DIỄN ĐÀN
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM tại một số đô thị việt nam
KTS. Phạm Thị Nhâm (VIUP)
ThS.KTS. Nguyễn Thị Hồng Diệp (VIUP)
Experience in urban agriculture development model in some cities of Vietnam
As Vietnam is a developing country, urbanization takes place strongly in major urban areas and suburban rural areas. In fact,
cities directly under the Central Government such as Hanoi, Ho Chi Minh City, Da Nang, Hai Phong, Can Tho, and the first
class cities in the period 2010-2020 tend to expand space from the urban core center to the periphery. The process of strong
urbanization in the peri-urban areas is posing an urgent problem as it is necessary to build agricultural production models
suitable to land and market conditions ... Successful construction and development of the peri-urban agriculture model not only
meets the needs of the people for food, fresh and safe food, but also meets the requirements of urban landscapes, increasing
green space.
The article introduced some experiences of developing typical suburban agricultural models across the country such as: Model
of agricultural production in the direction of modern industry combined with trade in services and rural tourism in Minh Khai
village, Nam Tu Liem, or a model of growing clean vegetables in Long Bien district, Hanoi; safe vegetable growing model in Ho
Chi Minh City; Agricultural urban models in Binh Duong, Da Nang, Da Lat ... These are models that have been developing and
are good lessons for other urban areas of Vietnam in the process of forming and developing economic models for a sustainable
suburban area.
V
iệt Nam là quốc gia đang phát triển nên quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở các vùng đô thị lớn và khu vực nông
thôn ven đô. Trên thực tế, các thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ,
các đô thị loại I trong giai đoạn 2010-2020 có xu hướng mở rộng không gian từ trung tâm lõi đô thị ra ngoại vi. Quá
trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở vùng ven đô đang đặt ra vấn đề cấp bách là phải xây dựng các mô hình sản xuất nông
nghiệp phù hợp với điều kiện đất đai, thị trường… Việc xây dựng, phát triển thành công mô hình nông nghiệp ven đô không chỉ
đáp ứng nhu cầu của người dân về lương thực, thực phẩm tươi sống và an toàn, mà còn đáp ứng yêu cầu cảnh quan đô thị,
tăng thêm không gian xanh.
Bài viết đã giới thiệu một số kinh nghiệm phát triển mô hình nông nghiệp ven đô điển hình trên cả nước như: Mô hình sản xuất
nông nghiệp theo hướng công nghiệp hiện đại kết hợp thương mại dịch vụ và du lịch nông thôn ở làng Minh Khai, Nam Từ
Liêm, hay mô hình trồng rau sạch ở quận Long Biên, Hà Nội; mô hình trồng rau an toàn ở TP.HCM; các mô hình đô thị nông
nghiệp ở Bình Dương, Đà Nẵng, Đà Lạt… Đó là những mô hình đã và đang phát triển, là những bài học tốt cho các đô thị khác
của Việt Nam trong quá trình hình thành phát triển mô hình kinh tế cho khu vực vùng ven bền vững.
68
SË 103+104 . 2020
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Lời nói đầu
Theo dự báo quốc gia, tỷ lệ đô thị hoá toàn
quốc đến năm 2035 đạt 50-55% (năm 2017
là 35,03%) (1). Việt Nam là quốc gia đang
phát triển nên quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh mẽ ở các vùng đô thị lớn và khu vực
nông thôn ven đô. Trên thực tế, các thành
phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội,
TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ,
các đô thị loại I trong giai đoạn 2010-2020
có xu hướng mở rộng không gian từ trung
tâm lõi đô thị ra ngoại vi. Khu vực ven các
thành phố lớn thường là đầu mối gắn kết
hoạt động sản xuất, thương mại giữa hai thị
trường đô thị - nông thôn, cung cấp nguyên
liệu, lao động cho đô thị, là nơi bố trí các
đầu mối HTKT của đô thị cũng như các
công trình hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, là
cầu nối liên kết đô thị trung tâm với các đô
thị vệ tinh khác trong vùng đô thị lớn.
Hiện nay, khu vực ngoại thành các đô thị
lớn Việt Nam đang thiếu các định hướng
và công cụ quản lý cho giai đoạn quá độ
chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị. Đô thị
hóa vùng nông thôn ven đô có nhiều biến
động về nhân khẩu, đất đai dẫn đến cấu
trúc nông thôn truyền thống bị phá vỡ đột
ngột, hạ tầng quá tải gây nên những vấn
nạn về môi trường; nhà ở, hạ tầng xã hội
và hạ tầng kỹ thuật chưa kịp đáp ứng nhu
cầu; đất đai xây dựng dàn trải thiếu kiểm
soát, mất đất nông nghiệp, an ninh trật tự
xã hội mất ổn định là những hệ lụy đang
diễn ra tại các khu vực ven đô các thành
phố lớn.
1. Kinh nghiệm thành phố Hà Nội,
kinh nghiệm về nông nghiệp đô thị
a. Vai trò nông nghiệp đô thị đối với thành
phố Hà Nội
- Nông nghiệp đô thị góp phần cung ứng
nguồn lương thực, thực phẩm tươi sống tại
chỗ cho các đô thị;
- Nông nghiệp đô thị tạo việc làm và thu
nhập cho một bộ phận dân cư sinh sống
bằng sản xuất nông nghiệp nay bị mất đất
do đô thị hóa như ở quận Long Biên, Cầu
Giấy, Hoàng Mai, Tây Hồ…
- Nông nghiệp đô thị dễ tiếp cận các dịch
vụ đô thị, mở ra cơ hội mới cho phát triển
chiều sâu theo hướng nông nghiệp công
nghệ cao.
- Nông nghiệp đô thị góp phần tạo cảnh
quan, giảm ô nhiễm môi trường và cải thiện
sức khỏe cộng đồng.
Với việc mở rộng diện tích thành phố năm
2008, Hà Nội đã và đang ưu tiên phát triển
nông nghiệp cả ở nội thị và ngoại thị. Đối
với nội thị, nông nghiệp tồn tại trong đô thị
và vùng ven ở nước ta đã có từ xa xưa,
chỉ riêng Hà Nội đã có húng Láng, rau Tây
Tựu, hoa Ngọc Hà, đào Nhật Tân, cá rô
Đầm Sét, tôm cá Hồ Tây, rau muống trong
ao hồ, kênh mương… Có một xu thế đang
diễn ra rất mạnh hiện nay là nhiều gia đình
ở Hà Nội cũng bắt đầu trồng rau để phục
vụ bữa ăn gia đình.
Để có rau sạch, nhiều hộ đã trồng rau vào
chậu cảnh, hộp xốp, thậm chí cải tạo cả
tầng thượng thành một vườn rau, tận dụng
mọi góc ngõ để các chậu rau, một số hộ
bắt đầu trồng rau theo phương pháp thủy
canh trên ban công và sân thượng. Các
loại rau được trồng đa phần đều dễ chăm
sóc như rau muống, rau lang, cải cúc kèm
với rau ăn sống như xà lách, rau diếp, rau
má, tía tô, mùi tàu…
b. Kinh nghiệm tại phường Minh Khai,
quận Bắc Từ Liêm
Hà Nội với vai trò là thủ đô của cả nước,
hiện đang là thành phố có tốc độ đô thị hóa
cao nhất. Nhiều vùng ven đô, ngoại thành
cũ nay được nằm trong quy hoạch của các
khu vực đô thị, các trung tâm kinh tế, chính
trị mới của thủ đô trong tương lai gần. Đô thị
hóa đã mang lại nhiều yếu tố tích cực cho
sự phát triển của khu vực này như hệ thống
cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư nâng
cấp, khả năng tiếp cận của người dân với
các tiện ích xã hội như văn hóa, y tế, giáo
dục được nâng cao, thu nhập của người
dân được cải thiện đáng kể… Tuy nhiên, đô
thị hóa với tốc độ cao và mang tính tự phát
cũng đã mang lại những ảnh hưởng tiêu
cực đối với khu vực ven đô, ngoại thành cũ
của thành phố. Quá trình đô thị hóa đã dẫn
đến sự phá vỡ cấu trúc làng xã đã được
xây dựng từ lâu đời, làm mai một các yếu
tố truyền thống. Đô thị hóa cũng là nguyên
nhân cho sự suy thoái và thất truyền của
những làng nghề và nghề truyền thống
cùng những sản phẩm đặc trưng, hay việc
biến mất, thoái hóa của nhiều giống cây
trồng đặc sản quý…
Trước đây không lâu, làng quê ven đô chủ
yếu vẫn là trồng lúa, bên cạnh đó còn sản
xuất rau mầu, hoa quả để cung cấp cho
nội thành. Ngay cả những làng nghề khi
chưa phát triển tập trung thành phường
phố như ở những phố cổ thì hình ảnh làng
quê cũng không khác là bao so với làng
quê ở các tỉnh. Nhưng sau hơn 10 năm
đô thị hóa, nhiều làng ngoại thành của Hà
Nội đã bị đô thị hóa hoàn toàn, chỉ còn
lại dấu tích của những đình chùa xưa như
làng Nghóa Đô.
Làng Minh Khai trước đây là một xã thuộc
huyện Từ Liêm cũ, là khu vực có tốc độ
phát triển cao nhất của thành phố Hà Nội.
Từ lâu địa danh này đã nổi tiếng với hai
loại trái cây đặc sản là cam Canh và bưởi
Diễn. Theo định hướng Quy hoạch chung
thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn
đến 2050 được phê duyệt tại Quyết định số
1259/QĐ-TTg, Minh Khai là một làng nằm
trong hành lang sông Nhuệ.
Tuy nhiên, ngày 27/12/2013, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP,
theo đó huyện Từ Liêm được tách thành
quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, xã
(1) Tổng cục Thống keâ
SË 103+104 . 2020
69
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Minh Khai theo đó trở thành phường Minh
Khai, quận Bắc Từ Liêm. Như vậy, có thể
thấy trong tương lai tại đây sẽ là nơi diễn ra
sự tranh chấp một cách rất mạnh mẽ giữa
nông thôn và đô thị.
Minh Khai có các đặc điểm về hiện trạng sử
dụng đất, kinh tế xã hội, lao động như sau:
Với những đặc trưng nêu trên, việc đưa
Minh Khai trở thành một “Làng đô thị” theo
định hướng phát triển nông nghiệp đô thị
đặc thù với hai loại trái cây đặc sản là rất
thuận lợi. Tuy nhiên, từ lâu, nông nghiệp
là mô hình kinh tế cho giá trị sản xuất thấp
nhất trong các mô hình sản xuất. Chính vì
vậy, để tạo động lực phát triển, chúng ta
cần phải có giải pháp nâng cao giá trị cho
nông nghiệp mà ở đây việc kết hợp giữa
phát triển nông nghiệp với du lịch nông
thôn là một giải pháp phù hợp.
Mô hình chung đề xuất như sau:
Phát triển kinh tế Minh Khai bằng mô hình
sản xuất nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hiện đại kết hợp thương mại dịch
vụ và du lịch nông thôn, cụ thể: Tập trung
phát triển hai loại cây ăn quả đặc sản cam
Canh và bưởi Diễn theo hướng công nghiệp
hiện đại kết hợp phát triển du lịch nông thôn
và các dịch vụ kèm theo như: Nghỉ dưỡng
cuối tuần, ẩm thực… Trong đó phát triển cân
đối hài hòa giữa hai mô hình trồng trọt theo
dạng cá thể và tập trung.
Đưa ra các sản phẩm du lịch được chế
biến từ những đặc sản của địa phương.
n
n Đối với công tác quy hoạch xây dựng cần
thực hiện những giải pháp sau:
- Khoanh vùng cải tạo, quản lý đối với khu
vực làng xóm hiện trạng nhằm hạn chế gia
tăng mật độ cư trú ở khu vực này đồng thời
bố trí quỹ đất ở mới đáp ứng cho sự phát
triển, gia tăng dân số.
- Khoanh vùng chức năng cho đất sản xuất
nông nghiệp với các loại hình chức năng sử
dụng đất khác nhằm đảm bảo quỹ đất cho
sản xuất nông nghiệp.
- Bố trí các hạng mục công trình hạ tầng xã
hội đầy đủ theo tiêu chuẩn đô thị.
- Tổ chức thêm không gian trưng bày, giới
thiệu các sản vật địa phương.
- Quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật.
c. Mô hình trồng rau sạch quận Long Biên
Quận Long Biên là một trong những quận
n Ngoài việc phát triển hai loại cây trồng đặc
sản trên, cần tổ chức xen canh một số loại
cây trồng đang cho hiệu quả kinh tế cao như
hoa, rau sạch để nhằm tạo ra sự phong phú,
đa dạng về hệ sinh thái nông nghiệp.
n Phát triển mô hình du lịch nông nghiệp:
Du lịch nông thôn kết hợp hưởng thụ sản
vật địa phương. Trong đó nghiên cứu việc
liên kết với các trung tâm văn hóa, du lịch
khác nhằm tạo thành hệ thống tuyến du
lịch phong phú, đa dạng.
Hình 1. Tỷ trọng các ngành kinh tế và lao động trong các ngành
đứng đầu của thành phố Hà Nội thành
công trong việc lựa chọn mô hình trồng rau
sạch cung cấp cho thị trường tiêu dùng của
thành phố.
Những vấn đề mà Hợp tác xã (HTX) đã làm
được:
n Lựa chọn vấn đề cốt lõi để can thiệp.
q Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế hợp tác
kiểu mới của nông dân để giải quyết vấn
đề sản xuất kinh doanh theo chuỗi, nền
tảng để thích ứng với kinh tế thị trường và
hội nhập.
q Nâng cao năng lực kỹ thuật và quản lý
kinh doanh cho nông dân thu nhập thấp
thông qua các nhóm/tổ hợp tác, hợp tác
xã.
q Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường
Tuyên truyền về HTX kiểu mới
70
SË 103+104 . 2020
bao gồm quảng bá sản phẩm và đa dạng
hóa các kênh phân phối tới người tiêu dùng
nhằm tăng thêm giá trị thặng dư cho người
sản xuất và an toàn cho người tiêu dùng.
n Đào
tạo cho cán bộ nòng cốt của HTX
n Tuyên truyền trong cộng đồng về HTX
2012.
Đội tuyên truyền viên về HTX – 2012
Qua ví dụ thực tế của thành phố Hà Nội cho
thấy những vấn đề gặp phải như sau:
n Vấn đề cơ bản về quyền sở hữu đất đai
hiện tại là rào cản lớn nhất không thu hút
được nhà đầu tư vào lónh vực sản xuất thực
phẩm hữu cơ công nghệ cao.
Thiếu chính sách và biện pháp cụ thể
cho việc hỗ trợ hình thành và phát triển
mô hình kinh tế hợp tác (HTX đã lúng túng
càng thêm thiếu động lực).
n
Chất lượng nguồn nhân lực thiếu và yếu
cả về cán bộ quản lý và người lao động.
n
Tham quan thực địa HTX Văn Đức
n Thiếu cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm
về khu vực kinh tế tập thể vừa có chuyên
môn vừa có đầy đủ thẩm quyền giải quyết
các vấn đề của HTX.
2. Mô hình trồng rau an toàn
TP.HCM
Nghe Giám đốc HTX Văn Đức giới thiệu
Trong bối cảnh người trồng lúa sản xuất
không hiệu quả do giá trị kinh tế thấp và
thường xuyên bị thiên tai dịch bệnh hoành
hành, các hộ dần dần chuyển sang sản
xuất rau an toàn do vốn đầu tư ít và thời
gian sản xuất ngắn nên hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, do sản xuất cá thể nên gặp nhiều
khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm, lúc rau có
giá cao thì thương lái kiếm mua, thị trường
xuống giá thì thương lái không mua đành
đổ cho cá ăn. Trước tình hình đó, nhiều
hộ nông dân đã liên kết lại với nhau, từ đó
nhiều HTX và tổ hợp tác ra đời. Các hình
thức liên kết này đã mang lại hiệu quả cao
từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
Một trong những mô hình điển hình có thể
nhắc đến trên địa bàn thành phố là HTX
Phước An. Được thành lập vào năm 2006
tại huyện Bình Chánh, tiêu chí hoạt động
của HTX là nói không với cách làm ăn
dối trá, gây hại cho sức khỏe cộng đồng.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TP.HCM, Chi cục Bảo vệ thực vật, Trung
tâm Tư vấn hỗ trợ nông nghiệp, Trạm
Khuyến nông Bình Chánh… đã quan tâm
hỗ trợ, cử các chuyên viên tập huấn cho
bà con nông dân sản xuất rau an toàn, áp
dụng khoa học kó thuật tiên tiến, có kiểm
tra giám sát chặt chẽ, hướng dẫn cụ thể
cho nông dân để đảm bảo cây rau không
còn tồn đọng bất kì chất gì gây nguy hại
sức khỏe người tiêu dùng. Đồng thời, kiểm
tra nguồn nước phải sạch đảm bảo không
có vi khuẩn gây bệnh; nếu còn tồn đọng
các chất nguy hại thì HTX tuyệt đối không
nhập lô hàng đó để xuất ra thị trường.
Ngoài ra, HTX thường xuyên được chính
quyền hỗ trợ nguồn vốn khoảng 20 triệu
đồng/hộ với lãi suất 0,6%/tháng mà không
cần thế chấp. Khoảng một thời gian ngắn,
các hộ nông dân đã dần dần hình thành
nên thói quen sản xuất rau an toàn. Họ
SË 103+104 . 2020
71
chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi diễn
ra khá sôi động.
luôn ghi nhật kí kiểm tra đồng ruộng và
bám sát theo cây rau, cũng từ đó mà gây
được lòng tin đối với khách hàng. Các siêu
thị lớn của TP.HCM như Coop Mart, Metro,
Vinatex Mart… cũng ngày càng đặt hàng
nhiều hơn.
Tính đến năm 2011, HTX đã hoạt động
được 4 năm, số xã viên từ 7 tăng lên 15
người; vốn ban đầu từ 11,5 triệu đồng lên
146,5 triệu đồng. Từng bước HTX sẽ củng
cố và mở rộng hợp tác với các đối tác lớn
hơn để đưa cây rau an toàn đến cộng
đồng. HTX thường xuyên được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn mời tham
gia các báo cáo mô hình nông nghiệp đô
thị tại nhiều địa phương.
3. Nông nghiệp đô thị (NNĐT) ở
Bình Dương
Bình Dương là một trong những tỉnh có tốc
độ đô thị hóa cao nhất nước. Chính vì thế,
NNĐT sớm được tỉnh quan tâm, giá trị sản
xuất nông nghiệp vẫn liên tục tăng cao. Có
thể lấy thành phố Thủ Dầu Một làm ví dụ
điển hình cho những bước phát triển mạnh
mẽ của NNĐT.
Do quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông
nghiệp của thành phố chỉ còn khoảng
2.655ha, chiếm 22% diện tích đất tự nhiên
và chỉ còn 4.118 lao động phục vụ cho
nông nghiệp.
Tuy nhiên, giá trị nông-lâm-thủy sản của
72
SË 103+104 . 2020
thành phố đạt 50,6 tỷ đồng, giá trị sản
lượng bình quân trên 1ha canh tác/năm
đạt đến 69,4 triệu đồng. Đây là nỗ lực
chuyển dịch từ cây có giá trị kinh tế thấp
(như cây lúa, mía, vườn tạp) chuyển sang
cây có giá trị kinh tế cao phù hợp với sản
xuất NNĐT như trồng rau màu, hoa lan,
cây cảnh, vườn cây ăn quả... Các hộ dân
chăn nuôi nhỏ lẻ cũng đã chuyển sang
chăn nuôi tập trung với mô hình lớn hơn
ở hộ gia đình và trang trại (phát triển theo
hướng công nghiệp, bán công nghiệp).
4. NNĐT ở Đà Nẵng
Đà Nẵng là một trong những địa phương có
những mô hình NNĐT khá độc đáo. Mấy
năm gần đây, nhất là khi chỉ thị của UBND
thành phố Đà Nẵng về cấm nuôi gia súc,
gia cầm ở khu vực nội thị có hiệu lực, việc
Thành quả đáng kể nhất là nghề làm sinh
vật cảnh, trồng rau mầm, nấm ăn phát
triển nhanh, tạo ra sản phẩm có giá trị.
Cũng từ đây, hàng trăm nông dân tiếp cận
với nghề trồng hoa, cây cảnh và có cơ hội
làm giàu. Trung tâm Khuyến ngư-nônglâm Đà Nẵng cùng Phòng Kinh tế quận
Hải Châu đã mở hàng chục lớp tập huấn
kó thuật cho nông dân. Nhờ vậy, mô hình
trồng hoa cây cảnh ở Đà Nẵng phát triển
rất nhanh. Hiện quận, huyện nào cũng có
Hội Sinh vật cảnh và khu trưng bày sản
phẩm. Có hộ trồng tới 10.000 chậu cúc/
vụ, hơn 5.000 gốc mai cảnh, thu nhập 300400 triệu đồng/năm. Trên địa bàn thành
phố có khoảng 300 hộ hoạt động trong lónh
vực này, tạo ra lượng của cải trị giá 30-40
tỷ đồng/năm. Ngoài nghề trồng hoa, cây
cảnh, việc sản xuất rau xanh phục vụ cho
thành phố cũng được ưu tiên phát triển và
mang lại hiệu quả cao.
5. Nông nghiệp đô thị ở tại Đà Lạt
(Lâm Đồng)
Không chỉ mang lại lợi ích xã hội, NNĐT
còn mang lại lợi ích kinh tế khá lớn. Ở vị
trí cửa ngõ thành phố Đà Lạt, xã Hiệp An
có lợi thế về giao thông, thuỷ lợi, đất đai
phì nhiêu… Thực hiện chủ trương phát triển
nông nghiệp công nghệ cao, từ năm 2004,
xã Hiệp An được tỉnh đầu tư xây dựng các
mô hình thí điểm trồng rau, hoa trong nhà
kính, nhà lưới.
Hàng trăm hecta đất trồng lúa của xã trước
đây đã được chuyển sang trồng rau, hoa. Coù
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Du lịch Nông nghiệp công nghệ cao
những hộ chuyên trồng các loại hoa cao cấp như lay ơn, hồng, đồng
tiền, địa lan… thu nhập mỗi năm vài trăm triệu đồng. Trước đây, người
nông dân chủ yếu trồng rau để bán cho thị trường nội địa, nhưng nay
đã có rau thương phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Trên đây là một số mô hình đã và đang phát triển, là những bài học
tốt cho các đô thị khác của Việt Nam trong quá trình hình thành
phát triển mô hình kinh tế cho khu vực vùng ven bền vững.
Ngày nhận bài: 1/4/2020
Ngày gửi phản biện: 2/4/2020
Ngày duyệt đăng: 14/4/2020
Tài liệu tham khảo:
Trong nước
1. Phạm Hùng Cường (2001). Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn đồng
bằng sông Hồng thành đơn vị ở trong quá trình đô thị hóa.
2. Bùi Văn Tuấn (2011), Đô thị hóa và những vấn đề xã hội vùng ven đô Hà Nội
hiện nay, trường hợp nghiên cứu xã Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội.
3. Trương Hoàng Thái An (2017). Định hướng phát triển không gian vùng ven đô
TP. HCM.
4. Lê Thị Thanh Hằng (2018). Quy hoạch xây dựng ngoại thành TP.HCM theo
hướng phát triển bền vững.
5. Võ Hữu Hòa (2011). Phát triển nông nghiệp đô thị: Hướng đi bền vững cho các
đô thị trong tiến trình đô thị hoá.
6. Phạm Sỹ Liêm. (2009). Nông nghiệp đô thị trong quy hoạch thành phố Hà Nội.
Bài trình bày tại Hội thảo “Hà Nội: thành phố thân thiện và sống tốt cho cộng
đồng”. 1 -2/7/2009.
7. Bùi Văn Tuấn (2013), “Đô thị hóa tác động đến sinh kế của cộng đồng dân cư
vùng ven đô Hà Nội” Mã số: QG.14.63. Đề tài cấp ĐHQG Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Huân (2012): Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn.
9. Trần Trọng Hanh (2015): Quy hoạch vùng - Nhà xuất bản Xây dựng.
10. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: Các phương pháp phân tích vùng và liên
vùng - Tài liệu dịch, 2008.
11. Chiến lược của các vùng đô thị lớn - Tài liệu dịch tiếng Pháp
12. Nguyễn Hoàng Linh (2018): Nghiên cứu lý luận về vùng ven đô đề cập đến kết
cấu vùng và cơ chế hình thành, diễn biến phát triển của vùng ven đô.
13. Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội; Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng; Quy
hoạch chung thành phố Đà Lạt
14. Bộ NN&PTNT, 2014, Báo cáo tổng kết ngành Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn các năm 2013 và 2014.
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2013, Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm
vụ công tác năm 2013, kế hoạch công tác năm 2014.
16. Bộ Xây dựng, 2014, Báo cáo tình hình thực hiện các chỉ tiêu về tài nguyên - môi
trường tại văn bản số 2031/BXD - KHCN ngày 28 tháng 8 năm 2014.
17. Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường, 2013, Dự án “Kiểm soát ô
nhiễm môi trường làng nghề”.
18. Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010-2020, Bộ NN&PTNT, 2014, Hướng dẫn theo dõi và đánh
giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
2010-2020.
Quốc tế
1. Metropolitan Governance and Planning in Transition, Asia Pacific Cases - NCRD
& NCUA, Nagoya Japan (1998).
2. TOR EAP Sustainable Development on the Urban Fringe - IURD, UC Berkely
(2005).
3. Peri - Urbanisation in Europe/PLUREL (2010).
4. Mariassunta Galli, Sylvie Lardon, Elisa Marraccini, Enrico Bonari: Agricultural
management in peri-urban areas (2009).
SË 103+104 . 2020
73