những chuyển
biến tích cực, hệ thống chính trị từ quận đến cơ sở có nhiều đổi mới theo hướng
“gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân”. Sự lãnh chỉ đạo của cấp uỷ Đảng
về công tác dân vận ngày càng sâu sát, hiệu quả tuyên truyền, vận động được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhất là trong các cuộc vận động và
phong trào cách mạng địa phương; các cấp các ngành nâng cao vai trò quản lý
điều hành và vận động nhân thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Các nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Quận uỷ; các chỉ thị của Uỷ ban nhân
dân quận được cụ thể hoá thực hiện; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể các cấp có bước chuyển biến đổi mới về phương thức hoạt động, tập


8

trung hướng về cơ sở, gắn nghĩa vụ đi đôi với quyền và lợi ích kinh tế cho các
tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được công tác dân vận của quận Tân Phú
vẫn cần nhiều quan tâm bởi những hạn chế, yếu kém như phương thức lãnh đạo
công tác dân vận của các cấp uỷ Đảng chưa đổi mới kịp thời với tình hình quần
chúng và cơng tác vận động quần chúng trong giai đoạn hiện nay; chưa phát huy

hết sức mạnh của hệ thống chính trị; một số vấn đề bức xúc của Nhân dân tại
các địa phương, cơ sở chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa kịp thời, chưa
thấu tình đạt lý; việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn chế; công
tác nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân chưa kịp thời;
công tác tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết còn nhiều hạn chế; tình trạng đơn
khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp kéo dài của người dân trên địa bàn quận còn xảy
ra.
Xuất phát từ những thực trạng nêu trên, với mong muốn được đóng góp
phần kiến thức của mình vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao
hiệu quả công tác dân vận trên địa bàn quận, vì vậy tơi lựa chọn đề tài “Nâng
cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ quận Tân Phú, thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” để làm Luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác dân vận của Đảng bộ quận Tân Phú,
thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về công tác dân vận của Đảng trong tình hình
mới.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân
vận trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.


9

- Đề xuất giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
bộ quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận

trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Mẫu nghiên cứu được chọn tại Đảng bộ các phường trên địa bàn quận
Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng từ năm 2010 (năm đầu thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận Tân Phú lần thứ X) đến nay. Những nhóm giải
pháp áp dụng trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp; thống kê số liệu;
phương pháp đối chiếu so sánh.
6. Những đóng góp của đề tài


10

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơng tác dân vận và
vai trị của công tác dân vận của của Đảng; làm rõ thực trạng công tác dân vận
của Đảng bộ quận Tân Phú trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ quận.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 7 tiết.



11

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
1.1. Khái niệm dân vận và công tác dân vận của Đảng
1.1.1. Khái niệm dân vận
Trong bài báo “Dân vận” viết ngày 15/10/1949 đăng trên báo “Sự thật”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân,
để thực hành những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và Đồn thể
đã giao cho” [38, tr.698].
Theo định nghĩa trên, đối tượng của công tác dân vận là Nhân dân, mục
tiêu của công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng. Công tác dân vận là
cơng việc của tồn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành
tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội,
thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng.
Dân vận được hình dung khơng chỉ ở con người và tổ chức mà được hình
dung là một hoạt động, bao gồm cả tuyên truyền, giảng giải, thuyết phục, vừa là
phong trào xã hội, từ thi đua u nước, vận động đồn kết, vừa là cơng tác thực tế
hàng ngày. Đó là cơng tác để xây dựng xã hội, tổ chức cuộc sống cho các cộng
đồng dân cư, tham gia xây dựng chính thể, thực hành dân chủ, chống quan liêu
tham nhũng, chống tham ơ lãng phí.
Mục đích của dân vận là làm cho Nhân dân trưởng thành cả ý thức dân
chủ và năng lực làm chủ, Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền nhà
nước và xây dựng các tổ chức, đồn thể của mình. Qua dân vận mà Đảng, Nhà



12

nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể cũng trưởng thành, do khắc phục được những
yếu kém, lạc hậu, bất cập và phát huy được những ưu điểm, mặt mạnh, đảm bảo
cho các tổ chức thể hiện đúng tính chất dân chủ, thực sự là tiếng nói và ý chí của
dân, là thực hiện đúng sự trao truyền, ủy quyền của người dân, thực hiện ý chí,
quyền lực nhân dân, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Tùy thuộc trạng thái,
tinh chất và kết quả dân vận như thế nào... mà niềm tin và hành động của nhân
dân, dựa trên các nền tảng khoa học, đạo đức và nhân văn sẽ như thế ấy.
Dân vận cho thấy Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể, tất
cả hệ thống chính trị có ảnh hưởng, tác động đến dân như thế nào và uy tín đối
với nhân dân, dân tộc và xã hội sẽ ra sao. Nói cách khác, qua thực trạng và kết
quả dân vận mà đánh giá được tác dụng và ảnh hưởng của Đảng, Nhà nước và
các tổ chức trong cơng tác vận động Nhân dân; vì lợi ích và quyền làm chủ của
Nhân dân.
Tầm quan trọng đặc biệt của “Dân vận” địi hỏi hệ thống chính trị, với
Nhà nước là rường cột phải thực sự là hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân.
Hệ thống chính trị hiện nay đang ra sức đổi mới để khắc phục những yếu kém và
phát huy dân chủ làm cho hệ thống chính trị thực sự là của dân để phục vụ dân.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực của đời sống, các thiết chế và thể chế,
trong đó có hệ thống chính trị để đáp ứng u cầu phát triển bền vững, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và pháp chế xã hội.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, đoàn kết,
bền bỉ và kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy gian nan,
quyết liệt và hào hùng, đã hun đúc nên sức mạnh và truyền thống yêu nước; đó
là sức mạnh của lịng dân, của đại đồn kết tồn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Vì vậy, nghiên cứu, vận dụng
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cơng tác quần chúng của chính



13

quyền trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc cho việc thực hành công tác dân vận.
1.1.2. Khái niệm công tác dân vận của Đảng
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, Đảng và chính quyền của giai cấp vơ sản
cần phải tiến hành cơng tác dân vận vì: quần chúng nhân dân có khả năng và lực
lượng to lớn, mà cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải
tranh thủ; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng chính bản thân quần
chúng cũng có những nhận thức cần phải được tuyên truyền, giáo dục để hiểu rõ
mục đích, lý tưởng và trách nhiệm của mình; quần chúng đơng đảo là những
người hăng hái nhiệt tình cách mạng, nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài,
gian khổ, khó khăn và có những lúc tạm thời thất bại, khiến quần chúng nhiều
hoài nghi, thất vọng. Vì vậy, cần phải thường xun tiến hành cơng tác vận động
quần chúng vì lợi ích thực sự của quần chúng.
V.I.Lênin cho rằng, Đảng lãnh đạo và chính quyền cần giáo dục, tuyên
truyền để thu hút quần chúng một cách tồn diện những tầng lớp rộng rãi nhất
dù trình độ của họ như thế nào để họ tham gia vào tất cả các công việc hoạt động
xã hội, tự giác và cách mạng. Lênin còn đề cập đến vấn đề giáo dục, tuyên
truyền đối với quần chúng lao động quốc tế để cùng nhau đấu tranh thực hiện lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, “cơng tác dân vận” là cơng việc của tồn bộ hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết
nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh vào
cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường
lối cách mạng của Đảng. Công tác dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng.
Tồn Đảng phải làm cơng tác dân vận, phụ trách công tác dân vận và chịu trách
nhiệm cao nhất đối với cơng tác này bởi Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm



14

quyền. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, cơng tác dân vận không phải là nhiệm vụ
của riêng của một cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ chức nào. Nghĩa là, mọi cấp
chính quyền, đồn thể, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sỹ
lực lượng vũ trang đều phải có trách nhiệm, thường xun làm cơng tác dân vận.
Công tác dân vận diễn ra trong đời sống xã hội, trước hết trong đời sống
chính trị của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hoạt
động đó phải tập hợp, thu hút, lơi cuốn và thúc đẩy đơng đảo tồn dân tham gia.
Quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động ấy, không phải ở tư thế thụ động,
bị động, càng không phải do áp lực, buộc phải tham gia như thực hiện một quyết
định hành chính nào. Chính quần chúng nhân dân tham gia một cách chủ động,
tự giác, tích cực vào hoạt động ấy với tư tư cách chủ thể, tư cách người chủ, trên
cơ sở dân giác ngộ, dân hiểu biết và dân tin tưởng vào đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước. Trong việc xác định vị thế và vai trị của dân tham gia
vào cơng tác dân vận, cần phải quán triệt quan điểm của Đảng từ vấn đề con
người mà tập hợp đông đảo những con người trong xã hội, đó là Nhân dân.
Cơng tác dân vận của Đảng rất quan trọng. Trong điều kiện và bối cảnh
hiện nay, nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của dân, trình độ của dân đã khác xa so
với trước. Nhiều vấn đề mới, phức tạp luôn nảy sinh chưa hề có trong các giai
đoạn lịch sử trước đây. Giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với dân lúc này địi hỏi
nhận thức mới, năng lực trí tuệ mới, phương pháp và phong cách mới mà nổi bật
là khoa học - dân chủ - nhân văn. Đảng không chỉ lãnh đạo sự nghiệp đổi mới mà
toàn Đảng phải coi đổi mới là trường học thực tiễn vĩ đại, toàn Đảng phải học tập
trong trường học ấy với người thầy vĩ đại của mình là cuộc sống, là dân tộc và
Nhân dân.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam ln coi cơng tác
dân vận có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là

điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường


15

mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Công tác dân vận là trách
nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên,
cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến
sĩ trong lực lượng vũ trang.
Mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ máu thịt, quan hệ thuộc
bản chất. Dân vận được xem là công việc cốt tử của Đảng. Do đó, ngay từ khi
thành lập Đảng và trong suốt q trình cách mạng, Đảng ta ln coi trọng, quan
tâm công tác này. Điều này được thể hiện rõ qua việc Đảng đã ban hành nhiều
quyết sách về công tác dân vận ngày càng phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, thống
nhất Tổ quốc, nội dung cốt lõi của công tác dân vận đã được Đảng ta vận dụng
trung thành và sáng tạo, đưa cách mạng nước ta đến ngày thắng lợi.
Công tác dân vận do Đảng trực tiếp lãnh đạo là nhiệm vụ, trách nhiệm tổ
chức thực hiện của Nhà nước, chính quyền các cấp; Mặt trận Tổ quốc, đồn thể
các cấp làm nịng cốt, tham mưu. Cơng tác dân vận phải thu hút và lôi cuốn sự
tham gia, cộng đồng trách nhiệm, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác các nguồn lực,
phối hợp các nguồn lực và sáng kiến hoạt động của tất cả mọi thành viên của hệ
thống chính trị, của cộng đồng xã hội, dân tộc và tôn giáo, kể cả sự tham gia của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi. Cơng tác dân vận chính là toàn bộ
hoạt động của Đảng Cộng sản nhằm vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn
mọi tầng lớp nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Thông
qua công tác dân vận mà tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân
dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối liên hệ
đó được thể hiện bằng đường lối chính sách của Đảng và việc thực hiện đường

lối chính sách đó thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
thơng qua các tổ chức đồn thể, tổ chức xã hội và tổ chức Đảng. Mối liên hệ


16

giữa Đảng và Nhân dân là một tất yếu khách quan để giành thắng lợi của cách
mạng.
Công tác dân vận khơng chỉ là trực tiếp vận động mà cịn có những hoạt
động không trực tiếp vận động: Dân vận chẳng những phải có người làm tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, mà còn tập hợp, tổ chức phong trào thi đua trong Nhân dân.
Điều này đã thường làm từ trước đến nay và rất cần thiết, phải thường xuyên coi
trọng, nhưng chưa đủ. Dân vận còn là những hoạt động của tổ chức trong hệ
thống chính trị và hoạt động của cá nhân ảnh hưởng làm thay đổi nhận thức,
thay đổi hành động của người dân theo chiều hướng tiến bộ, cách mạng. Như
vậy dân vận không chỉ có những hoạt động trực tiếp vận động nhân dân mà cịn
có những hoạt động gián tiếp như: xây dựng đường lối, quan điểm, luật pháp, cơ
chế chính sách; sự trong sạch của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể; sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... Những hoạt động
không trực tiếp vận động này lại là yếu tố cơ bản, giải pháp cơ bản của công tác
dân vận. Vấn đề đặt ra ở đây là nghiên cứu và xây dựng quan điểm, giải pháp
cho công tác dân vận phải coi trọng việc nghiên cứu tìm ra cả trong các giải
pháp trực tiếp và giải pháp gián tiếp về xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh; đường lối, chủ trương, cơ chế chính sách thực sự vì dân, do dân và
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức gương mẫu cho nhân
dân noi theo để làm cơ sở tuyên truyền, vận động Nhân dân tin Đảng, theo Đảng
làm cách mạng.
Công tác dân vận phải được phân công rõ trách nhiệm cho các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Khi bàn tới công tác dân vận phải bàn tới đối tượng dân

vận là dân và ai làm dân vận, phân công trách nhiệm như thế nào. Nghị quyết số
25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã chỉ rõ:


17

“Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ,
đảng viên, cơng chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán
bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang. Trong đó Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức
thực hiện, Mặt trận, các đồn thể làm tham mưu, nịng cốt” [23, tr.2]. Đảng lãnh
đạo chính quyền tổ chức thực hiện tồn bộ cơng tác dân vận; Mặt trận, đồn thể
làm tham mưu nòng cốt là quan điểm mới, là bước phát triển quan trọng về lý
luận công tác dân vận của Đảng ta.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln xác định cơng tác dân
vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất
nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ
trương về cơng tác dân vận. Trên cơ sở đó, cơng tác dân vận đã đạt được những
kết quả quan trọng. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới; đã có nhiều chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Hệ
thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội được kiện toàn,
củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trị nịng cốt trong xây dựng
khối đại đồn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đã có nhiều
hình thức hoạt động vận động nhân dân, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động người

Việt Nam ở nước ngồi. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên,
hội viên được chăm lo, bảo vệ; cơng tác tập hợp, phát triển đồn viên, hội viên
được chú trọng; công tác giáo dục thế hệ trẻ được quan tâm. Cơng tác dân vận
thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại


18

đồn kết tồn dân tộc, thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
1.1.3. Nội dung công tác dân vận của Đảng
Xác định rõ tầm quan trọng và đòi hỏi cấp thiết của công tác dân vận,
đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn đặt ra, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) đã
ban hành Nghị quyết 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình mới”, trong đó khẳng định “Cơng tác
dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân” [23, tr.21]. Nghị quyết 25-NQ/TW đã xác định 5 quan điểm
về công tác dân vận trong giai đoạn mới đó là:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân; Nhân dân là chủ, Nhân dân làm chủ.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm
chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi ích; quyền
lợi phải đi đơi với nghĩa vụ cơng dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân;
huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân
thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Ba là, phương thức lãnh đạo cơng tác dân vận của Đảng phải gắn liền
với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan

điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, cơng chức,
viên chức phải gương mẫu để Nhân dân tin tưởng, noi theo.


19

Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân
dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền
tổ chức thực hiện, Mặt trận, đồn thể làm tham mưu và nịng cốt.
Năm là, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” thành quy chế, quy định để các tổ chức trong
hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ
lực lượng vũ trang thực hiện cơng tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân
phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
Về chủ thể lãnh đạo công tác dân vận, Nghị quyết 25-NQ/TW xác định
là tổ chức Đảng. Với vai trò người lãnh đạo, Đảng đề ra chủ trương, nghị quyết,
biện pháp bảo đảm cho công tác dân vận đạt được mục tiêu đặt ra. Chủ trương,
nghị quyết lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo các yêu cầu : phù hợp với quy luật
phát triển xã hội Xã hội chủ nghĩa; đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về công tác dân vận; phù hợp và sát thực với điều kiện của
từng địa phương, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của nhân dân địa phương
về truyền thống cách mạng, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng bộ và Nhân
dân địa phương.
Đối tượng lãnh đạo là các cấp uỷ Đảng, tổ chức Đảng trực thuộc trên
từng địa bàn; là chính quyền các cấp; là Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị - xã hội; là các tổ chức và lực lượng xã hội trên địa bàn; là toàn thể đội ngũ
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đang ngày đêm lao động, sản xuất và
đảm bảo quốc phòng an ninh.

Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng là xây dựng chủ trương, nghị quyết và tổ
chức thực hiện để lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong từng địa bàn, cũng
như các tầng lớp nhân dân thực hiện. Sau mỗi một chủ trương, nghị quyết lãnh
đạo đã ban hành, cần kiểm tra việc tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh.


20

Mục tiêu lãnh đạo là đảm bảo vận động quần chúng nhân dân thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa
phương nhằm củng cố lịng tin của Nhân dân đối với Đảng, chế độ xã hội chủ
nghĩa, tham gia xây dựng địa phương vững mạnh và tham gia có hiệu quả vào
các phong trào, các cuộc vận động do Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội phát động.
Nội dung lãnh đạo thực hiện chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công
tác dân vận theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cụ thể :
- Đảng lãnh đạo chính quyền tổ chức thực hiện công tác dân vận theo chủ
trương, phương hướng, nhiệm vụ đã xác định.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội, các lực lượng xã hội địa phương tổ chức thực hiện các hoạt động dân vận
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức mình.
- Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ máy và cán bộ chuyên trách làm
công tác dân vận của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị
xã hội.
- Đảng lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực của Đảng làm
tốt các hoạt động dân vận. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho
những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để họ tham gia
tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tạo sự lan toả, sức sống của công tác dân vận trong tình hình mới.
Phương thức lãnh đạo cơng tác dân vận thông qua ban hành chủ trương,

Nghị quyết về cơng tác dân vận :
- Đảng lãnh đạo chính quyền cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của Đảng
về công tác dân vận thành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, từ đó xây dựng


21

thành chương trình hành động, kế hoạch của các ngành với những mục tiêu, chỉ
tiêu cụ thể mang tính pháp lý để thực hiện.
- Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác tư tưởng. Công tác tư
tưởng vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, vừa là phương thức
lãnh đạo cơng tác dân vận nói riêng. Làm tốt công tác này sẽ nâng cao nhận thức
trong Đảng và trong Nhân dân.
- Đảng lãnh đạo công tác dân vận thông qua công tác tổ chức và cán bộ.
Đây là vấn đề quan trọng, có tính quyết định và đảm bảo cho Nghị quyết của
Đảng đạt kết quả tốt. Thường xuyên chăm lo đổi mới công tác cán bộ, từ cơng
tác quy hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách về cơng tác dân vận có nhiệt huyết, u nghề và có kỹ năng cơng
tác tốt.
- Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác kiểm tra, giám sát. Thơng
qua đó, thấy rõ những ưu, khuyết điểm trong quá trình chuẩn bị và ra nghị quyết,
tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp uỷ Đảng để phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm, hạn chế.
- Đảng lãnh đạo cơng tác dân vận bằng việc phát huy vai trị tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng tích cực.
- Đảng lãnh đạo cơng tác dân vận bằng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội và lực lượng xã hội, tập
hợp, đoàn kết và tổ chức nhân dân thực hiện sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.
1.1.4. Phương pháp công tác dân vận của Đảng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương pháp cơng tác dân vận có ba việc

quan trọng để thực hiện, đến nay vẫn cịn ngun giá trị, đó là: tun truyền cho
dân, gương mẫu trước dân và quan tâm giải quyết lợi ích của dân.


22

Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân
tin, dân làm theo. Trong quan niệm của mình về dân vận, Hồ Chí Minh yêu cầu
người làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu được việc
Đảng, đoàn thể vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải
hăng say thực hiện. Mục đích của những người cộng sản chân chính vận động
nhân dân làm cách mạng là nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân. Song, để nhân
dân có thể một lịng đi theo Đảng, khi mà những lợi ích đối với họ khơng những
chưa có ngay trước mắt mà cịn phải đương đầu với gian khổ, hy sinh thì cần
phải tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu, thấy được lợi ích lâu dài của sự
hy sinh, gian khổ khi làm cách mạng mà dấn thân làm theo. Hiểu và thấy được
lợi ích chính đáng mà họ được thụ hưởng khi cách mạng thành cơng thì chắc
chắn họ sẽ một lịng theo Đảng, xả thân vì sự nghiệp của họ, do họ và vì họ.
Thực tế cách mạng nước ta hơn 87 năm dưới ngọn cờ của Đảng đã minh chứng,
một khi đường lối đúng, dân vận khéo, cán bộ tận tụy, trong sáng, vì dân vì nước
nêu gương thì Nhân dân một lòng một dạ theo Đảng, bảo vệ Đảng.
Thứ hai là gương mẫu trước dân, vì theo Người “một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. Khi nói về Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định : Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai
cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động
được dân, nhân dân, cả dân tộc, Đảng phải “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”;
Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời
đại; Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí; được Nhân dân thừa nhận.
Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung và phương pháp tun
truyền, vận động thì địi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ. Cán

bộ, đảng viên phải làm gương trong sáng, khơng vun vén cho riêng mình, coi lợi
ích cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải
xứng đáng tiên phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về


23

trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên,
cán bộ là nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải
gắn liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Theo Người, muốn làm cách mạng thành cơng thì phải làm tốt công tác
dân vận. Người coi dân là chủ xã hội, là gốc của nước, mọi quyền hành và lực
lượng đều phải ở nơi dân. Người luôn luôn tin ở nhân dân và đánh giá đúng vai
trò của Nhân dân. Người khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta
là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”
[43, tr.197], “Kinh nghiệm trong nước và các nước cho chúng ta biết: có lực lượng
dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Khơng có, thì việc gì làm
cũng khơng xong” [38, tr.295].
Trong bài báo “Dân vận” (đăng trên báo Sự thật ngày 15 tháng 10 năm
1949) thể hiện rõ nét sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
vận động nhân dân trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh nêu lên những quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung và mục
tiêu công tác vận động nhân dân rất sâu sắc, có tính chỉ đạo chiến lược và có thể
xem đây là một cương lĩnh trong cơng tác dân vận. Trước hết, Người khẳng định
vai trò hết sức to lớn, quan trọng của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta. Người viết: “Quyền hành và lực lượng đều nơi dân” [38, tr.698]. Sau đó,
Người chỉ rõ thế nào là công tác dân vận và tầm quan trọng của công tác này.

Người viết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng
để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân...” [38, tr.698] là làm cho
dân được làm chủ, được hưởng quyền dân chủ. Người còn khẳng định: “Lực lượng


24

của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân
vận khéo thì việc gì cũng thành cơng” [38, tr.700].
1.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả cơng tác dân vận của Đảng
1.2.1. Việc ban hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng
Mức độ hiểu biết của Nhân dân và lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
luật pháp của Nhà nước; chất lượng, hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, phổ biến
và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong các tầng lớp Nhân dân thống nhất giữa hiểu biết với niềm tin và hành động
của người dân.
Để Nhân dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa
vụ của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ của địa
phương, đơn vị thì những quyết sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương
phải thuận với lịng dân, ln đứng về phía người dân; mọi việc lớn, nhỏ, trước
mắt cũng như lâu dài mà Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương,
cán bộ, đảng viên, công chức làm việc đều phải vì dân và dân cảm nhận, thụ
hưởng trực tiếp lợi ích; thấy rõ Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền thực sự
là của mình, vì mình… Như thế, người dân sẽ bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ
chế độ, hăng hái thực hiện mọi cuộc vận động, mọi phong trào thi đua yêu nước
vừa vì sự nghiệp chung, vừa đem lại lợi ích thiết thân cho mình.
Muốn vậy, dân vận và cơng tác dân vận phải tồn diện cả xây dựng
Đảng, Nhà nước vững mạnh. Có đường lối, cơ chế chính sách thực sự vì dân, do
dân, khắc phục triệt để tính hình thức, lãng phí, tính hành chính quan liêu, xa

dân. Muốn vì dân thì phải hiểu dân, tin dân, tinh thần đồn kết, kiên trì thuyết
phục và nhất là nêu cao đức hy sinh, tính tiền phong, sự gương mẫu của người
lãnh đạo, của cán bộ, đảng viên để Nhân dân noi theo.


25

Năng lực tổ chức thực hành dân vận của các cấp ủy Đảng, chính quyền
và phong cách cơng tác dân vận của Mặt trận, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở
luôn cần đổi mới, phù hợp với thực tiễn. Đây là chủ thể lãnh đạo, quản lý và tổ
chức thực hiện cơng tác dân vận. Vì lẽ đó, địi hỏi năng lực chỉ đạo, quản lý và
ban hành các chủ trương, Nghị quyết của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp
ủy, cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đồn thể giữ vai trị cực kỳ quan trọng.
Phải khơng ngừng nâng cao trình độ nhận thức, tư duy tầm nhìn và hành động
của cán bộ dân vận với tinh thần trách nhiệm, hiệu quả, cụ thể, thiết thực. Trong
q trình lãnh đạo cơng tác dân vận, các tổ chức trong hệ thống chính trị phải
thống nhất xây dựng quy chế, xem đây là cơ sở để phối hợp thực hiện; nhanh
chóng phát hiện những yếu kém, bất cập, lạc hậu để điều chỉnh, sửa chữa kịp
thời. Mức độ được dân tín nhiệm hay mất lịng dân, dân đồng tình hay phản đối,
dân tham gia hay thờ ơ với hoạt động của các tổ chức đoàn thể mà họ là đoàn
viên, hội viên đều liên quan đến hiệu quả công tác dân vận. Thực chất hiệu quả
công tác dân vận tốt hay chưa tốt, mức độ dân tham gia ít hay nhiều cần được
nhìn nhận, đánh giá khách quan và đúng với thực tế.
1.2.2. Hoạt động của các cơ quan nhà nước
Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với an sinh xã hội, xóa đói giảm
nghèo; xây dựng cơ chế, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo ra môi trường cạnh
tranh lành mạnh, thuận lợi cho Nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
công ăn việc làm, nâng cao đời sống mọi mặt, sự hài lòng của Nhân dân.
Cơ chế kinh tế thị trường một mặt tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ
kinh tế - xã hội phát triển, song mặt trái của nó cũng thúc đẩy tạo ra sự phân hóa

giàu nghèo và tiêu cực xã hội gia tăng. Đảng ta đã xác định mục tiêu phát triển
xã hội Xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Vì vậy, bên cạnh việc tập trung tháo gỡ về cơ chế, chính sách,
từng bước hồn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo


×