Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Lịch sử báo quốc ngữ ở Sài Gòn: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.02 MB, 180 trang )

THƠNG LOẠI
KHĨA TRÌNH
- Tờ báo của
nhiều cái đầu tiên




Thơng Loại Khóa Trình số đầu tiên năm 1888.




T

hơng Loại Khóa Trình cịn có tên Miscellanées là tờ nguyệt
san văn hóa do Trương Vĩnh Ký sáng lập và làm chủ, ra
đời vào tháng 5-1888 (từ số 3 ghi tháng 7-1888, số 4 ghi tháng
8 và số 5 ghi tháng 9-1888 mà suy ra). Báo in khổ 16x24, ba
số đầu có 12 trang, số 7 có 20 trang và các số cịn lại 16 trang.
Tịa soạn báo có lẽ đặt tại nhà ông Ký ở Chợ Quán (nay là số
520 Trần Hưng Đạo) có lẽ ngó ra đường Trần Bình Trọng hiện
nay vì đường Trần Hưng Đạo thế kỷ 20 mới có. Báo ra được
18 số (một năm rưỡi) thì tự đình bản. Đây là tờ nguyệt san có
nhiều cái “đầu tiên”.
1. Là tờ báo tư nhân đầu tiên.
2. Là chuyên san khảo cứu văn hóa đầu tiên.
3. Là tờ báo dành riêng cho học sinh đầu tiên.
4. Tờ báo tự đình bản đầu tiên.
5. Tờ báo người Việt làm chủ đầu tiên.
Chưa rõ quá trình chuẩn bị ra đời của Thơng Loại Khóa


Trình như thế nào, nhưng 10 năm cuối đời, ông Trương Vĩnh
Ký đã “chánh thức trở thành chủ báo” khi cho ra đời tờ báo
này. “Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có cái chi
vui pha vào một hai khi, nó mới thú. Vậy ta tính làm ra một
tháng đơi ba kì, một tập mỏng mỏng, nói chuyện sang đàng,
chuyện tam hồng cuốc chí, pha phách lộn lạo, xào bần để cho

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

95




học trò coi chơi cho vui. Mà chẳng phải chơi khơng vơ ích đâu:
cũng là những chuyện con người ta ở đời nên biết cả... Phép
học là trước học lễ sau học văn; được cả hai ấy mới ra con nhà
gia giáo, biết phép tắc lễ nghi, cang thường, luân lý, biết chữ
nghĩa văn chương, kinh sử truyện tích cổ kim...” (Bảo - số 1
năm 1888). Với lời nói đầu này, Trương Vĩnh Ký xác định tiêu
chí và đối tượng độc giả của báo. Thế nhưng, ông Ký không
thể đi đến cùng được cái mục tiêu cao đẹp ấy mà phải đóng
cửa báo vào tháng 10-1889 (số 18) vì “hết tiền in báo” (Cho
Hay - số 6 tháng 10-1889). Ông Ký viết “Năm ngối năm nay
sách Thơng Loại Khóa Trình có người mua hết thảy chừng ba
bốn trăm; nên cịn đọng lại nhiều lắm; không biết lấy đâu mà
chịu tiền in. Xin văn nhơn học sĩ quang cố; tuy hữu hằng tâm
mà vơ hữu hằng sản thì biết làm làm sao được?”.
Năm 1930 và 1931, ông Trương Vĩnh Tống, con trai ông
Trương Vĩnh Ký, đã “cho in lại” bộ báo này qua nhà xuất bản

Đức Lưu Phương. “Tôi sở dĩ in lại đây, là khơng phải có ý gì
vụ danh hay vụ lợi; vì tơi thấy một bộ sách có bổ ích cho mọi
người, mà từ ấy nhẫn nay đã hơn 40 năm, tưởng khơng cịn ai
giữ đặng ngun bổn. Vã (vả) lại tơi tiếc cái cơng trình trước
thuật của tiên nghiêm tơi đã hết lịng vì phong hóa xã hội, lủ
(lũ) trẻ đồn em, nên tơi khơng nỡ để cho cơng trình ấy ngày
sau mai một”. Coi kỹ lại thì ơng Tống khơng “in lại tồn bộ”
mà chỉ in thêm bìa và “mấy lời nói đầu” rồi đóng thành bộ
những tờ báo cũ của ơng Ký cịn tồn. Có lẽ cũng nhờ đóng bộ
(mỗi bộ 6 tờ) như vậy mà Thơng Loại Khóa Trình cịn lưu lại
được tới hơm nay!
Năm 1888, sau 6 năm chữ quốc ngữ bị chánh quyền thực

96

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19




dân “buộc người Việt” phải sử dụng trong toàn cõi Nam Kỳ
(theo nghị định ngày 1-1-1882 của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre
de Viler) và hơn 20 năm thứ chữ này được công khai xuất hiện
ở vùng đất Lục tỉnh thuộc Pháp, thời điểm này, Pháp đã chiếm
Bắc Kỳ và hình thành Liên hiệp Đơng Dương gồm 5 khu vực
Tonkin (Bắc Kỳ), Annam (Trung kỳ - từ Thanh Hóa đến Bình
Thuận), Nam Kỳ (từ giáp Bình Thuận đến Cà Mau), Mên (Miên,
Cam Bốt hay Kampuchia) và Ai Lao (Lào) và đặt phủ toàn quyền
ở Hà Nội.
Tuy vậy, chữ quốc ngữ lúc ấy chỉ phổ biến ở Lục tỉnh và số

người học chữ khơng nhiều lắm, dù có nhiều ưu đãi từ chánh
quyền Pháp. Chữ quốc ngữ tuy có trường học nhưng trường
không nhiều và thường không gần nhà. Hạt Gia Định năm
1899 với 18 tổng, 191 làng và có 16 trường tổng. Tổng Dương
Hịa Thượng có 14 làng chỉ có một trường ở làng Tân Sơn Nhì,
nay là trường Ngơ Đa, tên cũ là trường Tiểu học cộng đồng Bà
Quẹo. Các Tổng An Thạnh, An Thịt (còn gọi là An Thít) và Cần
Giờ có 20 làng chỉ có một trường ở Cần Thạnh (nay là trung
tâm huyện Cần Giờ). Đây là trường cấp 1. Học lên cao một
chút (cấp 2 và 3) thì trường càng ít. Cả Lục tỉnh chỉ có trường
Le Myre de Vilers (Nguyễn Đình Chiểu) ở Mỹ Tho và trường
Chasseloup Laubat (Lê Quý Đôn), Tabert (Trần Đại Nghĩa) ở
Sài Gịn. Gia đình muốn con đi học chữ phải “gởi nhờ” nhà
trường hoặc người quen, vừa tốn kém, vừa xa con cái. Chưa kể
nỗi lo “mất con” vì khơng biết học hành như vậy thì Tây có bắt
con mình qua Tây hay khơng... Trường ốc như vậy, người đi
học hẳn khơng nhiều và người có học đủ sức đọc được Thơng
Loại Khóa Trình càng ít!

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

97




Báo khơng in giá tiền nhưng có lẽ giá một tờ báo cao nhứt
chừng hai cắc (0$20 tiền Đông Dương khoảng 1 franc). Thời
kỳ này, tiền rất có giá trị, một thước vng đất ở trung tâm
Sài Gịn giá 1,5 đồng (khoảng 7,5 franc) thì hai cắc là số tiền

lớn. Một giáo viên tập sự lương 360 đồng/năm, còn giáo viên
chánh thức 600 đồng/năm (theo Lịch Annam 6 tỉnh Nam Kỳ
năm 1899). Muốn mua được báo, học sinh phải là con nhà giàu,
có khi là giàu lắm mới có tiền hằng tháng bỏ ra mua báo. Tất
nhiên, cịn phải có lòng “mê” sách báo nữa.
Với điều kiện như vậy, sự tồn tại của tờ báo quả là mong
manh, điều mà một người như ông Ký, người dành cả đời để
nghiên cứu, học hành, ít quan tâm đến đời sống xã hội, có
khi khơng chú ý mấy. Ngày nay, dù điều kiện học hành tốt
hơn, trường lớp mọc khắp nơi, học hành là động lực rất lớn
để thanh niên vào đời, nhưng sách báo vẫn “ế”. Hiện nay, Việt
Nam tròm trèm 100 triệu dân mà mỗi lần in loại sách mang
chút tính học thuật các nhà xuất bản chỉ dám in 1000 bản/lần,
huống hồ thời ông Ký cả Nam Kỳ độ chừng 2-3 triệu người.
Ít người đọc, ít người có tiền mua báo nên tờ báo chết là
bình thường. Theo lời “Cho hay” ở số cuối cùng, ông Ký cho
biết báo muốn tồn tại thì phải có từ 2.000 đến 2.500 người mua
báo nhưng thực tế chỉ có 400 tờ báo được bán ra và trong số
đó nhiều người “thiếu nợ” lâu ngày. Đó là cái chết được báo
trước mà “ơng thầy” Trương Vĩnh Ký vì quá đam mê nghiên
cứu sách vở, đam mê làm báo, đam mê truyền đạt kiến thức
cho đời sau qn mất. “Nay nhân vì bởi khơng có vốn cho
đủ mà in ln sách Thơng Loại Khóa Trình nữa, nên ta cực
chẳng đã phải đình in đi cho đến khi các nơi các xứ có người

98

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19





chịu mua trước cho đủ số ít là 2.000, 2.500 thì mới có lẽ mà in
lại nữa được là có tiền mà trả tiền in cho ít nữa là 2/3 thì mới
dám lãnh làm ln; phải có củi đậu nấu đậu mới được. Phải
chi mỗi Sở Tham biện anh em đồng chí lo giùm cho có được
chừng 200, 250 người xin mua mà coi thì có lẽ lấy vốn ấy nhen
nhúm mà làm thì cịn trơng xấp xỉ đủ sở phí. Phần thì bây giờ
ta đang lo in các thơ văn như Vân Tiên, Thúy Kiều, Phan Trần...
lại in sách Minh Tâm tứ thơ, nên sở phí lớn lắm khơng dám
chắc có vốn mà làm cho đủ nữa. Năm ngối năm nay Thơng
Loại Khóa Trình có người mua hết thảy chừng ba bốn trăm;
nên cịn đọng lại nhiều lắm; khơng biết lấy đâu mà chịu tiền
in. Xin văn nhơn học sĩ quang cố; tuy hữu hằng tâm mà vô hữu
hằng sản thì biết làm sao được?”. Đây là lời “tâm sự” đầy đau
khổ của người mê làm báo mà phải đóng cửa báo vì... hết tiền!
Và sự hết tiền này đã “góp” thêm một cái nhứt nữa cho tờ báo
“tờ báo đóng cửa trước nhứt”. Bởi sau đó, rất nhiều tờ báo ra
đời rồi đóng cửa vì rất nhiều lý do, trong đó cũng có khơng ít
tờ tự đình bản vì “hết tiền”.
Thơng Loại Khóa Trình là tờ báo tiên phong trong việc phổ
biến kiến thức, là chuyên san đầu tiên về văn hóa, nghiên cứu
văn học, lịch sử nước nhà mà bất cứ chánh quyền nào cũng
quan tâm đầu tư. Song Thơng Loại Khóa Trình ra đời khơng
đúng lúc và lại do một tư nhân “khơng giàu có” về tiền bạc
mà chỉ có tâm huyết nên lực bất tịng tâm, có hằng tâm mà
khơng hằng sản nên... Giả dụ thời ấy mà ông Ký “nắm áo” các
đại gia như Tổng đốc Phương, Huyện Sĩ để đỡ đầu hẳn tờ báo
khơng chết yểu!
Thơng Loại Khóa Trình ra đời vào buổi bình minh của báo


THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

99




chí quốc ngữ, là tạp chí “lạc lõng” trong chế độ thực dân. Năm
ra đời của tờ báo, thực dân Pháp vừa chiếm Bắc kỳ khơng bao
lâu, tình hình chính trị chưa thật ổn định. Ở miền Trung thì
phong trào Văn Thân đang nổi lên với nhiều cuộc “dậy giặc”,
thực dân vừa lo trong triều đình vừa xua quân “dẹp giặc” ở
trong rừng. Năm 1888 cũng là thời điểm mà chữ quốc ngữ
vẫn chưa bám rễ chắc chắn vào lòng người Việt ngay ở Nam
Kỳ, vùng đất từ năm 1862 rồi 1874, nhà Nguyễn đã để cho
Pháp trọn quyền cai trị. Với thực dân, chữ quốc ngữ được cổ
võ phổ biến với nhiều trường lớp, thầy dạy... là nhằm để có
người biết chữ để “phục vụ cho nhà nước Đại Pháp”, để làm
công chức trung gian giữa người Pháp nắm trọn quyền lực ở
mỗi địa phương với người dân bị trị, để người dân có thể đọc
biết được những lịnh lạc từ chánh quyền mà chấp hành, chớ
không phải dạy chữ để dân biết lịch sử hào hùng, nền tảng
văn hóa, nhân cách cao đẹp của người Việt. Chánh quyền nào
cũng muốn dân chúng dễ dạy, biết nghe lời, chỉ đâu làm đó...
chớ khơng muốn dân chúng trên dưới đều là “trí thức” (vốn
là loại người biết nhiều chuyện, hay có ý kiến, thích bàn bạc,
cãi lại các lịnh lạc từ chánh quyền) để việc trị an rối rắm, mất
sức, nhứt là chánh quyền thực dân.
Từ tâm lý ấy, việc Thơng Loại Khóa Trình ra đời khơng nhằm

vào việc thơng tin bình thường mà chỉ chăm chăm việc nâng
cao kiến thức cho dân chúng, chăm chăm việc làm tăng thêm
sự hiểu biết của người học chữ quốc ngữ về lịch sử, văn hóa
của nước Việt là “đi ngược” lại ý đồ của thực dân. Hẳn nhiên,
Pháp là một quốc gia có nền văn hóa đáng nể, người Pháp có
truyền thống văn hóa trong cách hành xử và ơng Ký là một nhân

100

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19




vật đương thời được kính nể. Song thực dân là thực dân! Dù
có truyền thống mấy, có lịch sự mấy, có kính nể mấy thì nhà
cầm quyền Nam Kỳ cũng không thể ủng hộ việc làm của ông
Ký. Song việc họ để cho ông Ký làm mà không cấm, không phá
chính vì lịch sự và kính nể, nhưng khơng hồn tồn ủng hộ.
Do khơng ủng hộ nên tờ báo phải chết yểu. Cứ theo lời “cho
hay” của ơng Ký thì các Sở Tham biện không mua nhiều báo
lắm! Mức mong muốn của ông Ký chỉ là 200 tới 250 tờ một Sở
Tham biện cũng khơng có. Tham biện là cơ quan tương đương
cấp tỉnh hiện nay nhưng địa giới có lẽ lớn hơn nhiều. Đó là
nơi tập trung hầu hết những người “biết chữ quốc ngữ” là lực
lượng thông ngôn và các quan chức người Việt từ làng xã đến
tỉnh. Tới năm 1888, ai không biết chữ quốc ngữ đều bị loại ra
khỏi hệ thống hành chánh (theo nghị định ngày 1-1-1882 của
thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers) từ làng xã trở lên và chắc
chắn số công chức ấy không thể dưới 250 người/tỉnh. Vậy mà...

cho thấy thực dân đã ngấm ngầm tẩy chay bằng cách không
hoặc mua báo rất ít! Đây là cách tẩy chay “vơ cùng lịch sự”. Bởi
chánh quyền vẫn để ông Ký mua giấy, in báo (thuở ấy chỉ có
vài nhà in nằm trong tay nhà nước và giáo hội) để rồi sau khi
in ra thì bán khơng hết và “cịn đọng lại nhiều lắm”.
Đây là ngun nhân chánh khiến Thơng Loại Khóa Trình
chết chớ khơng chỉ vì ơng Ký khơng cịn tiền để tiếp tục cơng
trình đáng kính phục này. Bởi dù tiếng là xuất bản để “học trị
coi chơi” nhưng có mấy học trò đủ tiền mua báo hằng tháng?
Quy định của chánh quyền năm 1881, mỗi học sinh được vô
trường Chasseloup - Laubat được học bổng hằng tháng là 5
đồng dành cho ăn ở, áo quần, tập vở, bút mực... Bỏ ra một số

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

101




Bài sưu tầm trên Thơng Loại Khóa Trình.




tiền chừng một, hai cắc mua một tờ báo đối với học sinh là quá
xa xỉ, nhứt là học sinh nghèo lại sống xa nhà! Phải là học sinh
vô cùng mê đọc báo, phải là học sinh con nhà giàu thì mới dám
“chơi” mua báo hằng tháng. Vì vậy, người có khả năng mua
báo phần lớn là “người lớn” đang là quan chức hoặc làm việc

cho nhà nước Pháp từ làng xã đến tham biện (tỉnh). Trong số
đó, có nhiều người là học trị của ơng Ký như Nguyễn Trọng
Quản (thông ngôn), Trương Minh Ký (thầy giáo), Diệp Văn
Cương (thầy giáo) và đồng nghiệp làm chung ở phịng thơng
ngơn, Gia Định Báo... nhưng học trị dù thương thầy mấy cũng
khơng thể nào “mua hàng ngàn tờ báo” một tháng được.
Vậy Thơng Loại Khóa Trình viết gì mà người Pháp phật lịng?
Trong số đầu tiên, mục lục của Thơng Loại Khóa Trình là
“Tam cang, tam cang là những cang nào? Tam cang, tiền bạc,
các trị nói chuyện, câu hát, câu đố câu thai, cuộc chơi, giải ít
câu chữ Nho, tập đọc tiếng nói Phangsa”. Ơng Ký chỉ giải thích
“tam cang”: “Chỉ vua với tơi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha
với con ở cùng nhau phải cho có tình, vợ với chồng ở cùng nhau
phải cho có nghĩa là thuận hịa với nhau”. Rồi ơng viết “Thật
nghĩ lại con người sanh ra ở đời chẳng có cái chi mà quý cho
bằng đạo cang thường. Vì nhờ đạo ấy mà nước bền nhà vững,
vua thánh tôi hiền nhơn dân cần vương ái quốc, con thảo cha
kính mẹ, nhỏ dưới thuận thảo lớn trên; ở với nhau thù tạc ngay
tín, trên dưới lớn nhỏ phân biệt, có tơn ti thượng hạ; ràng buộc
lấy nhau, thành nên một nhà một hội bền bĩ (bỉ) chắc chắn; vì
nhờ giáo hóa biết đạo nên có hằng tâm thì khỏi phóng tịch tà
xí” (Tam cang). Tam cang là loạt bài rất nhiều kỳ, nói về nhiều
chuyện đời, xuất hiện trong mỗi số báo như nhắc nhở người

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

103





đọc. Trong bài “tiền bạc” có đoạn: “Nước Annam nguyên thuở
đầu dụng tiền gì, hoặc tiền ốc, tiền điếu Tàu... hay sao thì khơng
lấy đâu mà rõ biết được. Từ đời nhà Trần mới có đúc tiền kẽm;
rốt đời nhà Trần lúc Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương chiếm soán
Trần thì cũng có bày lập tiền giấy mà dùng. Annam cũng có
tiền điếu, tiền bạc, tiền vàng; bạc vàng có nén, có thoi, có đỉnh,
có thẻ, cứ đồng cân lượng mà kể. Tiền nhỏ hơn hết là đồng tiền
kẽm, 60 đồng là một tiền, 600 đồng bằng 10 tiền, thì kêu là
một quan. Tiền điếu có thứ ăn 3 có thứ ăn 6”. Trong báo số 2,
có những câu bình thường nhưng ngẫm nghĩ thì dễ suy diễn
như “hễ cái mình khơng muốn cho mình thì chớ có làm cho
người ta” (dịch lại câu của Khổng Tử “kỉ sở bất dục vật thi ư
nhơn”), hoặc “một tấm áo, một miếng ăn, nên nhớ đến cơng
làm nên khó nhọc. Phải nhớ ơn chẳng nên bơ thờ tưởng đâu tự
nhiên phải có sẵn ra cho mà dùng. Biết là mấy người lơ láo cho
đến chừng ấy!” (câu chữ số 2) hay “Ruột bỏ ra, da bỏ vào chỉ
nghỉa (nghĩa) là bà con cật ruột mình thì lại khơng nghĩ khơng
thương, mà vị cùng yêu kẻ xa lạ, người dưng” (Tiếng tục - số
2). Bắt đầu từ số 3 tháng 7-1888 thì xuất hiện trên báo mục
“Nhơn vật nước Nam” giới thiệu những nhân vật lịch sử của
Việt Nam như Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt (số 3), Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Hiền (số 4), Phùng Khắc Khoan (số 5), Nguyễn
Bỉnh Khiêm (số 3 tháng 7-1889), Hà Tôn Quyền (số 5 tháng
9-1889). Từ số 3 tháng 7-1888 trở đi, trên báo bắt đầu xuất
hiện loại thơ “sáng tác” để răn đời hoặc nói về thời cuộc. Bài
đầu tiên là “Nhớ song thân thơ” là bài thơ thất ngôn bát cú với
lời ghi chú là nguyên “của thầy Huề”1, học trò Đỗ Kim Thinh,
1 Thầy Huề: là ông Nguyễn Khắc Huề (không rõ năm sanh năm mất),


104

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19




hiệu Đồng Kê cư sĩ bây giờ ngụ Bến Tre, thấy hay thì cho đặng
đem vơ Thơng Loại...
“Ngùi ngùi khuya sớm luống ra vào
Thương nhớ hai thân lụy nhỏ sa
Chín tháng cưu mang nhờ đức mẹ
Ba năm bồng ẳm (ẵm) cám ơn cha
Xưa khuyên ăn học lòng vui vẻ
Nay giữ vùa hương dạ xót xa
Phước để ni lành con cháu nối
Dốc nguyền vẹn giữ trọn giềng ba”.

Thương nhớ ơn cha mẹ là chuyện bình thường nhưng nếu
suy diễn thì...
Cũng trong số 3 tháng 7-1888, cịn có bài thơ “Răn đánh bạc
thơ” cũng ghi chú là của ông Huề. Trong số 4 tháng 8-1888 có
bài thơ “Bơng lơng” khơng ghi tên tác giả nhưng theo khẩu khí
mà đốn thì có lẽ của ơng Đặng Thúc Liêng, một trong những
“học trị” của ông Ký!
“Trước kính gởi thăm ai không biết
Sau ngõ thăm bạn ngọc bơng lơng
Kể từ ngày đó bắc đây đơng
Lịng luống tưởng không thương không nhớ


người Bến Tre, giáo tập, từng dạy ở trường Chassloup - Laubat vài năm
sau chuyển về Bến Tre dạy và “làm Giáo học coi sóc các trường Tổng
trong nội hạt” (Nguyễn Liên Phong, Điếu cổ hạ kim thi tập, Cao tự
Thanh chỉnh lý và giới thiệu, VHVN 2013). Ông Huề viết báo khá nhiều.
Sau này trên báo Nam Kỳ Nhựt Trình, Nơng Cổ Mín Đàm, rồi Lục Tỉnh
Tân Văn những số đầu cũng thấy xuất hiện bài viết của ơng.

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

105




Bậu1 với qua2 không dươn3 không nợ
Qua với bậu như Tấn với Tần
Sống dương gian không được nằm gần
Thác xuống âm phủ xin phân hai ngả
Nhà huyên ấy vốn là mẹ gã
Thung thất nầy chỉn thật cha ta
Gẫm hai đàng chẳng phải sui gia
Xem đây đó người dưng hết trọi”.

Cũng trong số này có bài thơ “Ăn trộm trâu cung khai” không
đề tên tác giả.
“Trộm trâu tôi không biết, tôi không biết trộm trâu
Vốn nhà tôi trồng một đám bầu
Nhân đói khó khơng tiền mua đặng bánh dầu4
Coi nhà nào lớn ruộng nhiều trâu
Tơi tháo cổng dắt nó về ỉa

Bẩm thật tình tơi kiếm cứt trâu”.

Từ số 5 tháng 9-1888, thì sáng tác đăng báo đã dài hơn. Bài
“Dĩ vật luận vật ca” phải đăng hai số báo, do “một người ở tỉnh
Bình Định nhân hồi bát loạn đặt ra có ý bao biếm đời chơi”.
Tiếp đó là thơ Vịnh tháng bảy, Vịnh tháng Tám, rồi Thơ Đưa

1 Bậu: bạn, anh, chị...
2 Qua: tơi. Qua, bậu nói trại từ tiếng Triều Châu “Quá” (tôi) và Lứa (anh
chị, mầy...).
3 Dươn: duyên.
4 Bánh dầu: xác đậu phộng sau khi ép lấy dầu, đóng thành bánh để làm
phân bón. Đây là loại phân thông dụng ngày xưa cho tới giữa thế kỷ 20.
106

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19




bạn của linh mục Nhị Kính, rồi Khuyến nghĩa giáo dân tựu ca
của Lê Di Trung... Đến số 8 tháng 12-1888 thì có bài Hịch con
muỗi, bài tế Hậu qn Võ công Tánh, Nữ nhi ca của Trương
Minh Ký. Số 9 tháng 1-1889 có các bài Những câu nói vần người
ta quen dùng của Đặng Đức Tuấn, bài Tế Đinh quận công Châu
Văn Tiếp, Kiếp phong trần ca của Trần Hữu Hạnh, Tống bần
phú của Nguyễn Xuân Quơn, Thơ gởi cho vợ của Nguyễn Khắc
Huề, Thơ gởi cho bạn của linh mục Lê Minh Triết...
Bài dịch đầu tiên trên Thông Loại Khóa Trình là thơ Thằng
ăn cướp cạn do Leon Viết dịch từ truyện Pháp. Và truyện văn

xuôi đầu tiên có lẽ là Quan Âm truyện! (số 6 tháng 10-1888).
Những truyện dịch từ tiếng Pháp qua quốc ngữ ở cả hai thể
loại văn vần và văn xuôi đã xuất hiện trên Gia Định Báo từ
cuối năm 1881.
Quan Âm truyện là truyện dịch văn xi đầu tiên của báo
Thơng Loại Khóa Trình.
“Quan Âm là con ơng Mảng Ơn ở nước Cao quận Long Tài,
huyện Hồ Nam thành Đại Bang, tên thuở nhỏ kêu là Tiểu Kỉnh
Tâm, lớn lên làm bạn với chàng Thiện Sĩ là con Sùng Ơng, là
con dịng cân đai, chuyên nghề văn thi, vợ chồng về ở với nhau
như bát nước đầy, vợ thì kim chỉ, chồng thì bút nghiên. Bữa kia
Thiện Sĩ đọc sách khuya mỏi lưng liền nằm kê trên vế nàng mà
ngủ. Nàng ngó thấy râu mọc ngược dưới cằm, nàng vơ tình lấy
làm xấu mới lấy dao mà hớt phứt đi. Động chàng giựt mình
thức dậy, thấy nàng cầm con dao thì sanh lịng nghi vợ muốn
cắt họng mà giết mình đi. Liền vọt miệng la lên, ơng bà chạy đến
hỏi thì nàng cũng cứ thiệt mà khai, cho mời cha nàng tới làm
THÔNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

107




tờ để giao con lại. Nàng oan ức khóc mùi, ra lạy tạ từ giã ra về.
Nghĩ mình vơ dun bạc phận, nên mới giả trai lên chùa
mà đi tu. Vào chùa lạy sư bạch tỏ nguồn cơn, xin nương cửa
Phật, độ tấm thân. Đêm ngày niệm Phật tụng kinh, chẳng còn
mong tưởng sự đời nữa, ở chùa thầy đặt tên lại là Diệu Thường.
Vậy mà cũng chưa yên phận, nạn này vừa hết lại tới nạn

khác. Trong làng kia gần chùa có ơng phú ơng có một đứa con
gái tên là Thị Mầu, vô ra đi cúng chùa liếc thấy Diệu Thường
tốt trai lịch sự, thì phải lịng. Mà thấy lân la ghẹo hoa hoa cũng
vơ tình, đêm ngày tưởng nguyệt mơ hoa, sóng tình nổi lên túng
mới trai gái với thằng Thương Đầu có chửa ra, củ trướng càng
ngày càng lớn, cha mẹ hay đặng mới tra hỏi. Nó tích ốn ve Diệu
Thường khơng được, nó nhè đó nó khai xả vơ cho bõ ghét. Làng
xóm tới tra hỏi đầy nhà đơng dầy dầy, hỏi nó, nó cứ khai rằng:
Xưa nay ở chốn thâm quê,
Dẫu ong hay bướm chớ hề biết ai;
Phải khi lên chốn thiền trai,
Kỉnh Tâm tiểu ấu gặp ngồi cửa bia;
Q u trót đã nguyện thề,
Nhụy hoa phú mặc bướm kia ra vào,
Làng dạy đòi tiểu Kỉnh Tâm ra đôi co. Sư vâng lụm cụm,
tay lần hột miệng niệm kinh, dẫn tiểu ra, hỏi thì tiểu Diệu
Thường thưa rằng “Mình đã quyết đi tu; như cịn trau dạ trần
ai, thì xin có đức Như Lai trên đầu, cứ thề thốt hoài. Làng cứ
lời khai Thị Mầu mà xử, đem tiểu tăng ra đánh đòn; cứ la oan
mãi, mười phương Phật chín phương trời, chẳng thấu là đâu,
ơm bụng mà chịu.

108

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GỊN CUỐI THẾ KỶ 19




Thị Mầu tới kỳ đẻ ra một thằng con trai, ẳm đến giao cho

nàng nuôi lấy. Nàng Quan Âm cũng cắn răng mà chịu. Tay
bồng con người, miệng niệm kinh.
Lật bật tháng lụn ngày qua, thằng nhỏ tuổi đã nên ba. Quan
Âm cứ một lòng nhịn nhục oan mặc lòng. Trời Phật cảm đức
người, nên mới định rước hồn nàng về. Khi thay đồ mà liệm
thì vải (vãi) mới biết là con gái giả trai đi tu. Vào bạch sư hay,
sư mới cho làng vào mà khám nghiệm cho tường. Quả nhiên
làm vậy, mới biết là người chơn tu. Làng đòi Thị Mầu với cha
mẹ Thị Mầu ra; mà bắt tội phao phản cho người.
Khi chết nàng đã có viết thơ trần tình cầm nơi tay. Sư mở
ra đọc cho thiên hạ nghe.
Cả phồn1 Thị Mầu chưng hửng sửng sờ; lại bày gian ra, thiên
hạ đàm tiếu nhạo cười.
Thiện Sĩ và cả nhà cũng hỡi ôi, biết người ngay mà mình
gian ăn năn thì việc đã rồi.
Ấy là gương nhơn đức nhịn nhục hiền lành làm cho ta biết,
hễ ngay thì ra ngay, mà gian thì ra gian, vì lưới trời lồng lộng,
thưa mà chẳng lọt vậy”.
Có thể tóm lại, Thơng Loại Khóa Trình từ khi ra đời cho đến
lúc “hồn thành nhiệm vụ” theo cách nói ngày nay, chỉ chú
tâm “tìm tịi, lượm lặt” ca dao, tục ngữ và giải thích những điều
trong đời sống bình thường mà sách vở khơng nói tới. Thứ hai
là giới thiệu một số nhân vật lịch sử của nước nhà. Và sau rốt
1 Cả phồn: cả lũ.

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

109





là giới thiệu những tác phẩm đương thời được viết để răn đời
hay chỉ để “biết” mà thôi.
Một tờ báo như vậy thì “khơng có gì ảnh hưởng đến sự cai trị
của nhà nước Đại Pháp”, song cũng không “đã” lắm với chánh
quyền vì “chỉ làm cho kiến thức của người biết chữ quốc ngữ
tăng thêm nhưng chưa chắc đã có lợi cho Pháp”. Đã vậy, trong
những giải thích của ông Ký có nói tới những điều hơi “nhạy
cảm” như quân thần, trung quân, ái quốc, ơn vua... Năm 1888,
phong trào Văn Thân, Cần Vương vừa tạm lắng sau khi vua Hàm
Nghi bị bắt vào cuối năm 1888. Từ 1885 đến 1888, Pháp phải
vất vả ở miền Bắc và Trung để dẹp phong trào này và phải đến
năm 1895 công việc bình định mới tạm ổn. Trong thời điểm
ấy, việc một tờ báo tiếng Việt do người Việt làm chủ, xuất hiện
trên thị trường đã là cái gì đó q hớp, q “trân trọng”, q
tin cẩn, q nng chìu! Thay vì ủng hộ chánh quyền, thì báo
lại có những bài, câu viết nói xa nói gần những vấn đề mà nhà
nước muốn tránh. Báo lại nêu ra những nhân vật lịch sử kiệt
hiệt trong việc chống giặc ngoại xâm của người Việt, rồi dần
dà đăng tải những bài viết, câu ca, bài thơ ca ngợi nhân vật
như Võ Tánh, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản và phê phán
lối sống không lành mạnh của một bộ phận dân chúng. Dù có
vơ tâm mấy thì chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ cũng thấy Thơng
Loại Khóa Trình đang từng bước dạy con nít, nhắc người lớn
rằng “đất Việt, người Việt đã từng có những anh hùng không
cúi đầu trước giặc ngoại xâm”, rằng đã là người có học thì phải
“trung qn, ái quốc”, phải “nhớ ơn cha mẹ, và người làm ra
miếng ăn, tấm áo”... Những điều đó sẽ đưa lớp học sinh có học
sau này đi về đâu, làm gì? Trương Vĩnh Ký là “đại cơng thần”


110

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GỊN CUỐI THẾ KỶ 19




của Pháp, người đã cộng tác với quân Pháp ngay từ ngày họ
còn chân ướt chân ráo bước lên đất Sài Gòn, người đã giúp họ
hiểu được người Việt, người đã giúp họ đào tạo một lớp thông
ngôn trung gian đơng đảo để họ dễ điều hành chánh quyền.
Chính vì cơng lao ấy mà tờ báo khơng bị đóng cửa nhưng giới
chức trong chánh quyền gần như quay lưng với nó. Đóng cửa
báo là hạ sách, sẽ để lại nhiều tai tiếng khơng hay cho Pháp.
Để tờ báo thoi thóp rồi chết mới là thượng sách. Bởi người
Pháp không bao giờ quên họ là “người ngoại quốc” và ông Ký
là “người Việt”. Dù thân mấy, cơng lao mấy thì giữa Pháp và
ơng Ký cũng có khoảng cách khơng thể san bằng được. Vả lại,
sau khi từ Huế trở về rời bỏ chức cố vấn vua Đồng Khánh sau
khi Paul Bert chết trở về Sài Gịn thì ơng Ký đã cảm nhận được
sự nghi kỵ ơng của người Pháp. Có thể vì vậy mà ơng tỏ thái
độ, dù là rất kín đáo và nhẹ nhàng.
Mặt khác, Thơng Loại Khóa Trình là tờ báo đầu tiên “ghi
chép lặt vặt” những câu ca, câu thai (một loại câu đố để suy
luận ra một con số thường thấy trong trò đánh đề), câu đố,
vè, câu hát... dân gian. Thơng Loại Khóa Trình cũng giải thích
cặn kẽ những sự kiện mang tính tục lệ trong đời sống như rằm
tháng bảy, tiết Thanh Minh... cho người đọc hiểu. Báo cũng
giải thích các câu nói của cổ nhân, của Khổng Tử, của sách

học nằm lòng người xưa. Đặc biệt, báo đẩy mạnh việc đăng các
tác phẩm “mang tính văn học” của người đương thời sáng tác.
Tác phẩm thơ đầu tiên đăng trên Thơng Loại Khóa Trình
có lẽ là Kiếp phong trần ca hay Trương Lê vấn đáp của Antoine
Trần Hữu Hạnh (chưa rõ hành trạng ông này) trong số 9 tháng
janvier 1889. Trong lời cuối bài thơ dài này, báo có ghi thêm:

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

111




“Antoine Trần Hữu Hạnh diễn sách Bất Cượng ra ca. Cứ theo
sách Trương Sĩ Tải đã làm mà diễn nên có ca có vịnh khơng
thêm khơng bớt, khơng bỏ sót chỗ nào. Ấy cũng là một cái tài
riêng; đặt tiếng thường xi dễ hiểu. Vì sách làm là có ý cho
người ta coi cho hiểu. Chớ chăng phải là cầu cao cầu kì; có
nhiều người chưa lấy cái điều ấy làm hay; mà thật hay là làm
được như vậy mới gọi là hay”.
Xem trong sách giải Phong Trần
Vui lòng ngụ ý đặt vần ca ngâm
Mượn lời sẵn chữ quốc âm
Noi theo nghĩa lý gia tâm chép làm
Lời quê ý cạn làm thàm
Dầu hay dầu dở cũng cam đặt bày
Trương Đại Chí ra kinh học tập
Hai mươi năm chơi khắp các nơi
Phỉ lòng về xứ nghỉ ngơi

Thăm Lê Hảo Học bạn chơi với mình
...
Lê rằng anh đã nên danh
Thơng kim bác cổ phước lành tổ tiên
Châu lưu các xứ các miền
Đa văn quảng kiến dữ hiền từng nghe
Vậy mà cũng chẳng nên khoe
Phước thì có phước họa e chừng nào
Phong trần ấy kiếp lao đao
Gẫm trong thế cuộc mà ngao ngán lịng
...
Trần là bụi đất mơng mơng

112

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19




Phong thì là gió nghĩa đồng chữ đơi
Đời nầy tạm gởi nổi trôi
Nay vầy mai khác biến thôi mấy lần
Giàu nghèo sướng cực xây vần
Nhục vinh bỉ thới hay phân đổi dời
...

Kiếp phong trần ca dài hơn 300 câu đăng liên tiếp trên ba
số báo 9, 10 và 11 năm 1889. Tiếp đó là “Tống bần phú” của
Nguyễn Xuân Quơn:

Gẩm (gẫm) cuộc đời tát tệ cũng bởi anh bần
Sử thế khi nhơn cũng vì chưng gả
Xét suy đã quả, nào phải rằng vu
Xi nhiều người thất chí thành ngu
Khiến nhiều kẻ vong tâm đảng (đãng) trí
Làm người khi dị nhiều kẻ khinh lờn
Xuôi nhiều người mất thảo quên ơn
Khiến nhiều kẻ xa thân ngái thích
Làm tàn hại cữa (cửa) nhà xát xích
Khiến leng teng quần áo tả tơi
Thấy (Tơ Tần) mang tiếng trong đời
Làm (Tử Lộ) bia truyền thiên hạ
Hớn (Châu Mải) vì người mà để vợ
Tống (Từ Minh) bởi gả (gã) mà bán em
Hay nhiều người đói rách lem hem
Làm nhiều kẻ ăn nằm hẩm hút
Ấy là trong tài đức, cịn phải hại vì người
Huống chi kẻ phàm phu, chẳng hư hao bởi gả
Gẩm ngươi ở nhiều đều thái q

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

113




Xét ngươi làm nhiều nổi (nỗi) sự sinh
Hễ theo ai thì nấy bất bình
Hễ theo ai thời làm thiệt hại

Muốn tính phải cũng khơng cho phải
Muốn thung dung chẳng chịu thung dung
Làm cho người đày đọa tấm thân
Khiến cho chúng hoa phiền tâm chí
Gần cũng gả nhiều đều bỉ sĩ
Phải toan bề tống nhỉ viễn hanh
Chớ trách ta rằng có phụ tình
Vì gả ở nhiều đều bạc ác
Vậy có ngọn đèn bát nước
Nhơn vừa thuở trọng đơng
Mượn ngọn gió bắc phong
Đưa người về tây vức.
Cẩn phú
(số 10 tháng février 1889)

Rồi thơ Gởi cho vợ của Nguyễn Khắc Huề:
“Môi hồng từ thuở vấn vương nên,
Vàng đá ghi lịng có dưới trên.
Cúc dục ơn sâu già lại yếu!
Thần hồn cậy chút nhớ hay qn?
Hổ thay Ngơ Khỉ tình sao nỡ?
Cám bấy Lữ Vinh nghĩa trọn đền.
Phước cả may nhờ người trước để,
Gót lân noi dấu rạng hai bên.”
(số 10 tháng février 1889)

114

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19





Cao điểm là bài “hịch” của ông Nguyễn Tri Phương (tại qn
thứ Chí Hịa của Mạc Như Đơng, đốc học Định Tường làm) in
trong số tháng 6-1889.
Từng nghe rằng: trị nước, lấy an dân làm trước,
Chẳng đặng đừng nên thấy việc dùng binh,
Ra quân tua thệ chúng ấy đầu.
Có như vậy mới đồng lòng thảo tặc,
Muốn tỏ hai đàng phải trái,
Ngõ tường mấy tiếng khuyên răn.
Nhà nước ta, cột đá an trồng,
Âu vàng vững đặt,
Mười sáu đạo mở mang điện Võ
Cõi Nam Minh biển bặt tăm kình
Hai trăm năm đồ sộ vạc Châu,
Dịng Đơng Phố chằm thanh tiếng nhạn,
Nề nết phong lưu tự trước,
Đượm nhuần ân trạch đã lâu
Cớ gì một góc Tây gi
Khác lịng trâu ngựa
Quen những mấy năm đông Việt,
Mông dạ sài lang,
Vịnh Trà San nhớ nẻo thông thương.
Tàu đa sách thẳng buồm vào bến cũ.
Cửa Cần Hải chia hai đàng tấn thực
Thuyền khỉ cơ tn khói lọt sông trong!
Quỉ trắng đầu vùng vẫy dưới trời!
Dân đen xảy bùn bơi trên đất!

Ánh sáng nghiệp mấy tịa kim cốc

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

115




Đống tro tàn vì một mũi xung tiêu.
Lũ phấn chi mấy mặt xuân phong.
Mùi tanh khét há chung hơi dị loại?
Ruỗi trên bộ thì đặt lũy đầu Mai Sơn Tự.
Lại đóng rãi nơi Hiển Trung, Khải Tường, Kiểng Phước,
Chùa miễu trăm năm linh tích,
Dấu khói hương lạnh ngắt như khơng,
Khuấy dưới sơng thì gieo neo nơi khúc Hữu Bình đồn,
Lại ngược xuôi Vũng Gù, Bến Lức, Rạch Ong,
Gần xa các nẻo thương hồ.
Ghe bn bán dật xiêu cịn mấy!
Thói hung bạo khắp thần dân đều giận,
Dạ tham ô tuy săng cỏ cũng hờn.
Lẽ đâu trời giúp đứa hung cường,
Phép nước chẳng dung loài tàng tặc,
Ta nay: vưng lời minh dụ
Lãnh chức Nguyên nhung,
Cờ tiết mao khâm mạng mấy thu,
Sáu tỉnh binh dân quen mặt cũ,
Ấn Tổng thống trách thành hai lượt
Chín trùng trù hoạch lắm mưu sâu,

Đem oai linh mà dẹp lũ cuồng gi,
Dám chầy việc võ?
Ra đức cả vỗ người qui thuận
Trước rạch lời văn
Đất Nam Kỳ từ thuở trung hưng
Dân Gia định cũng dịng nghĩa khí
Bốn bảy Nam Dương phị vạc Hán

116

BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GỊN CUỐI THẾ KỶ 19




Hội rồng mây đua chen gót truy tùy
Năm ba Đơng Thổ chống lèo Châu
Cơn mưa tuyết chẳng trừ đàng chinh dịch
Thơ son khoán sắc dấu cũ rành rành
Họ cả nhà sang cây cao vọi vọi
Đã chắc là mấy người trung liệt
Dạ sắt vàng bao quản bước chơng gai
Song cịn thương những kẻ hôn ngu
Thay cân phủ khá ngại phiền miệng lưỡi
Nào những Da (Gia) Tơ các xóm
Dấu tích xưa q vức vốn người Châu
Nào là Chệc Khách mấy bang
Trú ngụ đó cửa nhà nơi đất Hán
Trước sợ phố phường tan nát
Gải dạng quan thông

Xưa lầm phù thuốc trầm mê
Quên đàng hiệu thuận
Sao chẳng thấy truyện Ngụy Khôi năm trước
Mưu mô ấy mà gan dạ ấy
Mã Biền Tru cịn để đó làm gương
Chẳng xem đồ Dương tặc bấy lâu
Cửa nhà ngươi cùng vợ con ngươi
Lòng tham dục biết bao nhiêu đầy túi
Chi bằng: theo đàng chánh đạo
Thú trước hiền môn
Đứa Da Tơ khác lịng xưa
Biết truyện thiên đàng là dối thế
Phường Chệc Khách đành theo đất cũ

THƠNG LOẠI KHĨA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên

117




×