Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XĐKQ TT TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP QUẢNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.85 KB, 16 trang )

1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
HOÀN THIỆN KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XĐKQ TT TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP QUẢNG
BÌNH
3.1. Đánh giá.
3.1.1. Đánh giá chung
Với gần 20 năm hình thành và phát triển, Công ty cổ phần vật tư nông
nghiệp Quảng Bình đã có được chỗ đứng trên thị trường chiếm ưu thế trong
việc cung cấp mặt hàng phân bón cho tỉnh Quảng Bình. Cùng với sự phát
triển ngày càng lớn mạnh của Công ty, hệ thống quản lý tài chính của Công
ty cũng không ngừng phát triển, bộ máy kế toán của Công ty gọn nhẹ, thể
hiện tính khoa học và hợp lý, phù hợp với yêu cầu quản lý. Mọi công việc
của Phòng kế toán tài vụ đều đặt dưới sự kiểm soát của kế toán trưởng, vì
vậy việc công việc của các nhân viên kế toán không chồng chéo nhưng vẫn
có được sự liên hệ mật thiết với nhau.
Hiện tại đảm nhiệm công tác kế toán của Công ty gồm 07 người, với
trình độ đại học hoặc trung học và thời gian công tác lâu năm nên mọi người
đều có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong công tác kế toán. Công ty
đã tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung, tại văn phòng gồm 1 kế
toán trưởng và 02 kế toán viên, kế toán viên ở mỗi cửa hàng chỉ ghi hóa đơn
chứng từ rồi chuyển lên văn phòng, tại đây mới bắt đầu việc hạch toán và
tổng hợp ra các sổ sách và báo cáo. Hầu hết cán bộ kế toán trong Công ty
đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, làm việc có trách nhiệm, năng động
nắm bắt và cập nhật kịp thời chế độ kế toán, đưa lý thuyết ứng dụng vào
thực tế có hiệu quả. Mọi công việc kế toán đều được thực hiện một cách
chính xác, đồng bộ và thống nhất. Tuy nhiên, hình thức kế toán tập trung
này cũng có những hạn chế nhất định, do các cửa hàng ở rải rác trên địa bàn
tỉnh nên các nghiệp vụ bán hàng không được cập nhật liên tục hàng ngày,
SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
1


2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nguyên tắc kịp thời của kế toán chưa được thực hiện tốt. Đối với những
nghiệp vụ bán hàng với số lượng lớn việc phê duyệt phương thức bán hàng
cũng như phương thức thanh toán gặp nhiều khó khăn. Thêm nữa tình hình
thanh toán công nợ hoặc thu tiền bán hàng không được cập nhật liên tục có
thể dẫn tới việc nhân viên các cửa hàng chiếm dụng tiền của công ty cho
những mục đích cá nhân.
Về hệ thống chứng từ: Công ty sử dụng chứng từ kế toán đầy đủ chặt
chẽ về tính pháp lý, sau mỗi kỳ hạch toán chứng từ kế toán được phân loại
thành chứng từ quỹ, chứng từ lao động tiền lương, chứng từ vật tư, công cụ
dụng cụ và được lưu trữ bảo quản chặt chẽ, dễ kiểm tra dễ đối chiếu khi cần
thiết.
Về hệ thống tài khoản: Công ty sử dụng hệ thống tài khoản do Bộ Tài
chính ban hành, tuy nhiên để phù hợp với đặc điểm kinh doanh, yêu cầu
quản lý thì công ty có vận dụng một cách sáng tạo nhằm nhu cầu thực tiễn.
Về hệ thống sổ sách và hình thức ghi sổ: Công ty đã ứng dụng tiến bộ
của công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm kế toán để hỗ trợ cho công tác
kế toán gần 10 năm nay. Việc sử dụng phần mềm kế toán không những giảm
thiểu đáng khối lượng công việc cho nhân viên kế toán mà còn tăng độ
chính xác trong việc xử lí số liệu và kết xuất báo cáo. Thời gian đầu áp dụng
kế toán máy các nhân viên kế toán lưu trữ gần như tất cả các ghi chép, dữ
liệu kế toán ở trong máy tính, do đó khi máy xảy ra các sự cố vì nguyên
nhân của phần mềm hay phần cứng thì công ty đứng trước nguy cơ mất
thông tin kế toán. Vì hạn chế này nên định kì các kế toán viên tiến hành in ra
các sổ chi tiết sổ, tổng hợp hoặc các báo cáo để lưu trữ và phục vụ công tác
kiểm tra.Việc áp dụng kế toán máy đã làm cho hình thức ghi sổ (chứng từ
ghi sổ) mà công ty đang áp dụng không còn tuân theo các bước như vốn có
của nó, thêm nữa công ty không có sổ đăng kí chứng từ ghi sổ vì tất cả
chứng từ ghi sổ được lưu trong máy tính khi cần có thể gọi ra bảng thống kê

SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
2
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các chứng từ đó theo số thứ tự, điều này sẽ dẫn đến những khó khăn trong
việc kiểm tra quá trình ghi sổ cũng như gây khó khăn cho những người
muốn tiếp cận hệ thống thông tin kế toán của đơn vị.
Về hệ thống báo cáo và công tác phân tích tài chính: Kế toán đã lập
đầy đủ 04 báo cáo tài chính bắt buộc vào cuối mỗi quý, bên cạnh đó kế toán
còn lập thêm các báo cáo như: Bảng cân đối tài khoản, Tình hình thực hiện
nghĩa vụ Nhà nước, Bảng các chỉ tiêu tài chính... Trong đó, việc lập Bảng
chỉ tiêu tài chính chứng tỏ công ty đã có quan tâm tới việc tính toán các chỉ
tiêu tài chính để phân tích thực trạng tài chính của công ty. Điều này chứng
tỏ công tác kế toán ở công ty khá chuyên nghiệp, bộ phận kế toán thực sự là
cánh tay đắc lực của nhà quản lí. Tuy nhiên việc tính toán các chỉ tiêu này
chưa thường xuyên qua các năm, các chỉ tiêu còn chưa nhiều.
3.1.2. Đánh giá cụ thể về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ.
Với đặc thù của công ty là doanh nghiệp kinh doanh thương mại, quá
trình lưu tiêu thụ hàng hóa đóng vị trí trung tâm trong hoạt động của công
ty, nên kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ là phần hành kế toán
chủ yếu. Các phương thức bán hàng khác nhau được hạch toán với những
chứng từ và cách thức khác nhau. Ngoài việc tiêu thụ ngay tại văn phòng
trung tâm công ty có bốn cửa hàng là đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ chủ
yếu là bán lẻ hàng hóa tới tay người nông dân trên khắp đại bàn tỉnh. Trước
đây các cửa hàng có các kế toán viên hạch toán các nghiệp vụ bán hàng,
công ty và các cửa hàng này thanh toán với nhau qua các tài khoản 136 và
336. Tuy nhiên việc tổ chức này gây tốn kém về nhân lực cũng như làm phát
sinh sự không thống nhất trong công tác kế toán nên hiện nay công ty đã xóa
bỏ việc hạch toán qua TK 136 và 336, kế toán viên ở mỗi cửa hàng chỉ ghi
hóa đơn chứng từ rồi chuyển lên văn phòng, tại đây mới bắt đầu việc hạch

toán và tổng hợp ra các sổ sách và báo cáo.
SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
3
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Về chứng từ sử dụng và quá trình luân chuyển chứng từ, công ty đã sử
dụng Hóa đơn GTGT do bộ tài chính ban hành làm chứng từ ban đầu để
hạch toán quá trình mua hàng cũng như bán hàng, hóa đơn được đánh số thứ
tự theo yêu cầu quản lý của cơ quan thuế do đó việc sử dụng, luân chuyển
và bảo quản hóa phải rất chặt chẽ, nghiêm ngặt. Tuy nhiên có những trường
hợp đặc biệt là các nghiệp vụ bán hàng ở các cửa hàng thời gian từ khi phát
sinh nghiệp vụ cho đến khi hóa đơn về đến phòng kế toán còn chậm (phải
đến cuối tháng nhân viên bán hàng mới nộp hóa đơn lên văn phòng công ty)
do đó nó làm mất tính kịp thời của tình hình lưu chuyển hàng hóa tại công
ty. Thêm nữa việc lập hóa đơn GTGT hàng bán theo bảng kê bán lẻ cho thấy
nghiệp vụ kinh tế chưa được phản ánh kịp thời, khi hàng tiêu thụ xong rồi,
cuối tháng nhân viên bán hàng lập bảng kê bán lẻ nộp lên văn phòng công ty
lúc này nhân viên phòng kinh doanh mới viết hóa đơn GTGT. Nghiệp vụ
bán hàng không được phản ánh kịp thời từ đó dẫn đến tình hình công nợ
cũng không được cập nhật. Hóa đơn GTGT do người bán phát hành khi
công ty thu mua hàng được sử dụng làm phiếu nhập kho cho hàng nhập kho,
bộ phận kho không lập phiếu nhập kho, tương tự như vậy hóa đơn GTGT
xuất khi bán hàng kiêm luôn chứng năng của phiếu xuất kho. Phiếu nhập
kho và xuất kho chỉ được bộ phận kho lập trong một số trường hợp như khi
nhập hàng bán bị trả lại hay khi xuất kho hàng hóa cho tiêu dùng nội bộ.
Việc bỏ qua phiếu nhập và xuất kho cho nghiệp vụ nhập xuất hàng làm cho
công tác quản lý kho hàng yếu kém ví dụ như khó xử lý các nghiệp vụ mà số
lượng hàng nhập kho không đúng với số lượng trên hóa đơn do những tình
huống xảy ra trong quá trình vận chuyển.
Về hạch toán chi tiết hàng hóa, công ty sử dụng phương pháp thẻ song

song để hạch toán chi tiết hàng hóa, nó có ưu điểm là giúp quản lí chặt chẽ,
dễ dàng kiểm tra đối chiếu thông qua hệ thống sổ chi tiết, thêm nữa nó rất
SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
4
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phù hợp với các công ty có quy mô vừa phải, mật độ nhập xuất không lớn
như công ty CP nông nghiệp Quảng Bình.
Về phương pháp tính giá hàng xuất bán, công ty áp dụng phương
pháp bình quân cả kì dự trữ để xác định giá trị thực tế của hàng bán ra,
phương pháp này đơn giản, dễ hiểu, giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết
hàng hóa trong kì so với các phương pháp khác thay vào đó công việc kế
toán bị dồn phần lớn đến cuối kì do đến lúc đó mới xác định được giá đơn vị
bình quân kì vừa rồi.
Về kế toán doanh thu, việc ghi nhận doanh thu đã tuân thủ theo
nguyên tắc phù hợp và thận trọng, phòng kế toán tài vụ là nơi ghi nhận
doanh thu trên cơ sở tập hợp hóa đơn bán hàng và báo cáo bán hàng từ các
cửa hàng chuyển lên, sau đó tổng hợp doanh thu tiêu thụ theo từng mặt hàng
và xác định kết quả tiêu thụ cho cả công ty. Kế toán chưa xác định được kết
quả tiêu thụ trong kỳ cho từng mặt hàng tiêu thụ, trong môi trường kinh
doanh hiện nay điều này ít nhiều gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chiến
lược kinh doanh của Công ty vì nhà quản lí cần thông tin về tình hình tiêu
thụ của các mặt hàng để quyết định cơ cấu hàng hóa phù hợp nhằm tối đa
hóa lợi nhuận của doanh nghiệp.
Về theo dõi công nợ, kế toán đã mở sổ chi tiết để theo dõi tình hình
thanh toán công nợ của từng khách hàng thường xuyên, với những khách
hàng mua hàng qua các đơn vị trực thuộc (các cửa hàng) công ty mở chung
một TK chi tiết cho cả cửa hàng, do đó việc cập nhật tình hình công nợ của
các khách hàng đó không được kịp thời để phục vụ cho việc phê duyệt
phương thức thanh toán, khi cần phê duyệt cửa hàng trưởng gọi điện đến

công ty để hỏi lãnh đạo công ty, việc phê duyệt đó chủ yếu phụ thuộc vào
kinh nghiệm của cá nhân người lãnh đạo chứ chưa thực sự căn cứ vào thông
tin kế toán do phòng kế toán cung cấp.
SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
5
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Về các khoản dự phòng, để hạn chế những thiệt hại và những rủi to do
các nguyên nhân khách quan giảm giá hàng hóa, tình hình kinh tế suy
thoái... công ty đã có chính sách dự phòng cho các khoản giảm giá hàng hóa
và nợ phải thu khó đòi. Năm 2008 do tình hình lãi suất ngân hàng biến động,
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính trên toàn thế
giới, công ty đã trích dự phòng nợ phải thu khó một khoản là 600 triệu đồng.
Tuy nhiên việc trích lập dự phòng mang nhiều tính ước đoán nên đòi hỏi
người trích lập có chuyên môn cao, định giá chính xác, tính toán kĩ càng để
việc trích lập sát với tình hình thức tế.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế bán hàng và XĐKQ TT tại
công ty vật tư nông nghiệp Quảng Bình
Thứ nhất, về phương pháp tính giá xuất kho hàng hóa: Để cập nhật
kịp thời số liệu của hàng nhập xuất kho trong kỳ, kế toán nên sử dụng phư-
ơng pháp tính giá hàng xuất kho bình quân thời điểm, tức sau mỗi lần nhập
kho kế toán xác định giá xuất kho theo công thức.
Giá xuất kho Giá trị hàng tồn kho + Giá trị hàng nhập kho
Hàng hóa Số lượng hàng tồn kho + Số lượng hàng nhập kho
Với phương pháp này tại bất kỳ thời điểm nào trong kỳ hạch toán kế
toán cũng xác định được giá trị hàng xuất kho tiêu thụ, giá xuất kho phản
ánh được sự biến động giá cả của vật tư đầu vào. Phương pháp này tính toán
khá phức tạp và đòi hỏi kế toán phải cập nhật thường xuyên và liên tục các
nghiệp vụ phát sinh. Tuy nhiên với việc áp dụng phần mềm kế toán máy, kế
toán chỉ cần cài đặt là chương trình sẽ tự cập nhật và tính toán nên việc áp

dụng phương pháp tính giá này sẽ không gặp nhiều khó khăn.
SVTH: Phan Thị Hồng Nhung Kế toán 47C
6

×