Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN LƯU CHUYỂN HÀNG HÓA VÀ XĐKQKD TẠI TỔNG CTY CP VTNN NGHỆ AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.69 KB, 17 trang )

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN LƯU
CHUYỂN HÀNG HÓA VÀ XĐKQKD TẠI TỔNG CTY CP VTNN NGHỆ AN
3.1. Đánh giá
3.1.1. Đánh giá chung về Tổng công ty
Tổng công ty CP VTNN NA là một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong lĩnh
vực vật tư nông nghiệp, không ngừng mở rộng và cung ứng nhiều sản phẩm có chất
lượng, phục vụ cho nhu cầu thiết thực của bà con nông dân. Mặc dù mức độ cạnh tranh
trong ngành ngày càng lớn cộng với diễn biến phức tạp của thị trường nhưng nhờ nhận
thức đúng đắn ban giám đốc Tổng công ty đã đề ra những chính sách hết sức linh hoạt
và hiệu quả đưa Tổng công ty phát triển đi lên bền vững.
Về công tác quản lý nói chung, để quản lý một hệ thống các đơn vị trực thuộc Tổng
công ty tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến - chức năng bảo đảm thống
nhất trong công tác chỉ đạo cũng như tạo được mối quan hệ qua lại, sự đóng góp sáng
tạo giữa các phòng ban.
Tổng công ty cũng rất chú trọng việc đào tạo nhân lực, thường xuyên tổ chức thi
nâng bậc và nghiệp vụ cho cán bộ và nhân viên. Trình độ người lao động trong Tổng
công ty có xu hướng ngày càng nâng cao là một tín hiệu tốt cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Là một trong những doanh nghiệp sớm ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh như trang bị máy tính, máy fax cho tất cả các bộ phận, các đơn vị trực
thuộc; cài đặt phần mềm kế toán, nối mạng Internet... Từ khi áp dụng CNTT, hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty đã nâng lên rõ rệt, thể hiện rõ nhất là
công tác xuất, nhập khẩu. Thông qua mạng Internet, Tổng công ty đã nắm bắt thông tin
về biến động thị trường để xử lý kịp thời nên tránh được nhiều rủi ro trong kinh doanh.
Để bảo đảm khả năng tiêu thụ Tổng công ty đã tổ chức nguồn hàng kinh doanh
trên thị trường cả nước. Hệ thống kho, bãi, quầy hàng, cửa hàng được bố trí khá thuận
lợi và hợp lý , đảm bảo cho công tác tiếp nhận bảo quản hàng hoá một cách tốt nhất.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của Tổng công ty cũng đang được tiến hành một
cách linh hoạt. Tổng công ty đã khai thác, sử dụng tốt các chính sách về giá cả, thanh
toán như xây dựng mức giá bán phù hợp với từng giai đoạn, từng đối tượng, có chính
sách chiết khấu, giảm giá nhằm thu hút khách hàng cũng như đã tổ chức tiêu thụ trên


phạm vi cả nước.
Về công tác kế toán, bộ máy kế toán tại công ty được tổ chức gọn nhẹ nhưng
vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu thông tin kế toán của các đối tượng sử dụng. Có
được điều đó là nhờ đội ngũ cán bộ, nhân viên kế toán trẻ, có chuyên môn nghiệp
vụ và được đào tạo bài bản trong các trường đại học về kế toán tài chính.
Bên cạnh đó, trong xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch đầu tư sản xuất,
kinh doanh, công ty đã sử dụng hệ thống phần mềm kế toán hỗ trợ hiệu quả trong việc
tính toán, cân đối số liệu. Nếu như trước đây làm bằng thủ công, để có quyết toán
tháng, quyết toán năm phải chờ tổng hợp từ các kho, các xí nghiệp và các chi nhánh
làm xong gửi về, công ty mới tiến hành được. Nay sau khi các kho, xí nghiệp, chi
nhánh khóa sổ là ngay lập tức công ty đã có thông tin về hoạt động sản xuất, kinh
doanh - doanh số, lỗ, lãi của từng đơn vị cụ thể để quyết toán tài chính nên đã tránh
được tình trạng nhập nhèm, điều chỉnh khi quyết toán chậm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, Tổng công ty vẫn còn một số tồn tại và khó
khăn như:
Mạng lưới tiếp thị của Tổng công ty cũng chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu hoạt
động. Tại nhiều vùng miền núi, trình độ dân trí còn thấp nên sự nhận biết và ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật của bà con nông dân là hạn chế, việc sử dụng phân bón chưa nhiều và
đang lẫn lộn trong khi chọn sản phẩm do vậy doanh thu bán hàng nội tỉnh chiếm tỷ
trọng chưa cao. Mặt khác, thị trường Nghệ An với diện tích đất nông nghiệp lớn, là thị
trường tiềm năng đang được nhiều nhà cung ứng quan tâm và mở rộng thị trường nên
sự cạnh tranh sẽ càng khó khăn.
Công tác tạo nguồn vốn cũng là một trong những khó khăn đối với Tổng công ty,
đây cũng là tình trạng chung của các doanh nghiệp khi chuyển sang hoạt động theo cơ
chế thị trường không còn sự bao cấp của nhà nước. Hiện nay Tổng công ty hoạt động
chủ yếu bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Chi phí về lãi tiền vay lớn làm giảm đáng kể
thu nhập trong hoạt động kinh doanh của Tổng công ty.
Một trong những khó khăn nữa đối với Tổng Công ty là môi trường kinh doanh
với diễn biến khó lường. Tình trạng phân bón giả, kém chất lượng cộng với giá cả vật
tư nông nghiệp lên xuống thất thường đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới Tổng công ty.

Quý IV năm 2008, trong tình trạng khó khăn chung của các DN kinh doanh vật tư nông
nghiệp doanh nghiệp do phân bón rớt giá thê thảm, DN nhỏ thì lỗ khoảng vài chục
tỉ đồng còn DN lớn ít nhất cũng lỗ cả trăm tỉ đồng. Do không dự báo được biến
động của thị trường phân bón nên nhiều đơn vị đã nhập nguyên liệu từ giữa năm
với giá cao trong khi hiện nay, giá thế giới đã giảm hơn phân nửa. Một số mặt hàng
của Tổng công ty cung chịu chung số phận đó, có thời điểm Tổng công ty cũng
buộc phải bán thấp hơn hoặc bán xấp xỉ với giá mua vào cộng với việc phải trả lãi
vay ngân hàng cho các hợp đồng tín dụng trước đó kéo theo kết quả lợi nhuận quý
IV sụt giảm nhiều so với các quý khác và làm cho kết quả kinh doanh của cả năm
không được như mong đợi.
Với quy mô kinh doanh lớn, quản lý nhiều đơn vị trực thuộc trong khi số
lượng nhân viên phòng kế toán Tổng công ty chỉ có năm người khiến cho khối
lượng áp lực công việc là rất lớn. Một kế toán viên phải kiêm nhiệm thêm nhiều
phần hành cộng với khối lượng giao dịch lớn thì không thể tránh khỏi những sai
sót.
3.1.2. Đánh giá về công tác hạch toán lưu chuyển hàng hóa và xác định kết quả kinh
doanh tại Tổng công ty

Về thủ tục - chứng từ mua bán hàng hóa tại Tổng công ty
Do đặc điểm mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty là phân bón, cây
giống có những đòi hỏi riêng về kỹ thuật bảo quản, chất lượng nên thủ tục mua bán
hàng hóa tại Tổng công ty đã được tổ chức khá chặt chẽ từ khâu ban đầu - từ khi ký kết
hợp đồng, xét duyệt đơn đặt hàng đến khi xuất kho hàng hóa và làm thủ tục thanh toán.
Tuy nhiên, doanh thu từ bán hàng qua các đại lý vật tư nông nghiệp huyện không nên
đợi đến cuối tháng mới ghi nhận, khi các chi nhánh này gửi bảng kê bán hàng hàng mới
lập hóa đơn bán ra. Việc dồn công việc ghi chép vào cuối tháng do phải chờ Bảng kê
hóa đơn bán ra của các đại lý sẽ làm tăng công việc của kế toán vào cuối tháng.
Mặt khác, do đặc điểm là có địa bán hoạt động trải rộng, hệ thống kho không gắn
liền với trụ sở VP Tổng công ty nên quy trình luân chuyển có khác đi so với thông
thường. Trong các trường hợp bán buôn trực tiếp, hóa đơn GTGT có vai trò như phiếu

xuất kho, được lập tại phòng kinh doanh Tổng công ty sau đó mới chuyển xuống kho
để thủ kho làm cơ sở xuất kho. Quy trình này có thẻ dẫn đến sự chênh lệch trong một
khoảng thời gian ngắn giữa kho và phòng kế toán Tổng công ty.
Với khối lượng hàng lớn, quá trình lưu chuyển hàng hóa thường xuyên việc sử
dụng kế toán chi tiết kho hàng theo phương pháp thẻ song song để quản lý hàng là hợp
lý. Hàng được chi tiết theo từng mã hàng, từng trạm và từng kho trong điều kiện kế
toán máy nên việc quản lý không quá khó khăn. Tuy nhiên, việc tập trung chứng từ kho
về Tổng công ty vào cuối mỗi tháng như hiện nay là chưa hợp lý, quá dài, khiến cho
việc kiểm tra đối chiếu bị dồn dập.

Về hệ thống tài khoản:
Công tác kế toán lưu chuyển hàng hóa tại Tổng công ty đã được tiến hành dựa trên
đặc điểm thực tế của Tổng công ty và vận dụng sáng tạo chế độ kế toán hiện hành. Hệ
thống TK tại Tổng công ty được mở khá đầy đủ đồng thời chi tiết thêm các tiểu khoản
phù hợp với đặc điểm quản lý và yêu cầu kinh doanh.
Điểm đáng lưu ý ở đây là Tổng công ty lại không sử dụng TK 155 - Thành phẩm
để hạch toán sản phẩm NPK do Tổng công ty sản xuất mà sản phẩm cũng được theo
dõi trên TK 1561 như các hàng hóa do công ty mua về và bán khác. Theo em điều này
không gây khó khăn về mặt quản lý vì tài khoản 1561 được chi tiết theo từng mặt hàng
nhưng về mặt chế độ là chưa đúng.
Mặt khác, Tổng công ty cũng không sử dụng TK 5121 - Doanh thu bán hàng nội
bộ để theo dõi doanh thu khi bán hàng cho các trạm huyện hạch toán phụ thuộc mà theo
dõi gộp luôn trên TK 5111 - Doanh thu hàng hóa

Về hình thức ghi sổ:
Hình thức Chứng từ ghi sổ áp dụng đối với Tổng công ty là phù hợp và rất thuận
lợi vì Tổng công ty đã áp dụng kế toán máy. Tuy nhiên Tổng Công ty đã thực hiện
không hoàn toàn giống với những quy định và chỉ dẫn của bộ tài chính mà đã bỏ một số
bước như không sử dụng một số Sổ và thẻ kế toán chi tiết (TK 6321) và không sử dụng
sổ đăng ký chứng từ ghi sổ để đối chiếu với bảng cân đối số phát sinh.


Về phương pháp hạch toán giá vốn hàng bán:
Tại Tổng công ty, kế toán áp dụng tính giá vốn hàng bán theo phương pháp bình
quân gia quyền khá phù hợp vì Tổng công ty có số lượng danh điểm hàng hóa không
quá nhiều nhưng khối lượng nhập, xuất của mỗi danh điểm lớn giúp giảm nhẹ việc
hạch toán chi tiết hàng hóa. Tổng Công ty cũng đã tiến hành trích lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho để hạn chế khả năng thiệt hại và tăng cường hiệu quả quản lý tài
chính.
Tuy nhiên đến cuối quý Tổng công ty mới xác định giá vốn một lần sẽ gây khó
khăn trong quản lý hàng hóa và giá bán. Thời gian xác định giá vốn càng dài càng làm
tăng nhược điểm của phương pháp bình quân gia quyền là không phản ánh đúng giá thị
trường.
Mặt khác, việc kế toán Tổng Công ty phân bổ tất cả chi phí thu mua hàng (TK
1562) trong kỳ vào trị giá vốn hàng tiêu thụ như hiện nay theo em là chưa thật chính
xác. Mặc dù giảm bớt khối lượng hạch toán nhưng chưa nếu hàng tồn kho cuối kỳ
nhiều thì loại bỏ các chi phí này khỏi hàng tồn kho cuối kỳ sẽ phản ánh không đúng kết
quả kinh doanh (nhất là trong điều kiện thị trường phân bón diến biến như hiện nay,
việc dự trữ phân bón với khối lượng lớn để gia tăng giá trị thương mại là điều không
tránh khỏi)

Về trích lập dự phòng phải thu khó đòi
Mặc dù tình hình tiêu thụ và khả năng thanh toán của khách hàng Tổng công ty từ
trước đến nay khá tốt nên Tổng công ty không thực hiện trích lập dự phòng phải thu
khó đòi. Nhưng trước những diễn biến bất lợi gần đây của thị trường của vật tư nông
nghiệp, khả năng khách hàng chậm trế trong thanh toán có thể sẽ là điều mà Tổng công
ty cần phải lưu tâm.

Về việc lập báo cáo
Ngày nay, kế toán quản trị đã trở thành một nội dung quan trọng và cần thiết cho
các nhà quản trị doanh nghiệp thế nhưng hiện nay công tác kế toán quản trị tại tổng

công ty vẫn chưa được chú trọng. Các báo cáo kế toán hiện nay vẫn mang tính cộng
dồn mà chưa phục vụ nhiều cho hoạt động quản trị kinh doanh.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán lưu chuyển hàng hóa và XĐKQKD
tại Tổng công ty
Trải qua một thời gian thực tập tại Tổng công ty CP Vật tư nông nghiệp Nghệ An,
em đã có cơ hội quan sát và kiểm nghiệm những lý luận được học. Nó thực sự đã giúp
em tiếp xúc thực tế một cách khoa học và cho em có một cái nhìn tổng thể về công ty

×