Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NHẬP KHẨU TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY SẢN XUẤT XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.5 KB, 23 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN
NHẬP KHẨU TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ HOẠT
ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY SẢN XUẤT XUẤT NHẬP
KHẨU TỔNG HỢP HÀ NỘI
3.1. Đánh giá khái quát thực trạng kế toán tại công ty Haprosimex
3.1.1. Những ưu điểm
Bộ máy kế toán của công ty đang ngày càng được hoàn thiện và đóng
vai trò rất quan trọng trong việc tồn tại và phát triển của công ty.
* Về tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội là công ty với quy
mô khá lớn, bộ máy quản lý được tổ chức theo hình thức trực tuyến chức
năng, đứng đầu là Hội đồng quản trị, kế đó là Ban kiểm soát, Tổng giám đốc,
các Phó Tổng giám đốc và các phòng chức năng. Mô hình này được tổ chức
hợp lý, phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Mỗi phòng
ban chức năng đều đảm nhiệm những nhiệm vụ cụ thể do Ban lãnh đạo của
công ty giao phó, phù hợp với lĩnh vực và trình độ của các nhân viên. Điều
này tạo nên sự chuyên môn hóa trong công việc, nhờ đó hiệu quả công việc
được nâng cao. Hơn nữa, giữa Ban lãnh đạo công ty và các phòng chức năng
này luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên sự thống nhất trong bộ máy quản
lý. Bên cạnh đó, các cán bộ phòng ban đều ở trình độ đại học, năng động, có
trách nhiệm với công việc. Tất cả những yếu tố này góp phần tạo nên sự phát
triển ngày càng vượt bậc của công ty.
* Về tổ chức bộ máy kế toán:
Bộ máy kế toán của công ty gồm 8 người với trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, có trách nhiệm với công việc, thường xuyên tự bồi dưỡng và
cập nhật các chuẩn mực, quy định kế toán mới. Các phần hành, công việc kế
toán đều được giao cụ thể, rõ ràng cho từng cá nhân, phù hợp với năng lực
từng người. Chính vì sự phân công công lao động khoa học, chuyên môn hoá
cao trong từng phần việc nên công tác kế toán rất hiêu quả và có độ chính xác
cao. Quan hệ giữa các loại lao động trong bộ máy kế toán là quan hệ theo
kiểu trực tuyến, kế toán trưởng là người trực tiếp điều hành các nhân viên kế


toán phần hành mà không thông qua khâu trung gian nhận lệnh. Nhờ đó, mối
quan hệ trong bộ máy trở nên đơn giản hơn.
Hơn nữa, Báo cáo tài chính hàng năm của công ty được kiểm toán
trước khi trình lên Hội đồng quản trị đã làm tăng trách nhiệm ý thức của mỗi
nhân viên kế toán.
Bên cạnh đó, phòng kế toán có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận,
phòng ban khác trong công ty, do đó các số liệu, chứng từ có thể được cập
nhật kịp thời, chính xác.
Bộ máy kế toán tại công ty tổ chức theo mô hình tập trung, đơn vị chỉ
mở một bộ sổ kế toán, tổ chức một bộ máy kế toán để thực hiện tất cả các giai
đoạn hạch toán ở mọi phần hành kế toán. Phòng kế toán trung tâm phải thực
hiện toàn bộ các công tác kế toán, từ việc thu nhận chứng từ, ghi sổ đến việc
xử lý thông tin và lập các Báo cáo tài chính. Ở các nhà máy và xí nghiệp có
nhiệm vụ theo dõi, hạch toán ban đầu về ngày công, giờ công lao động, lượng
nguyên vật liệu tiêu hao, chi phí phát sinh ở phân xưởng… và chuyển chứng
từ về cho phòng kế toán trung tâm chứ không hạch toán riêng. Mô hình này
tạo điều kiện cho công tác kế toán có thể tổng hợp, thống nhất, không bị phân
tán, mang lại cái nhìn tổng quan cho toàn công ty. Hơn nữa lại có thể tiết kiệm
được chi phí của công ty cho công tác kế toán.
* Về việc vận dụng chế độ kế toán:
- Hệ thống chứng từ:
Hệ thống chứng từ kế toán được sử dụng nhất quán từ tổng công ty đến
các đơn vị trực thuộc đã tạo ra sự thống nhất trong việc phản ánh chính xác và
đầy đủ nội dung kinh tế của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Các chứng từ về
cơ bản là theo đúng quy định của Bộ tài chính. Hệ thống chứng từ được sử
dụng đầy đủ, hợp lý, phục vụ nhu cầu quản lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Chứng từ được lập được ghi đầy đủ và chính xác tất cả các thông tin, có đủ
chữ ký theo quy định, người phê duyệt phải có đủ thẩm quyền.
Công ty cũng đã xây dựng sẵn trình tự luân chuyển chứng từ khoa học,
không chồng chéo, phù hợp với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và có sơ đồ hạch

toán kèm theo, đảm bảo theo dõi cụ thể, chi tiết và phản ánh kịp thời sự biến động
tăng giảm của các khoản mục tài sản, nguồn vốn. Cuối mỗi tháng, các chứng từ
đều được phân loại và lưu trữ theo quy định, đảm bảo khoa học và dễ tìm.
- Hệ thống tài khoản:
Công ty áp dụng hệ thống tài khoản kế toán do Bộ tài chính ban hành
một cách hợp lý và phù hợp với điều kiện của công ty. Hệ thống tài khoản
công ty sử dụng trong hạch toán là khá chi tiết, một số tài khoản chi tiết đến
cấp 3 để tiện cho việc theo dõi đối tượng khách hàng cũng như từng khoản
mục riêng biệt, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của công ty.
- Sổ sách kế toán:
Hệ thống sổ sách kế toán được sử dụng tương đối đầy đủ từ sổ chi tiết
đến sổ tổng hợp. Các sổ sách được thiết kế phù hợp với đặc điểm công tác kế
toán của công ty. Hình thức ghi sổ áp dụng là Nhật ký chung, đơn giản, dễ sử
dụng, dễ áp dụng kế toán máy và tránh được việc ghi chép trùng lặp mà vẫn
đảm bảo cung cấp thông tin trung thực, kịp thời phục vụ cho Ban giám đốc
trong việc ra quyết đinh, phù hợp với số lượng nhân viên kế toán của công ty.
Công ty sử dụng kế toán máy nên hạn chế được việc sai sót trong việc
ghi chép, chuyển số liệu. Việc lên các sổ kế toán và lập các báo cáo được thực
hiện tự động nên giảm thiểu được khối lượng công việc cho các kế toán viên.
Việc sử dụng phần mềm kế toán máy còn giúp tiết kiệm chi phí cho công ty
như chi phí giấy, mực, chi phí lưu giữ toàn bộ chứng từ, sổ sách kế toán. Với
phần mềm kế toán, các công việc trở nên dễ dàng và đơn giản hơn.
- Báo cáo kế toán:
Công ty áp dụng đầy đủ hệ thống báo cáo theo quy định của Bộ tài
chính là Bàng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.
* Về việc tổ chức kiểm tra kế toán:
Việc tổ chức kiểm tra công tác hạch toán kế toán được thực hiện bởi kế
toán trưởng. Công việc kiểm tra diễn ra khá thường xuyên giúp cho công tác kế
toán được thực hiện theo đúng trình tự và các sai sót được sửa chữa kịp thời.

3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công tác hạch toán kế toán tại công ty
còn tồn tại một số hạn chế sau:
* Về bộ máy kế toán:
Với một công ty đa dạng trong lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu như
công ty sản xuất – xuất nhập khẩu tổng hợp như Haprosimex thì số lượng kế
toán 8 người là chưa đủ. Hơn nữa công ty lại thiết lập bộ máy kế toán theo
hình thức tập trung nên khối lượng công tác kế toán là khá lớn. Điều này gây
không ít khó khăn cho các nhân viên kế toán khi khối lượng công việc nhiều,
đặc biệt là thời điểm cuối kỳ.
* Về hệ thống sổ sách:
Hệ thống sổ sách của công ty còn có một điểm tồn tại nhỏ, đó là mẫu
sổ Nhật ký chung còn thiếu chỉ tiêu “Đã ghi Sổ cái” và mẫu sổ cái thì thiếu
chỉ tiêu Nhật ký chung (Trang, STT dòng), điều này là không thống nhất với
chế độ kế toán.
* Về báo cáo kế toán:
Công ty chỉ lập các báo cáo tài chính chứ không lập các báo cáo kế toán
quản trị. Như vậy, công tác kế toán quản trị tại công ty chưa được quan tâm
đúng mực trong khi đây là một phần rất quan trọng để đáp ứng nhu cầu quản
trị, giúp cho các cấp lãnh đạo có thể đánh giá chính xác tình hình sản xuất
kinh doanh ở từng bộ phận, chi nhánh, và tình hình tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá ở từng thị trường để đưa ra những quyết định chính xác.
3.2.Đánh giá thực trạng kế toán nhập khẩu hàng hoá, tiêu thụ hàng nhập khẩu
và xác định kết quả kinh doanh hoạt dộng nhập khẩu tại công ty Haprosimex
3.2.1. Ưu điểm
* Về phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác ra đồng tiền sử dụng
trong kế toán:
Công ty sử dụng tỷ giá thực tế tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ để
hạch toán, phương pháp này giúp phản ánh chính xác giá trị thực của ngiệp
vụ, đặc biệt trong tình trạng tỷ giá ngoại tệ biến động liên tục như hiện nay.

* Về tài khoản sử dụng:
Do hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Haprosimex đa dạng
với nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau, do đó đối với tài khoản 156, công
ty đã chi tiết theo từng mặt hàng cụ thể. Việc phân chia này giúp cho công ty
có thể theo dõi cụ thể tình hình tồn kho và lượng tiêu thụ của từng măt hàng,
để từ đó có biện pháp điều chỉnh lượng tồn kho hợp lý. Bên cạnh đó, công ty
cũng chi tiết các tài khoản 632, 511 theo hoạt động kinh doanh (xuất khẩu,
nhập khẩu, thành phẩm, cung câp dịch vụ), do đó có thể xác định chính xác
kết quả kinh doanh của từng hoạt động. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng,
giúp công ty có thể xác định hoạt động nào mang ý nghĩa chiến lược, hoạt
động nào cần cải tiến công tác quản lý và tiêu thụ, nhờ đó các nhà lãnh đạo có
thể đưa ra những quyết định đúng đắn.
* Về việc xác định kết quả tiêu thụ:
Việc xác định kết quả tiêu thụ của công ty được tiến hành vào cuối mỗi
quý một cách chính xác và kịp thời, giúp cho các nhà lãnh đạo có thể nắm bắt
thường xuyên tính hính kinh doanh của công ty để có biện pháp điều chỉnh
nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty.
* Về quy trình hạch toán:
Quy trình hạch toán nghiệp vụ nhập khẩu và xác định kết quả tiêu thụ
hàng nhập khẩu của công ty nhìn chung đã tuân thủ các quy định, hướng dẫn
của chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán.
* Về vấn đề tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu
Phần lớn công ty luôn tìm kiếm các đơn đặt hàng từ các khách hàng
trong nước mới nhập hàng về. Phương thức tiêu thụ chủ yếu là bán buôn vận
chuyển thẳng. Điều này tránh được tình trạng ứ đọng hàng hoá trong kho do
nhập về mà không bán được và tiết kiệm được chi phí lưu kho bãi.
3.2.2. Tồn tại và nguyên nhân
* Về phương pháp tính giá hàng hoá xuất kho:
Công ty sử dụng phương pháp giá thực tế bình quân gia quyền để tính
giá hàng xuất. Phương pháp tính giá này giúp giảm nhẹ được công việc tính

toán, tuy nhiên độ chính xác không cao. Hơn nữa, việc tính giá phải đợi đến
cuối tháng, sau khi có số liệu tổng hợp về số lượng và giá trị tồn, nhập trong
cả tháng mới có thể tính được giá xuất. Điều này làm cho công việc tính toán
bị dồn vào cuối tháng, số liệu không được cập nhật kịp thời, gây ảnh hưởng
không chỉ công tác kế toán mà còn ảnh hưởng công tác quản lý.
* Về thời điểm kiểm kê hàng tồn kho:
Việc kiểm kê hàng tồn kho được thực hiện vào cuối quý khiến cho việc
theo dõi tình hình hàng tồn kho không được liên tục và cập nhật, dẫn đến việc
điều chỉnh kế hoạch sản xuất sẽ bị động và không chính xác, gây hiện tượng ứ
đọng vốn hoặc thiếu hàng để bán. Vì thực tế, việc điều chỉnh kế hoạch sản
xuất không chỉ phụ thuộc vào số lượng sản phẩm, hàng hoá sẽ tiêu thụ mà còn
phụ thuộc vào số lượng hàng tồn kho.
* Về tài khoản hạch toán:
Thứ nhất, theo quy định của chế độ kế toán hiện hành, hàng hoá mua về
nếu phát sinh chi phí thu mua thì phải được hạch toán vào tài khoản 156 và
chi tiết hai tiểu khoản:
1561: Giá mua hàng hoá
1562: Chi phí thu mua hàng hoá
Khi đó trên tài khoản 156 thể hiện tổng giá trị hàng hoá đã mua bao gồm
giá mua hàng hoá và chi phí thu mua. Nhưng công ty đã không phân loại tài
khoản 156 thành hai tiểu khoản mà chỉ có một tiểu khoản 1561, như vậy thì
không thể xác định rõ ràng giá mua và chi phí thu mua, trái với quy định của
chế độ kế toán ban hành. Nguyên nhân là do công ty hạch toán các chi phí
phát sinh trong quá trình thu mua vào chi phí bán hàng (TK 641).
Thứ hai, công ty không sử dụng tài khoản 151 – Hàng mua đang đi
đường mặc dù khi hàng hoá nhập khẩu được thông quan, để vận chuyển về
kho của công ty hay chuyển bán thẳng cho khách hàng cũng phải mất một
thời gian nhất định. Thực tế vào cuối tháng, lượng hàng mua đang đi đường
của công ty là khá lớn, thế nhưng công ty lại không phản ánh lượng hàng hóa
này vào tài khoản 151 nên làm cho chỉ tiêu tài sản ngắn hạn của công ty bị

giảm. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý hàng hoá và giảm tính
chính xác quyết định của ban lãnh đạo.
Thứ ba, công ty không sử dụng tài khoản 007 – Nguyên tệ các loại.
Nghĩa là trong quá trình thanh toán tiền hàng bằng ngoại tệ cho nhà cung cấp,
khi xuất ngoại tệ công ty không phản ánh trên TK 007 làm cho việc theo dõi
ngoại tệ không được cập nhật và sát sao.
* Về các khoản lập dự phòng
Thứ nhất, công ty không mở tài khoản 139, nghĩa là không lập dự
phòng nợ phải thu khó đòi mặc dù khoản mục phải thu khách hàng chiếm tỷ
trọng không nhỏ trong bảng cân đối kế toán của công ty. Tuy công ty có nhiều
khách hàng lâu năm và uy tín nhưng vẫn có một số khoản phải thu khách
hàng công ty không thu hồi được do khách hàng không có khả năng trả nợ.
Việc không lập dự phòng nợ phải thu khó đòi làm giảm tính tự chủ trong việc
xử lý những tình huống xấu có thể xảy ra.
Thứ hai, mặc dù mặt hàng kinh doanh của công ty rất đa dạng, có nhiều
mặt hàng như đồ may mặc có thể bị lỗi mốt, mặt hàng sắt thép phụ thuộc
nhiều vào tình hình biến động của thị trường… nhưng công ty không lập dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, nghĩa là không mở tài khoản 159. Chính vì việc
không lập dự phòng mà nhiều kỳ kinh doanh công ty thiệt hại không nhỏ và
tính chủ động trong tài chính cũng bị giảm sút đáng kể.
* Về công tác bán hàng:
Công ty chưa chú trọng đến các hình thức ưu đãi về giá cả, hầu như
không có chính sách chiết khấu thanh toán chiết khấu thương mại để khuyến
khích khách hàng mua nhiều hay đẩy nhanh quá trình thanh toán. Hơn nữa
việc thanh toán chủ yếu là thanh toán chậm, công tác đôn đốc thu hồi nợ chưa
tốt, dẫn đến tình trạng nguồn vốn của công ty bị chiếm dụng nhiều.
* Về công tác kế toán chi phí bán hàng:
Trong công tác chi phí bán hàng, kế toán không phân bổ chi phí bán
hàng (mà đã gồm cả chi phí thu mua) cho số hàng bán ra và số hàng chưa tiêu
thụ, mà toàn bộ chi phí bán hàng trong kỳ đều được kết chuyển vào tài khoản

911 để xác định kết quả kinh doanh. Điều này dẫn đến tình trạng có những kỳ
chi phí bán hàng rất lớn nhưng vẫn còn nhiều hàng tồn kho làm cho kết quả
kinh doanh bị lỗ, không phản ánh đúng thực trạng kinh doanh.
* Về công tác kế toán chi phí thu mua trong nghiệp vụ nhập khẩu trực tiếp
Công ty hạch toán toàn bộ chi phí thu mua liên quan đến lô hàng nhập
khẩu (phí mở L/C, chi phí kiểm tra, bốc dỡ, vận chuyển, phí, lệ phí hải
quan…) vào TK 641 vì công ty cho rằng chi phí thu mua thường là không lớn
nên không cần phải phân bổ vào giá vốn hàng bán, làm đơn giản hoá công tác
kế toán và điều này không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cuối cùng của
công ty. Nhưng về bản chất là không phản ánh đúng các khoản chi phí của
nghiệp vụ phát sinh, giá vốn hàng bán được phản ánh thấp hơn thực tế làm
cho việc phân tích kết quả tiêu thụ không chính xác. Hơn nữa công ty cũng
không thể biết chính xác chi phí thu mua hàng hoá trong kỳ như thế nào để có
biện pháp kiểm soát và giảm thiểu.
* Về sổ chi tiết và bảng tổng hợp chi tiết nghiệp vụ tiêu thụ hàng nhập khẩu
Công ty không mở sổ chi tiết theo dõi doanh thu, giá vốn cho từng loại
hàng hoá. Chính vì thế không thể xác định kết quả tiêu thụ của từng loại hàng.
Do vậy công ty không thể biết được mặt hàng nào kinh doanh có lãi, mặt
hàng nào chưa tốt để có thể đưa ra chiến lược kinh doanh hay biện pháp khắc
phục cho từng mặt hàng.
Hơn nữa công ty cũng không lập sổ chi tiết bán hàng, bảng tổng hợp
chi tiết hàng bán. Điều này khiến cho công việc theo dõi tình hình bán hàng
gặp nhiều khó khăn.
* Về phương pháp xác định kết quả kinh doanh hoạt động nhập khẩu:
Khi xác định kết quả kinh doanh hoạt động nhập khẩu, công ty đã
không xét đến doanh thu, chi phí tài chính. Điều này sẽ làm cho kết quả kinh
doanh hoạt động nhập khẩu sẽ không được phản ánh chính xác, đặc biệt khi
mà hoạt động nhập khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá ngoại tệ nên doanh
thu, chi phi hoạt động nhập khẩu không phải là một khoản nhỏ. Trong nhiều
giai đoạn khi mà tình hình tỷ giá ngoại tệ biến thiên liên tục, doanh thu, chi

phí tài chính là rất lớn. Việc không phản ánh doanh thu, chi phí tài chính vào
kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu sẽ làm sai lệch kết quả, ảnh hưởng đến
quyết định và chiến lược của ban lãnh đạo.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán nhập khẩu, tiêu
thụ và xác định kết quả hoạt động nhập khẩu tại công ty Haprosimex
3.3.1. Sự cần thiết và nguyên tắc hoàn thiện công tác kế toán nhập khẩu,
tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động nhập khẩu tại công ty Haprosimex
Trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay, đặc biệt là kể từ khi Việt
Nam gia nhập WTO mang đến cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội
và thách thức mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình, năng động,
nhạy bén đối với mọi sự biến động của thị trường.
Lĩnh vực nhập khẩu là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xu thế hội
nhập toàn cầu này. Không thể phủ nhận với sự mở cửa nền kinh tế như hiện
nay, hoạt động nhập khẩu trở nên dễ dàng hơn. Nhưng song song với nó là sự

×