Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH THỦY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.13 KB, 12 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH THỦY
3.1. Những nhận xét chung về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành tại công ty CP Đầu tư và Xây dựng Công trình thủy
Qua thời gian thực tập tại công ty CP Đầu tư và Xây dựng Công trình thủy, em nhận
thấy bộ máy kế toán của Công ty đã luôn có sự chuyển đổi thích hợp với những biến động
của những hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt chiều dài lịch sử từ lúc thành lập đến
nay. Với thời gian thực tập chỉ gần 3 tháng, em đã được tiếp xúc thực tế với công tác kế
toán ở Công ty đặc biệt là công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành công trình xây
lắp. Cùng với những kiến thức cơ bản về chuyên ngành kế toán đã được học ở trường kết
hợp sự nghiên cứu qua sách báo và tài liệu kế toán hiện hành, em đã thấy được những ưu
điểm trong công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành nơi đây cũng như những vấn
đề còn tồn tại. Qua đó để đưa ra một số kiến nghị giúp hoàn thiện công tác kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành công trình xây lắp tại Công ty.
3.1.1. Những ưu điểm
Về bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán được thiết kế phù hợp với đặc điểm của công ty, có sự liên kết chặt
chẽ giữa kế toán các xí nghiệp công trình với kế toán công ty để thực hiện công tác kế toán
một cách hiệu quả và nhanh gọn nhất. Do đặc điểm của công ty là có nhiều xí nghiệp trực
thuộc, đảm nhận những nhiệm vụ chuyên biệt trong thi công công trình, nên việc hạch toán
phụ thuộc của các xí nghiệp đối với Tổng Công ty là hợp lý (trừ trường hợp với chi nhánh
TP HCM). Đối với những công trình do nhiều Xí nghiệp công trình của Công ty thực hiện,
mỗi Xí nghiệp công trình thực hiện một phần, chứng từ phát sinh sẽ được tập hợp lại, ghi
nhận và chuyển số liệu về công ty để công ty tập hợp cuối cùng và tính giá thành sản
phẩm. Còn đối với những công trình chỉ cần 1 Xí nghiệp đảm đương thực hiện thì kế toán
xí nghiệp sẽ trực tiếp hạch toán chi phí và tính giá thành rồi mới chuyển số liệu về công ty.
Cách bố trí công tác kế toán và bộ máy kế toán với những chức năng như vậy rất phù hợp
với đặc điểm hoạt động của Công ty.
Về công tác tổng hợp chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất được tập hợp chi tiết theo công trình và theo từng tháng một nên tiện


theo dõi tình hình thi công đối với từng công trình. Bên cạnh đó, việc phòng kế toán kết
hợp với phòng vật tư và phòng kỹ thuật xây dựng nên những định mức tiêu chuẩn cho
khối lượng nguyên vật liệu cần dùng cho từng công trình, định mức về lao động hay chi
phí máy…giúp cho các chi phí phát sinh có thể kiểm soát được một phần, bám sát với dự
toán công trình.
Về công tác tính giá thành công trình
Giá thành công trình được tính theo giai đoạn và theo tiến độ công trình. Việc tính
toán như vậy giúp đảm bảo tính phù hợp cho những chi phí bỏ ra trong kỳ, giảm bớt khối
lượng công việc so với việc đơi công trình hoàn thành hết rồi mới tính giá thành. Cách tính
này rất phù hợp với đặc điểm hoạt động trong ngành xây lắp của Công ty.
3.1.2. Những vấn đề còn tồn tại
Thứ nhất, về việc luân chuyển chứng từ cho tập hợp chi phí và tính giá thành. Do đặc
điểm của doanh nghiệp xây lắp có nhiều công trình thi công ở những nơi xa xôi nên việc
tập hợp chứng từ cũng như số liệu kế toán thường bị chậm trễ và không đúng kỳ. Có
những khoản chi phí đã phát sinh từ nhiều tháng trước nhưng do số liệu không được phản
ánh kịp thời nên phải ghi nhận vào những tháng sau, làm ảnh hưởng đến tính kịp thời và
đúng kỳ trong nguyên tắc kế toán.
Thứ hai, giá thực tế vật liệu mua ngoài sử dụng cho sản xuất thi công chỉ bao gồm giá
mua trên hóa đơn, chi phí thu mua được hạch toán vào chi phí dịch vụ mua ngoài, các
khoản giảm giá, chiết khấu thương mại được hưởng ngoài hóa đơn được hạch toán vào thu
nhập khác.
Thứ ba, tất cả công cụ- dụng cụ xuất dùng cho sản xuất kinh doanh không phân biệt
giá trị, đều được phân bổ một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Thứ tư, về việc trích khấu hao TSCĐ cho các loại máy móc thiết bị tại công ty vẫn
tính theo phương pháp tròn tháng. Theo quy định hiện hành việc tính khấu hao phải theo
ngày. Hạch toán theo phương pháp tròn tháng có thể dẫn đến những sai lệch trong việc
phản ánh chi phí sản xuất.
Thứ năm, các khoản thiệt hại trong sản xuất vẫn chưa được theo dõi tại công ty. Do
việc thực hiện công trình có nhiều rủi ro nên việc xảy ra thiệt hại trong sản xuất là điều khó
có thể tránh khỏi. Tuy nhiên hiện nay công ty vẫn chưa theo dõi những khoản này.

Thứ sáu, về chất lượng tư vấn lập dự toán cho công trình Vấn đề chất lượng của công
tác tư vấn lập dự toán cho công trình là vấn đề chung mà tất cả các công trình xây dựng
đều gặp phải. Hiệu quả của công tác lập dự toán là rất kém. Giá trị hợp đồng xây dựng
được ký kết giữa nhà thầu và chủ đầu tư đều dựa trên những bản dự toán cho công trình mà
hai bên thỏa thuận thực hiện. Nếu như công tác lập dự toán không tốt, khi thực hiện công
trình trong thực tế, các chi phí phát sinh có thể thiếu hoặc thừa so với dự toán. Trường hợp
chi phí thực tế nhỏ hơn so với dự toan thì nhà thầu sẽ được hưởng lợi vì chủ đầu tư vẫn
thanh toán theo hợp đồng nếu không có gì thay đổi. Nhưng trường hợp này ít khi xảy ra.
Thông thường, do không nhìn thấy trước được những biến động của thị trường, dự toán
đưa ra mức chi phí quá thấp để có thể thực hiện công trình, nếu nhà thầu tiếp tục thực hiện
sẽ dẫn đến lỗ. Vì thế, dự toán sẽ được điều chỉnh, tuy nhiên, để điều chỉnh được dự toán,
phải trải qua rất nhiều những thủ tục, nhiều bước, rất mất thời gian, tiến độ công trình có
thể không được đảm bảo. Đây là vấn đề cần được xem xét.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành tại Công ty CP Đầu tư và Xây dựng Công trình thủy
3.2.1. Tính tất yếu của việc hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá
thành
Nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ đòi hỏi con người ngày càng phải quản lý chặt
chẽ hơn khâu tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Bởi trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, sự cạnh tranh chủ yếu là dựa vào giá cả. Giá cả của mọi loại sản phẩm nói chung
đều dựa trên giá thành sản xuất ra chúng. Do vậy, với giá thành sản xuất càng hợp lý, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ càng tăng cao.
Với những lý do đó, những nhà quản lý doanh nghiệp sẽ luôn quan tâm đến việc làm
sao để chi phí đầu vào bỏ ra là ít nhất mà kết quả cũng như hiệu quả thu lại là lớn nhất. Giá
thành của sản phẩm đầu ra sẽ thể hiện rất nhiều vấn đề. Nó cho biết chi phí họ đã bỏ ra để
có được sản phẩm, nó đã tối ưu hay chưa? Từ đó có cách điều chỉnh cho phù haợp. Các
thông tin về chi phí giá thành lại được tập hợp và xử lý tại bộ phận kế toán. Chính vì thế,
việc hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm là điều tất yếu
để đảm bảo hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp.
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tại Công ty

Tương ứng với những vấn đề còn tồn tại đã nêu ở trên, em xin đưa ra một số kiến
nghị để nhằm hoàn thiện những phần còn vướng mắc đó, để công tác kế toán chi phí giá
thành tại công ty hợp lý và chính xác hơn.
Kiến nghị thứ nhất
Về vấn đề luân chuyển chứng từ. Đây là vấn đề gặp phải ở hầu hết các công ty xây
dựng do địa bàn hoạt động trải rộng của các công trình. Chứng từ là bằng chứng chứng
minh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, là căn cứ để kế toán quản lý chi phí và ghi sổ kế toán
cho nên việc luân chuyển chứng từ kịp thời là rất cần thiết. Tuy nhiên, tại công ty vì nhiều
lý do khách quan và chủ quan mà chứng từ không được tập hợp kịp thời dẫn tới công việc
dồn vào cuối tháng, đôi khi việc hạch toán chi phí sản xuất không đảm bảo tính đúng kỳ
(Chi phí phát sinh kỳ này nhưng được phản ánh ở kỳ sau). Điều này đã làm ảnh hưởng đến
việc cung cấp thông tin cho lãnh đạo và ảnh hưởng phần nào đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.
Tuy nhiên để khắc phục được tình trạng này không phải là điều đơn giản và dễ thực
hiện do đặc thù của ngành. Đa số các công trình xây dựng thường phân tán và có thể phải
thi công ở những vùng đất xa xôi và chưa phát triển cơ sở hạ tầng cho giao thông vận tải
hay truyền thông, việc chứng từ phát sinh được tập hợp đến tay nhân viên kế toán ngay để
tiến hành ghi sổ kịp thời là điều khó có thể thực thi được. Ta không thể đòi hỏi mỗi công
trình phải cử ra một người chỉ thực hiện nhiệm vụ chuyển chứng từ. Để khắc phục ta có
thể có sử dụng biện pháp như sau: quy định về thời gian giao nộp chứng từ, quy định rõ
ràng chế độ thưởng phạt đối với việc hoàn nhập chứng từ. Đối với những công trình lớn thì
phòng kế toán có thể trực tiếp cử nhân viên của phòng tới công trình để hỗ trợ trong việc
ghi chép, cập nhật chứng từ,... để từ đó tạo điều kiện cho việc hoàn chứng từ được kịp thời,
đầy đủ theo đúng thời hạn. Tuy nhiên biện pháp này chỉ là về phía doanh nghiệp và không
giải quyết được triệt để vấn đề này. Theo ý kiến của bản thân em, giải pháp triệt để nhất
cho vấn đề này là sử dụng công nghệ truyền thông để hỗ trợ cho việc ghi chép kế toán cho
kịp thời. Hiện nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển giúp con người có thể truyền
thông tin ở bất kỳ khoảng cách nào. Ta có thể sử dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật ấy
để giúp bộ máy kế toán hoạt động hiệu quả hơn. Với cách làm này, mỗi một công trình sẽ
có một người chuyên đứng ra tập hợp tất cả các chứng từ phát sinh, sau đó nhập vào một

bảng kê chứng từ chi tiết. Công việc này chỉ đơn thuần là công việc thống kê các chứng từ
phát sinh của công trình vào một bảng Excel có mẫu nhất định, tương tự như một Nhật ký.
Bảng kê chứng từ này sẽ ghi lại số hiệu chứng từ, ngày tháng, giá trị chi tiết của từng
nghiệp vụ phát sinh. Sau đó bảng kê này được chuyển về công ty bằng thư điện tử và kế
toán tại công ty có thể dựa vào các thông tin đó để định khoản và theo dõi cho kịp thời. Khi
chứng từ gốc được đưa về đến công ty, kế toán chỉ phải kiểm tra tính chính xác của chứng
từ so với bảng kê để có điều chỉnh thích hợp.
Kết cấu của bảng kê này sẽ như sau:
STT
Chứng từ
Nội dung chi tiết của nghiệp vụ Số tiền
Số Ngày tháng
1 006789 12/3/2009
Mua 150l xăng của Công ty xăng dầu ABC,
đơn giá 12.000đ/lít, phục vụ cho chạy máy thi
công
1.800.000
2


Các thông tin được ghi chép ở dạng đầy đủ nhất để kế toán có thể định khoản được
chính xác nhất.
Để tính chính xác được cao hơn nữa, ta có thể quét lại các chứng từ phát sinh để gửi
về công ty (sử dụng máy Scan hình ảnh). Tuy nhiên, tất cả những kiến nghị này đều chỉ có
thể thực hiện khi cơ sở hạ tầng cho việc truyền thông thực sự được trang bị đầy đủ đến mọi
vùng miền của đất nước.
Kiến nghị thứ hai
Về việc tính giá vật tư. Theo quy định hiện nay, nếu doanh nghiệp tính thuế giá trị gia
tăng theo phương pháp khấu trừ, giá thực tế của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ mua
ngoài được tính theo công thức:

Giá thực = Giá mua + Chi phí _ Chiết khấu, giảm giá

×