Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đô thị ven đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.35 KB, 6 trang )

DIEN ẹAỉN

òĐ THở VEN òĐ
Nguyeón ẹaờng Sụn

Phoự Vieọn trửụỷng Vieọn Nghiên cứu đô thị & phát triển hạ tầng

suburban areas

The article deals with huge city issues with many challenges; suburban areas and interdependence between urban and rural
development; green urban village model; identify challenges and suggest some solutions for the development of suburban
areas of ho chi minh city such as: “a rural - urban consolidation”, “urbanization of rural suburban” associated with “new rural
construction “. gradually forming urban villages; strengthening the management of adjacent areas and planning of urbanized
suburban villages to avoid spontaneous development.

Bài báo đề cập đến các vấn đề về Thành phố cực lớn với nhiều thách thức; Vùng ven
đô và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phát triển đô thị và nông thôn; Mô hình Làng đô thị
xanh; Nêu ra các thách thức và gợi ý một số giải pháp cho việc phát triển vùng ven đô
TP.HCM như: “một hợp nhất nông thôn - đô thị”, “đô thị hóa nông thôn ngoại thành” gắn
với “xây dựng nông thôn mới”, từng bước hình thành các làng đô thị; Tăng cường quản
lý vùng giáp ranh và quy hoạch các làng đô thị hoá ven đô để tránh tình trạng phát triển
tự phát.
Từ khóa: đô thị ven đô, vùng ven, làng đô thị, phát triển vùng ven đô TP.HCM.

86

Thành phố cực lớn với nhiều thách thức

Ngày nay các vùng đô thị trải rộng là hiện tượng trên toàn thế
giới, mặc dù có tốc độ quy mô khác nhau. Chủ đề trong số
báo Time có đề cập đến 21 “siêu thành phố” của thế kỷ XXI


với dân số vượt 10 triệu người, 18 trong số này là thuộc các
nước đang phát triển.

Trật tự quốc tế mới đem đến cho các thành phố một loạt các
thách thức khi tìm cách giải quyết các cải tiến về cơ cấu cần
thiết, nếu muốn đạt được các cải tiến song song về năng
suất và chất lượng cuộc sống đô thị. Các thách thức chính
là các “căn bệnh đô thị” do “khủng hoảng đô thị” từ “bùng nổ
dân số” gây ra.

Bản thân quy mô cũng làm thay đổi nội dung của vấn đề đô
thị. Các vùng đô thị có 10 triệu dân trở lên có cấu trúc khác
với các thành phố có vài triệu dân. Kích thước tự thân làm
nảy sinh tính phức tạp, nó cũng thu hút sự chú ý đến những
vấn đề thật sự ở tầm vùng đô thị như giao thông, nước và
quản lý rác, không gian mở của vùng và ô nhiễm không khí,
khác biệt hẳn với những vần đề ở cấp thành phố hoặc khu
dân cư.

TP.HCM với khoảng 10 triệu dân là thành phố cực lớn/siêu
thành phố, do vậy thành phố sẽ phải đối diện với nhiều thách
thức - bất ổn, với “các căn bệnh đô thị” như đã nêu trên. Để
khắc phục các thách thức bất ổn này phải dựa vào “gỉải pháp
quy hoạch”. Quy hoạch trước tiên phải là cơ sở để phát triển
thành phố bền vững, để hài hòa giữa cạnh tranh kinh tế và
sống tốt. Tuy nhiên đối với thành phố cực lớn thì giải pháp
quy hoạch hàng đầu phải là “mô hình phát triển không gian

SË 103+104 . 2020



≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
phân tán” hoặc “hình thái đô thị phân tán”
để cải thiện môi trường sinh học, biến đổi
khí hậu (BĐKH) và môi trường giao thông
của thành phố.
TP.HCM cũng không phải là ngoại lệ, quy
hoạch TP.HCM tới năm 2025 cũng có mô
hình phát triển không gian “tập trung - đa
cực” với trung tâm chính mở rộng thành
“cụm trung tâm thống nhất lớn hơn” và 4
trung tâm khu vực. Tuy nhiên, hiện nay
mới chỉ triển khai thực hiện 2 trung tâm khu
vực: 1 hướng chính Nam ra biển Đông, và 1
hướng phụ Tây - Tây Bắc, còn 2 trung tâm:
1 hướng chính Đông đã có tuyến metro số 1
cửa ngõ ra miền Đông và 1 hướng phụ Tây Tây Nam là cửa ngõ từ miền Tây vào thành
phố thì lại chưa bắt đầu, do vậy chưa căn
bản khắc phục được những bất ổn, thách
thức, các vấn đề đô thị và các căn bệnh đô
thị của thành phố.
Do vậy thành phố cần có “kế hoạch” để
thực hiện “chiến lược phát triển đô thị” theo
quy hoạch phát triển không gian đô thị “đa
cực”/“đa trung tâm” để “tích tụ dân cư” hợp
lý, trong đó “ưu tiên” các trung tâm đô thị
khu vực còn lại như: khu đô thị cao Quận 9,
khu đô thị Tân Tạo - Tân Kiên Bình Chánh
và “đột phá” phát triển khu trung tâm đô thị
mới Thủ Thiêm bờ Đông với 4 cầu và một

hầm kết nối với bờ Tây sông Sài Gòn, từ đó
hình thành “cụm trung tâm thống nhất lớn
hơn” nhằm giải quyết căn bản các bất ổn
và thách thức của một “thành phố cực lớn”
hướng đến mục tiêu thành phố trở thành
thành phố quốc tế, là một “trung tâm hàng
đầu của khu vực Đông Nam Á”. Nghị quyết
16 của Bộ Chính trị đưa ra phương hướng
là TP.HCM sẽ trở thành một trung tâm lớn
ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên do chưa
có chiến lược phát triển đô thị nên cho tới
nay thành phố vẫn chưa thực hiện được quy
hoạch hình thái đô thị đa trung tâm đã được
Chính phủ phê duyệt, nên chưa có cơ sở để
giải quyết được các thách thức.
Có nhiều cách định nghóa về thành phố cực
lớn (mega-city), tuy nhiên phổ biến nhất
trên thế giới hiện nay vẫn là dựa vào dân
số, theo đó thành phố cực lớn phải có 10
triệu dân trở lên. Thành phố trên 10 triệu
dân có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
song nó cũng có nguy cơ làm suy giảm
chất lượng cuộc sống mà chúng ta cần thấy
trước để khắc phục.

Quy hoạch điều chỉnh TP.HCM dự báo đến
năm 2025, TP.HCM có trên 10 triệu dân, có
thể nói thành phố cũng sẽ đứng vào danh
sách các thành phố cực lớn ở khu vực châu
Á. Do vậy, cần sớm dự báo các thách thức

về đô thị sẽ gặp phải, đề ra các giải pháp
để giải quyết nhất là về quy hoạch và kế
hoạch thực hiện.
Các thách thức của thành phố cực lớn
có thể bao gồm: (i) Tính cạnh tranh
(Competitiveness); (ii) Dân số tăng
nhanh (Population); (iii) Giảm nghèo đô
thị (Poverty alleviation); (iv) Ô nhiễm
môi trường (Pollution); (v) Biến đổi khí
hậu (Climate Change); (vi) Ùn tắc giao
thông (Traffic Jam); (vii) Sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa phát triển đô thị và nông
thôn (Interdependency of urban and rural
Development); (viii) Chính sách quản trị đô
thị (Political).
Trong khi đó thành phố cực lớn luôn có sức
ép rất lớn phát triển đô thị ra vùng ven đô
và dễ trở thành “đại đô thị” (dân số có thể
trên 18 triệu người) với nhiều thách thức
nan giải. Trong nghiên cứu về các khu định
cư của con người, một đại đô thị (tiếng Anh:

urban agglomeration) là một khu vực thành
phố hay thị trấn được mở rộng, bao gồm
khu đô thị của một nơi được gọi là trung
tâm (nơi trung tâm này thường là một khu tự
quản) và bất cứ những khu vực ngoại ô nào
được nối liền nhau qua khu đô thị liên tục
này. Tại Pháp, Viện Thống kê Pháp INSEE
dịch từ này thành “Unité urbaine” có nghóa

là khu đô thị nối tiếp nhau.
Từ những năm 60, khi mà bùng nổ đô thị đã
cho thấy các hệ lụy gọi chung là các “căn
bệnh đô thị”, nhất là “bệnh đầu to đô thị” thì
các nước nhận ra rằng cần nghiên cứu phát
triển chất lượng đô thị hơn là quy mô và số
lượng đô thị.
Để hạn chế các siêu đô thị ngày càng phát
triển “lan tỏa” và “phình to” ra vùng ven đô,
cần giải quyết tốt “Sự phụ thuộc giữa phát
triển đô thị và nông thôn ở vùng ven đô”.

Vùng ven đô và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa phát triển đô thị và
nông thôn

Theo Terry McGee, vùng ven là một khái
niệm, là vùng có sự tương tác giữa nông
thôn và thành thị. Tuy nhiên, để có được

SË 103+104 . 2020

87


cách toàn diện thì dân toàn quốc cũng sẽ
không thể thực hiện xã hội khá giả”.

Mô hình Làng đô thị xanh


Mô hình “làng đô thị xanh” là hình mẫu cho
các “khu đô thị mới ven đô” và các “làng
ven đô có khả năng đô thị hóa”.

một định nghóa chính xác hơn về vùng ven,
phải dựa vào tính đặc thù của từng vùng
đại đô thị. Theo định nghóa này, vùng ven
không cố định về mặt địa lý. Trong các
vùng đại đô thị, khu trung tâm đô thị cứ
lấn sang và mở rộng thông qua tái phân
định ranh giới hành chính, như trường hợp
của Hà Nội và TP.HCM. Còn vùng ngoại
vi (ngoại thành) thì cứ tiếp tục mở rộng ra
ngoài cùng với các hoạt động xâm chiếm
vùng nông thôn. Như vậy, mặc dù vùng ven
của các vùng đô thị đều bị tác động giống
nhau bởi những lực kinh tế - xã hội, nhưng
thường giữa các vùng đô thị vẫn có những
khác biệt sâu sắc do mức phát triển kinh tế,
kinh tế - chính trị và văn hóa của từng quốc
gia, từng khu vực trở nên khác nhau.
Cho đến nay sự phát triển đô thị và nông
thôn ngoại thành vẫn tách rời nhau dẫn đến
việc giải quyết vấn đề của lónh vực này sẽ
gây thiệt hại cho lónh vực kia. Hai khu vực
cuối cùng nên nhìn nhận vai trò hỗ trợ và
bổ sung cho nhau nhiều hơn về kinh tế, môi
trường, việc phối hợp quản lý sẽ càng trở
nên quan trọng hơn, đặc biệt khi các mâu
thuẫn vượt qua hệ thống luật pháp và cách

quản lý không thích hợp. Tại ranh giới đô thị
vùng ven đô không chỉ là điểm nóng của sự
phát triển hỗn loạn mà còn là nơi tiềm ẩn
những mâu thuẫn quyền lợi. Việc đầu cơ
phổ biến như tranh chấp đất đai vẫn xảy ra
hàng ngày.
Ranh giới giữa đô thị và nông thôn sẽ mất
dần cùng với quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên
các ranh giới cần được tái lập sẽ cho phép
thành phố quản lý các khu vực đô thị hóa
nhanh chóng ở ven đô và tạo nên sự năng
động về kinh tế mà trước đây nền kinh tế

88

SË 103+104 . 2020

nông nghiệp không thể phục vụ được. Nhờ
việc cải thiện hệ thống giao thông, một số
lớn cư dân nông thôn vào thành phố hàng
ngày để làm việc. Do vậy đã hình thành “một
hợp nhất nông thôn - đô thị toàn diện” (A
Comprenensive Rural-Urban Integration),
đó là một tổng thể nông thôn đô thị theo
kiểu “đô thị - làng quê” hay còn gọi là “làng
đô thị ” (large urban village).

Có thể nói theo kinh nghiệm của
Trung Quốc:


(1) “Nhất thể hóa thành thị nông thôn”
không phải là chuyển biến nông thôn thành
thành phố, bởi vì nông thôn không những
cung cấp lương thực, thực phẩm cho dân
cư thành thị, cung cấp các nguyên liệu cho
sản xuất công nghiệp, mà hơn nữa nông
thôn còn cung cấp không gian xanh, mở
rộng không gian cũng như cải thiện môi
trường cho đô thị.
(2) “Nhất thể hóa thành thị nông thôn” cũng
không phải bằng cách rút ngắn chênh lệch
giữa thành thị và nông thôn hay bằng cách
“nông thôn hóa thành thị”. Phương hướng
để nhất thể hóa thành thị và nông thôn nên
là một “tiến hóa song hướng” tức là thành
thị và nông thôn phải thu hút lẫn nhau về
những cái tiên tiến và lành mạnh, đồng thời
phải loại bỏ những cái lạc hậu và tệ nạn…
(3) Để thực hiện nhất thể hóa thành thị
và nông thôn cần lưu ý các vấn đề sau:
“Không có hiện đại hóa nông nghiệp, đô thị
hóa nông thôn thì không có hiện đại hóa
của nhà nước”; “Nếu nông thôn không được
phồn vinh và ổn định, nhà nước cũng không
được phồn vinh và ổn định”; “Nếu nông dân
không thể thực hiện cuộc sống khá giả một

Làng đô thị - một đơn vị/hình thái định theo
khái niệm mới chính thức ra đời ở Anh
những năm 80 của thế kỷ XX với sự thành

lập các nhóm làng đô thị (Urban Village
Group, viết tắt UGV). Làng đô thị được
xem là sự lựa chọn cho các mô hình phát
triển đô thị lưỡng tính hiện nay tại nhiều
thành phố, đặc biệt trong bối cảnh hiện đại
hóa (HĐH) và bùng phát đô thị đang diễn
ra mạnh mẽ. Mục đích của Làng đô thị là
nhằm kiểm soát sự phát triển có hiệu quả
hơn. Với nguyên tắc tìm cách kết hợp tất cả
các hoạt động và làm cho chúng có thể tiếp
cận được trong một trung tâm hỗn hợp có
dịch vụ giao thông công cộng phục vụ tốt,
thân thiện với môi trường.
Theo các nhà phê bình đô thị thì “Làng đô
thị” không phải là một khái niệm mới, chỉ
đơn giản là một sự cấu trúc lại ý tưởng trong
việc quy hoạch đô thị nhằm mục đích giữ
gìn môi trường thiên nhiên của làng quê
trong sự bành trướng đô thị đang diễn ra
quá mạnh như nhiều thập kỷ qua.
Theo nhà tương lai học người Mỹ Alvin
Toffler: Trong kỷ nguyên thông tin, những
nước nghèo nặng về nông nghiệp thuộc
thế giới thứ ba có thể sử dụng lợi thế của
người đi sau bằng con đường tắt xây dựng
mô hình “sinh thái - công nghệ thấp” tiến
thẳng vào “văn minh hậu - công nghiệp”
mà không phải kinh qua giai đoạn phát triển
“công nghiệp cổ điển”.
Những điều đó có nhiều điểm tương đồng

với các phác họa về xu thế phát triển kiến
trúc - đô thị thế giới thế kỷ XXI. Ngày nay
các chuyên gia đô thị Mỹ đang nói nhiều về
sự phát triển của các “làng đô thị” (urban
village) hoặc những “chùm đô thị” (urban
constellations) trong một “ngân hà đô thị
trung tâm” (metropolitan galaxy). Việc sản
xuất như vậy sẽ “phân tán” theo quy mô
thích hợp từng địa phương. Nếu kỷ nguyên
công nghiệp sinh ra các thành phố thì kỷ
nguyên thông tin có thể “phi tập trung
chúng”. Thí điểm “làng đô thị xanh” (green


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

urban village) là quyết định mang tính chiến lược dài hạn cần thiết
để thực hiện cân bằng nhu cầu phát triển đô thị và nông thôn. Đồng
thời để bảo vệ địa cầu trước sự biến đổi ngày càng khắc nghiệt của
khí hậu, các xu hướng phát triển đô thị gắn liền với các khái niệm:
Sinh thái, Xanh, Thích ứng BĐKH… hướng đến phát triển bền vững
ra đời. “Làng đô thị xanh” là sự kết hợp giữa “làng - đô thị” và “đô thị
xanh” (thích ứng với BĐKH).
“Làng - đô thị” sẽ cung cấp việc làm cho các hộ nông thôn. Nó đóng
góp vào việc tiếp tục cải tạo hệ thống hạ tầng và công nghệ ở vùng
nông thôn ngoại thành. Nó tác động tốt tới tình trạng sức khỏe và
văn hóa. Nó giúp giảm thiểu sự phân hóa xã hội đi kèm với việc di
dân ra thành phố. Nếu được quản lý tốt nó sẽ giúp cho việc bảo
vệ môi trường cho cả thành phố và nông thôn ngoại thành bằng
việc phân bố sản xuất và dân cư trên khu vực tương đối rộng. Do

vậy các thành phố làm tốt sẽ là các thành phố phát triển được mối
quan hệ để thỏa mãn được cả nhu cầu của thành phố và khu vực
ngoại thành.
Ở nước ta, tại Quyết định số 1526/QĐ-TTg ngày 3/9/2015 về một
số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Lạt có một
nội dung quan trọng có tính đột phá là tỉnh Lâm Đồng được thí điểm
xây dựng “Làng đô thị xanh” tại thành phố Đà Lạt.
Lãnh đạo UBND tỉnh Lâm Đồng vừa chỉ đạo các đơn vị chủ
trì bổ sung, hoàn thiện đồ án quy hoạch phân khu xây dựng
mô hình Làng đô thị xanh tại xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt.
Đây là Đề án thí điểm xây dựng mô hình Làng đô thị xanh đầu
tiên của cả nước, được UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt từ
năm 2018.
Theo Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 23/11/2018 của
UBND tỉnh Lâm Đồng, Đề án thí điểm xây dựng mô hình Làng
đô thị xanh tại xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt có quy mô dự
kiến đến năm 2030 là 1.500 - 2.500 nhân khẩu; nhân dân tham
gia thực hiện và vận hành đề án theo quy ước, hương ước; chính
quyền và hệ thống chính trị của xã quản lý Làng theo quy định
của pháp luật.

Đô thị ven đô ở TP.HCM

Về mặt hành chính địa giới thì vùng ven không chỉ được định nghóa
bao gồm các khu vực quận/huyện bao quanh nội thành thành phố.
Vùng ven được xem là các quận mới nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa
khu vực trung tâm và ngoại thành.
Theo Viện Quy hoạch xây dựng TP.HCM, quận ven khác với các
quận nội thị hoặc huyện ngoại thành do có đặc điểm gần như bán
thôn, bán thị, với diện tích đất nông nghiệp vẫn còn khá nhiều,

chiếm tỷ trọng bình quân từ 10-30% trên tổng diện tích đất tự nhiên.
Chính vì quỹ đất còn nhiều để chuyển đổi từ đất nông thôn sang đất
đô thị nên trong quá trình phát triển và mở rộng nội thị của thành
phố, khu vực vùng ven có thể xem như một vùng “đệm”, qua quá
trình phát triển sẽ cùng hòa nhập vào khu vực nội thành (đô thị)
hiện hữu. Vùng ven là vùng vành đai chuyển tiếp giữa một đô thị lớn
và nông thôn xung quanh, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa
đô thị đó, nhưng vẫn còn mang trong mình nhiều yếu tố của văn
hóa nông thôn, nên không hẳn là nông thôn mà cũng chưa phải là
đô thị thực sự. Dù có nhiều định nghóa theo nhiều góc độ khác nhau
nhưng các nhà nghiên cứu đều có chung một quan điểm vùng ven
là vùng đệm, vùng chuyển tiếp đang đô thị hóa từ vùng nông thôn
sang vùng đô thị là vùng giáp ranh với đô thị. Như vậy, vùng ven
là vùng đang bị đô thị hóa tác động, hình thành nên quận mới từ
huyện và đang ngày càng thay đổi do tác động của đô thị hóa. Ở đó
diện tích đất nông nghiệp càng ngày càng bị thu hẹp. Những quận
mới thành lập từ huyện được hiểu chung là vùng ven vì bản thân
huyện còn lại cũng bị tác động của đô thị hóa như trường hợp của
Thủ Đức, quận 2, quận 9, quận 7, huyện Nhà Bè (1997) và quận
Bình Tân, huyện Bình Chánh, quận 12 và huyện Hóc Môn (2003).
Như vậy, ta có thể xác định rằng vùng ven TP.HCM là quận Thủ
Đức, quận 2, quận 9, quận 7, quận 8, quận 12, huyện Nhà Bè,
huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn. Đó là xu hướng phát triển lan
tỏa ra vùng ven đô hiện nay.
Tuy nhiên, giữ gìn vùng nông thôn, đất nông nghiệp và không gian
xanh là chiến lược quan trọng. Vùng nông thôn cũng quan trọng
không kém phần khu vực đô thị. Trong quá trình “chuyển đổi nông
thôn - đô thị” lónh vực BĐS phát triển nhanh và gia tăng cho tương

SË 103+104 . 2020


89


xứng với toàn bộ nền kinh tế thành phố. Ngành sản xuất phụ thuộc
vào nông nghiệp truyền thống sẽ trở nên chuyên sâu và được công
nghiệp hóa thông qua kỹ thuật mới. Những xí nghiệp nông thôn sẽ
phát triển thành những xí nghiệp công nghệ cao đô thị hóa, giảm đi
mức độ ô nhiễm nông nghiệp. Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng những
nhu cầu phát triển của vùng ngoại vi. Động lực để phát triển “một hợp
nhất nông thôn - đô thị” là đô thị hóa nông thôn song hành với đô thị
hóa thành phố, để phát triển những thị trấn thị tứ. Theo kinh nghiệm
một số nước, không thể chờ CNH - HĐH mới thúc đẩy “đô thị hóa
nông thôn” mà phải tiến hành đồng thời với “xây dựng nông thôn mới”,
đô thị hóa phải trở thành khâu then chốt phát triển nông thôn. Trong
quá trình đô thị hóa, CNH - HĐH là một quá trình làm biến đổi thành
phần cơ cấu lao động nông thôn và cơ cấu sử dụng đất.

(điều chỉnh bổ sung) các khu chức năng, hệ thống giao thông
cho phù hợp.

Do vậy “đô thị hóa nông thôn ngoại thành” TP.HCM không thể chờ
mà phải gắn với “xây dựng nông thôn mới” để giải quyết 3 vấn đề
đang hạn chế nông nghiệp phát triển là: bảo hộ nông nghiệp, HĐH
nông nghiệp và thương phẩm hóa nông nghiệp. Quá trình đô thị
hóa nông thôn sẽ đáp ứng được các tiêu chuẩn của đô thị xét về
quy mô dân số, cơ cấu lao động và cơ sở hạ tẩng. Các thị trấn, thị
tứ công nghiệp - dịch vụ sẽ làm điểm tựa để phát triển khu dân cư
nông thôn, giữ vai trò thúc đẩy đô thị hóa nông thôn và quy hoạch
các “khu phố nhỏ”. Từng bước hình thành các “làng đô thị xanh” ở

ven đô TP.HCM.

Theo kinh nghiệm của người Anh, Làng đô thị là một phân khu đô
thị được đóng xung quanh một nút giao thông, có mật độ cao hoặc
quanh một điểm có sự buôn bán tấp nập, một điểm trộn lẫn giữa
các mục đích sử dụng đất, bao gồm bán lẻ, thương mại, làm việc,
sinh sống và giải trí, các không gian công cộng hấp dẫn và được
sử dụng tốt, một môi trường đô thị dành cho người đi bộ an toàn và
thuận tiện có các nhân tố nâng cao niềm tự hào, tính địa phương và
bản sắc cộng đồng.

Đối với mô hình định cư “Làng đô thị xanh” quy hoạch phát
triển dựa trên cơ sở tôn tạo, chỉnh trang các thị tứ, thị trấn làng
xóm (có cơ sở vật chất tương đối phát triển/gần với đô thị)...,
cần giữ nguyên cấu trúc không gian định cư cũ để chỉnh trang

90

SË 103+104 . 2020

Các tiêu chí để quy hoạch phát triển làng đô thị xanh bao gồm: (1)
Địa điểm quy hoạch xây dựng đảm bảo bền vững (vùng ven đô/địa
điểm mới hoặc nâng cấp phát triển một địa điểm đã có sẵn); (2) Sử
dụng tài nguyên, năng lượng và công nghệ xanh; (3) Chất lượng
môi trường kiến trúc, môi trường sống với cấu trúc không gian làng,
nhưng tiện nghi chất lượng sống không thua kém thậm chí có tiêu
chí còn hơn hẳn chất lượng sống khu vực đô thị. Độ che phủ cây
xanh đạt 70% trở lên; (4) Ít tác động đến môi trường tự nhiên và
nhân văn; (5) Gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản
địa gắn với du lịch dịch vụ...


Làng đô thị cũng là cách hiểu cho việc quy hoạch và thiết kế đô thị/
thiết kế đơn vị định cư. Nó được đề cập đến với các nét đặc thù: (1)
Mật độ phát triển ở mức độ trung bình; (2) Phát triển hài hòa giữa
các vùng chức năng (hình thành một không gian sống có tính bền
vững); (3) Một môi trường thân thiện; (4) Phát triển kinh tế chung
của khu vực.


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Trong quá trình đô thị hóa nông thôn cần coi trọng công năng tỏa sáng của thành phố trung tâm đối
với nông thôn ngoại thành như phát huy tác dụng của trung tâm trao đổi và lưu thông thông tin, tiền
vốn và nhân tài, phổ biến văn minh đô thị, kết hợp với chênh lệch địa tô đất đai thành thị - nông thôn.
Tuy nhiên thành phố cần tăng cường quản lý vùng giáp ranh và quy hoạch các làng đô thỉ hoá ven đô
để tránh tình trạng phát triển tự phát như tại các huyện Bình Chánh và Hóc Môn hoặc “phân lô hộ lẻ”
tràn lan ở ngoại thành và vùng ven (tới 4.000 trường hợp). Do vậy việc xác định ranh giới tăng trưởng
đô thị (Urban Growth Boundary-UGB) và vị trí các làng đô thị hóa ven đô là để có cơ sở tăng cường
quản lý tăng trưởng đô thị (Urban Growth Management-UGM).
NGÀY NHẬN BÀI: 14/3/2020
NGÀY GỬI PHẢN BIỆN: 15/3/2020
NGÀY DUYỆT ĐĂNG: 10/4/2020.
Tài liệu tham khảo:
1- Towards a Metropolitan Perpective - IPA, 1993
2- Mega Metro Regions in the Pacific Rim - Robert Stimson, 1996
3- Cơ sở khoa học và phương pháp luận quy hoạch xây dựng các đô thị phụ cận TP.HCM - Phạm Đức Hiệp - Huỳnh Đăng
Hy - Nguyễn Thiềm - Hàn Tất Ngạn, Chương trình QLĐT TP.HCM, Sở KHCN & MT TP.HCM, thaùng 10.1996
4- Six city challenge for the future - Robert van der Hoff, VIE/95/051, naêm 1997
5- Vùng đô thị hiện tại và tương lai - VIE/ 95/051, naêm 1998
6- Defining Model City - Singapore ‘ s Perpective - Lim Hng Kiang, 1999

7- The Megacity Future - Rosa Moura, 1999
8- Đô thị hóa khủng hoảng sinh thái và PTBV- Nhiểu tác giả, NXB Trẻ, 2000
9- Urbanisation and Sustainable Development - Francoise Noel, January 2002
10- Phương pháp tiếp cận mới về quy hoạch và quản lý đô thị - Nguyễn Đăng Sơn, NXB Xây dựng, năm 2005, Tập 2 năm 2006
11- Nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch xây dựng chung tới năm 2025 - Viện QHXD TP.HCM & Nikken Seikei (Nhật) tháng 4/2007
12- Dân số với phát triển đô thị và tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM - Nguyễn Đăng Sơn, năm 2008
13- Terry Mc Gee, “Revisiting the urban fringe: reassessing the challenges of the mega-urbanization process in Southeast
Asia”, colloque international, Ho Chi Minh city, 12/2008
14- Towards City Planning for Social Harmony - Nguyen Dang Son, Published by the Center for Asia - Pacific Studies &
Kyung Hee University Korea , 2009
15- Gỉảm nghèo và phát triển đô thị - Nguyễn Đăng Sơn, TC Người Xây dựng, tháng 3/2010
16- Thách thức về quản lý thành phố cực lớn - Nguyễn Đăng Sơn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “ Phát triển đô thị bền vững”
tại TP.HCM ngày 17-18/5/2010
17- Hình thái đô thị là cơ sở cho sự phát triển bền vững của đô thị - Go Yantszin, TC Xây dựng và Công nghiệp Nga, số
7/2012
18- Hội thảo quốc tế “Căn bệnh đô thị và giải pháp sáng tạo khoa học thúc đẩy xây dựng đô thị mới”, tháng 9/2013, Tây
An, Trung Quốc
19- Thách thức đô thị tương lai và quy hoạch lãnh thổ - Irène Salenson, tháng 8/2015
20- Phát triển TP.HCM đa trung tâm theo định hướng giao thông công cộng để giảm ùn tắc giao thông - Nguyễn Đăng Sơn,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Quản lý quy hoạch - kiến trúc TP.HCM”, TP.HCM tháng 11/2015
21- Hướng Đông TP.HCM địa bàn phát triển chủ đạo - Lê Văn Năm & Huỳnh Xuân Thụ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “ Quản
lý quy hoạch kiến trúc TP.HCM”, TP.HCM, tháng 11/2015
22- TP.HCM đang cần gì? - Huỳnh Thế Du - TTCC ngày 28/2/2016
23- Vai trò của các đồ án quy hoạch trong quản lý phát triển đô thị TP.HCM-Nguyễn Thanh Nhã, TC Kiến trúc Việt Nam
số 197/2016
24- Phát triển những khu đô thị mới để thực hiện quy hoạch TP.HCM đa trung tâm, giảm ùn tắc giao thông giảm ô nhiễm
môi trường - Nguyễn Đăng Sơn, Kỷ yếu Hội thảo chuyên đề “Quản lý xây dựng, chỉnh trang và phát triển đô thị TP.HCM”,
do Sở Xây dựng tổ chức, tháng 10/2016
25- Kiểm soát và thúc đẩy chỉnh trang phát triển đô thị TP.HCM - Trần Thị Lan Anh, Kỷ yếu Hội thảo chuyên đề “Quản lý
xây dựng, chỉnh trang và phát triển đô thị TP.HCM, tháng 10/2016

26- Mối quan hệ giữa công tác quy hoạch và chiến lược phát triển đô thị - Phạm Hùng Cường, TC QH ĐT số 25/2016
27- Xây dựng “Làng đô thị xanh” từ góc độ hình thái đô thị - Lê Văn Thương & Trương Thị Thanh Trúc, TC KTVN , 27/5/2016
28- Hình thái định cư làng đô thị xanh - Trương Văn Quảng, TC QHĐT số 38 & 39/2019.

SË 103+104 . 2020

91



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×