Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.03 KB, 24 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN
VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong
doanh nghiệp sản xuất
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguyên vật liệu
Nguyên liệu là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là đối
tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hóa như: sợi trong doanh nghiệp dệt,
da trong doanh nghiệp đóng giày, vải trong doanh nghiệp may mặc…Nó là thứ mà
con người bằng sức lao động của mình tác động vào để làm thay đổi nó thành sản
phẩm có ích cho con người.
Khác với tư liệu lao động, nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất kinh doanh. Về mặt hiện vật, khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác
động của lao động, chúng bị tiêu hao toàn bộ hoặc thay đổi hình thái vật chất ban
đầu để tạo ra hình thái của sản phẩm. Giá trị của nguyên vật liệu được chuyển dịch
toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra hoặc vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ.
Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh
doanh, là cơ sở để tạo ra sản phẩm mới. Do đó, nguyên vật liệu giữ vai trò hết sức
quan trọng đối với doanh nghiệp, kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng
lớn nếu việc cung cấp nguyên vật liệu không được đảm bảo kịp thời
Mặt khác, chất lượng sản phẩm có được đảm bảo hay không lại phụ thuộc
rất lớn vào chất lượng nguyên vật liệu bởi vì nguyên vật liệu là thực thể cấu thành
sản phẩm, chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá thành sản
phẩm. Ví dụ: Chi phí nguyên vật liệu chiếm 50% - 60% giá thành sản phẩm cơ khí,
trong công nghiệp chế biến chiếm 80%, trong công nghiệp nhẹ chiếm 70%...
Vậy có thể nói nguyên vật liệu chiếm vai trò quan trọng trong sản xuất kinh
doanh, phải quản lý chặt chẽ nguyên vật liệu cả về số lượng, chủng loại, giá cả,
chất lượng ở tất cả các khâu, từ khâu thu mua, bảo quản, dự trữ, đến khâu sử dụng.
1.1.2. Yêu cầu quản lý nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. Như trên


đã nói, giá trị nguyên vật liệu thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản
xuất, do đó quản lý nguyên vật liệu là công việc không thể thiếu trong bất kỳ một
doanh nghiệp sản xuất nào. Tuy nhiên, do trình độ sản xuất khác nhau, quy mô
doanh nghiệp khác nhau nên mức độ, phương pháp quản lý nguyên vật liệu cũng
khác nhau. Quản lý tốt khâu thu mua, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu là điều
kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành,
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Đó là yếu tố khách quan và cũng là yêu cầu trong
kinh doanh của từng doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế cao, giúp các doanh nghiệp trong nước không những tồn tại và phát
triển được, mà còn có khả năng vươn ra thị trường quốc tế.
Để có được nguyên vật liệu đáp ứng kịp thời quá trình sản xuất kinh doanh ở
doanh nghiệp thì nguồn cung cấp chủ yếu vẫn là thu mua. Do đó, ở khâu này đòi
hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ về số lượng, chất lượng, quy cách, chủng loại, giá
cả, chi phí thu mua và cả tiến độ về thời gian sao cho phù hợp với kế hoạch sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong khâu bảo quản và dự trữ, doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống kho
tàng, bến bãi đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, bố trí nhân viên thủ kho có đủ phẩm chất
đạo đức và trình độ chuyên môn để quản lý nguyên vật liệu tồn kho và thực hiện
các quy trình nhập, xuất kho, tránh bố trí thủ kho kiêm nhân viên tiếp liệu và kế
toán nguyên vật liệu. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải xây dựng định mức tồn kho
tối đa và tối thiểu cho từng loại nguyên vật liệu, tránh dự trữ quá nhiều nguyên vật
liệu không thường xuyên và quá ít nguyên vật liệu chủ yếu.
Trong khâu sử dụng, phải tuân thủ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở
kế hoạch, định mức, dự toán chi phí, đảm bảo hạ thấp chi phí sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.1.3. Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu
Kế toán là công cụ phục vụ cho việc quản lý kinh tế tài chính trong doanh
nghiệp, trong đó kế toán nguyên vật liệu giữ vai trò quan trọng trong công tác quản
lý và sử dụng nguyên vật liệu. Để có thể đáp ứng được các yêu cầu quản lý này, kế
toán nguyên vật liệu phải thực hiện được các nhiệm vụ sau:

- Thực hiện chính xác việc phân loại, đánh giá nguyên vật liệu cho phù hợp
với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và quy chế của doanh nghiệp.
- Tổ chức chứng từ tài khoản kế toán, sổ kế toán phù hợp, ghi chép, tính
toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời số lượng, chất lượng, tình hình hiện
có, tình hình biến động tăng, giảm, giá thành thực tế của nguyên vật liệu trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
- Phân bổ hợp lý giá trị nguyên vật liệu sử dụng vào các đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất kinh doanh.
- Kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về thu mua nguyên vật liệu,
kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu cho sản xuất và kế hoạch bán hàng.
1.1.4. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu
Trong các doanh nghiệp khác nhau, quy trình sản xuất cũng khác nhau do đó
mô hình tổ chức bộ máy kế toán cũng khác nhau. Xuất phát từ vị trí, vai trò của kế
toán ta có thể khẳng định kế toán nguyên vật liệu là không thể thiếu được trong các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, do đó cần thiết phải tổ chức
công tác kế toán nguyên vật liệu.
Thông qua kế toán nguyên vật liệu, giúp doanh nghiệp quản lý và sử dụng
tốt nguyên vật liệu cả về mặt số lượng cũng như chất lượng, đáp ứng đầy đủ nhu
cầu nguyên vật liệu cho sản xuất, giúp tính toán, xác định chi phí nguyên vật liệu
phục vụ cho việc tính giá thành.
Kế toán nguyên vật liệu giúp cho công tác lập kế hoạch tiết kiệm chi phí,
tính giá thành, tăng tốc độ lưu chuyển vốn kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và
ngày càng phát triển.
Kế toán nguyên vật liệu cần phải có sự liên kết chặt chẽ với tất cả các phòng
ban, các bộ phận trong đơn vị giúp nâng cao hiệu quả trong công tác thu mua, xuất
kho, nhập kho, bảo quản và dự trữ.
1.2. Phân loại và đánh giá nguyên vật liệu
1.2.1. Phân loại nguyên vật liệu
Do tính chất đặc thù trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh

nghiệp phải sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau, mỗi loại nguyên vật liệu lạ
có tính chất lý hóa, vai trò, công dụng khác nhau. Trong điều kiện đó, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải phân loại nguyên vật liệu, tạo điều kiện quan trọng để tổ chức
tốt việc quản lý và hạch toán nguyên vật liệu.
Có nhiều căn cứ để tiến hành phân loại nguyên vật liệu tùy thuộc vào đặc
trưng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thực tế, căn cứ dùng để phân loại nguyên vật liệu thông dụng nhất là
vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh tức là theo nội dung
kinh tế và yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, nguyên vật liệu
được chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu chính: Là nguyên liệu, vật liệu khi tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh sẽ cấu thành nên hình thái vật chất của sản phẩm. Vì vậy, ở
các doanh nghiệp khác nhau thì có nguyên vật liệu chính khác nhau:
Ví dụ:
Trong doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo, nguyên vật liệu chính là đường, bột,
trứng…
Trong doanh nghiệp mía đường thì nguyên vật liệu chính là mía.
- Vật liệu phụ: là những vật liệu có tác dụng phụ trong quá trình sản
xuất,nhưng có thể kết hợp với nguyên vật liệu chính làm thay đổi màu sắc, mùi vị,
hình dáng bên ngoài, hoàn chỉnh, tăng chất lượng sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho
quá trình chế tạo sản phẩm được thực hiện bình thường hoặc sử dụng để phục vụ
cho nhu cầu kỹ thuật: bảo quản, đóng gói…, nhu cầu quản lý.
Ví dụ:
Trong doanh nghiệp dệt, thuốc tẩy, thuốc nhuộm là vật liệu phụ giúp tăng
giá trị sản phẩm.
Trong doanh nghiệp cơ khí, giẻ lau, dầu nhớt cũng là vật liệu phụ giúp bảo
dưỡng, duy trì hoạt động của máy móc, tránh hỏng hóc, giúp quá trình sản xuất
diễn ra bình thường…
- Nhiên liệu: Là các loại vật liệu có tác dụng cung cấp nhiệt lượng trong quá
trình sản xuất kinh doanh như: than đá, xăng dầu, than củi…

- Phụ tùng thay thế: Là các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để thay thế,
sửa chữa bảo dưỡng TCSĐ, máy móc, thiết bị phương tiện vận tải…
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Là những loại vật liệu, thiết bị, công
cụ, khí cụ, vật kết cấu được sử dụng cho công việc xây dựng cơ bản như giàn, giáo,
cốt pha…
- Vật liệu khác: Là các loại nguyên vật liệu chưa được xếp vào các loại vật
liệu trên, thường là các phế liệu thu hồi sau khi thanh lý tài sản hay loại ra từ quá
trình sản xuất.
Ngoài ra tùy thuộc vào nhu cầu quản lý và hạch toán chi tiết nguyên vật liệu
trong doanh nghiệp mà trong từng loại nguyên vật liệu trên có thể được chia thành
từng nhóm từng thứ chi tiết. Cách phân loại này là cơ sở xác định mức tiêu hao,
định mức dự trữ cho từng loại, từng thứ nguyên vật liệu, là cơ sở để tổ chức hạch
toán chi tiết nguyên vật liệu.
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại nguyên vật liệu khác như: Phân loại
nguyên vật liệu theo nguồn hình thành. Nguyên vật liệu được chia thành hai nguồn
sau:
-Nguyên vật liệu doanh nghiệp nhập từ bên ngoài: Do mua ngoài, nhận vốn
góp kinh doanh, nhận biếu tặng…
-Nguyên vật liệu tự chế: Do doanh nghiệp tự sản xuất.
Ví dụ:
Doanh nghiệp sản xuất chè có tổ đội sản xuất và trồng chè, tự cung cấp chè
tươi cho bộ phận chế biến để sản xuất chè khô và chè xuất khẩu.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp lập được kế hoạch thu mua nguyên
vật liệu từ các nguồn khác nhau với giá cả phù hợp, và việc lập kế hoạch sản xuất,
chế biến, là cơ sở để hạch toán xác định giá vốn thực tế nhập kho.
1.2.2. Đánh giá nguyên vật liệu
Đánh giá nguyên vật liệu là công tác quan trọng trong việc tổ chức hạch toán
nguyên vật liệu. Đánh giá nguyên vật liệu là việc xác định giá trị nguyên vật liệu ở
những thời điểm nhất định và theo những nguyên tắc đã được quy định:
 Nguyên tắc đánh giá nguyên vật liệu:

∗ Nguyên tắc giá gốc (Theo chuẩn mực 02 – Hàng tồn kho).
Theo nguyên tắc này, nguyên vật liệu được đánh giá theo giá gốc, giá gốc
hay còn gọi là giá vốn thực tế, là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để có
được nguyên vật liệu ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
∗ Nguyên tắc thận trọng.
Nguyên vật liệu được tính theo giá gốc, trường hợp giá trị thuần có thể thực
hiện được thấp hơn giá gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được.
Giá trị thuần có thể thực hiện được là giá bán ước tính của hàng tồn kho
trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường trừ (-) chi phí ước tính để hoàn thành
sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho việc tiêu thụ chúng (Chuẩn mực kế toán
số 02 – Hàng tồn kho)
∗ Nguyên tắc nhất quán
Theo nguyên tắc này, các phương pháp kế toán áp dụng để đánh giá nguyên
vật liệu phải được đảm bảo nhất quán, tức là kế toán lựa chọn phương pháp nào thì
phải nhất quán trong niên độ kế toán đó. Doanh nghiệp có thể thay đổi phương
pháp đã chọn nhưng phải trình bày lý do, giải thích ảnh hưởng của sự thay đổi một
cách đầy đủ, hợp lý, trung thực.
 Đánh giá nguyên vật liệu
Sự hình thành giá vốn thực tế nguyên vật liệu được phân biệt ở từng thời
điểm khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ, ở thời điểm nhập kho
thì phải xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho, việc đánh giá
này giúp tính được chi phí bỏ ra để mua nguyên vật liệu giúp tính toán được chi
phí sản xuất, công tác lập kế hoạch thu mua nguyên vật liệu, lập dự phòng giảm giá
nguyên vật liệu…
∗ Xác định trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu nhập kho
Giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho được xác định theo từng
nguồn nhập:
- Đối với nguyên vật liệu mua ngoài:
Giá thực tế
NVL nhập

kho
=
Giá mua
NVL
+
Các loại thuế
không được hoàn
lại
+
Chi phí thu
mua khác
-
Các khoản chiết khấu
thương mại, giảm giá
hàng mua
Giá mua NVL là giá hóa đơn kể cả thuế nhập khẩu (nếu có):
Đối với trường hợp doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ thì giá mua hàng hóa chưa có thuế GTGT đầu vào.
Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và hàng
không chịu thuế GTGT thì giá mua là tổng giá thanh toán.
Chi phí thu mua: Chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt trong định mức…
- Đối với nguyên vật liệu nhập kho do tự sản xuất: Trị giá vốn thực tế nhập
kho là giá thành sản xuất nguyên vật liệu tự gia công chế biến.
- Đối với nguyên vật liệu nhập kho do thuê ngoài gia công chế biến: Trị giá
vốn thực tế nhập kho là trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu xuất kho cộng số tiền
phải trả cho người nhận gia công chế biến và các chi phí vận chuyển gia công, bốc
dỡ khi giao nhận.
- Đối với nguyên vật liệu nhận vốn góp liên doanh liên kết: Trị giá vốn thực
tế nguyên vật liệu nhập kho là giá được các bên tham gia góp vốn thừa nhận.
- Đối với nguyên vật liệu được biếu tặng viện trợ: Trị giá vốn thực tế nhập

kho là giá trị hợp lý cộng các chi phí khác phát sinh.
- Đối với nguyên vật liệu được cấp: Trị giá vốn nguyên vật liệu nhập kho là
giá trị được ghi trên biên bản giao nhận và các chi phí khác phát sinh khi nhận
nguyên vật liệu.
∗ Xác định trị giá vốn nguyên vật liệu xuất kho
Nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp tăng từ nhiều nguồn khác nhau với
các đơn giá khác nhau, vì vậy doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp tính giá
thực tế nguyên vật liệu xuất kho… Việc lựa chọn phương pháp nào còn tuỳ thuộc
vào đặc điểm của nguyên vật liệu, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Để tính giá hàng tồn kho xuất, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương
pháp sau đây:
- Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp này, khi xuất kho nguyên vật liệu, căn cứ vào số lượng
xuất kho thuộc lô nào và đơn giá thực tế của lô đó để tính giá vốn thực tế của
nguyên vật liệu xuất kho.
Phương pháp này chỉ được áp dụng với những doanh nghiệp có chủng loại
nguyên vật liệu ít, có giá trị lớn, ổn định và có thể nhận diện được.
- Phương pháp giá bình quân:
Theo phương pháp này, giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá
trị trung bình của từng loại hàng tồn kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại hàng
tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo
thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng về, phụ thuộc vào tình hình của doanh
nghiệp.
+ Giá bình quân cả kỳ dự trữ:
Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của nguyên vật liệu
xuất kho trong kỳ. Tuỳ theo kỳ dự trữ của doanh nghiệp áp dụng mà kế toán căn cứ
vào giá mua, giá nhập, lượng nguyên vật liệu đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính giá
đơn vị bình quân:
Đơn giá bình
quân

=
Trị giá thực tế NVL tồn đầu kỳ + Trị giá thực tế NVL nhập trong kỳ
Số lượng NVL tồn đầu kỳ + Số lượng NVL nhập trong kỳ
Phương pháp này tuy khá đơn giản, dễ làm, chỉ cần tính toán một lần vào cuối kỳ nhưng có nhược điểm lớn
là công tác kế toán dồn vào cuối kỳ ảnh hưởng đến tiến độ của các phần hành khác. Hơn nữa, phương pháp này chưa
đáp ứng yêu cầu kịp thời của thông tin kế toán ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.
+ Giá bình quân sau mỗi lần nhập:
Sau mỗi lần nhập nguyên vật liệu, kế toán phải xác định lại giá trị thực của
nguyên vật liệu và giá đơn vị bình quân. Căn cứ vào giá đơn vị bình quân và lượng
xuất giữa 2 lần nhập kế tiếp để tính giá xuất theo công thức sau
Đơn giá bình
quân
= Trị giá thực tế NVL tồn kho sau mỗi lần nhập

×