Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

VĂN tế NGHĨA sĩ cần GIUỘC dàn ý tác PHẨM 5 MB và KB văn mẫu văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.85 KB, 15 trang )

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), sinh ra tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình
Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).
- Cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, mất mát
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
- Cuộc đời sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau khi
thực dân Pháp xâm lược:
+ Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương TừHà Mậu.
+ Giai đoạn sau: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ
điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư
Tiều y thuật vấn đáp,...
b. Nội dung thơ văn
- Thể hiện lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lịng u nước, thương dân
c. Phong cách nghệ thuật
- Đậm sắc thái Nam Bộ
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Hồn cảnh sáng tác
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần
phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng
lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng
lên chống giặc.
- Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất
Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại.
b. Thể loại
- Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng
người chết, nó có hình thức tế – tưởng.
- Bài văn tế thường có các phần:


+ Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết)
+ Thích thực (hồi tưởng cơng đức của người chết)


+ Ai vãn (than tiếc người chết)
+ Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết).
c. Bố cục (4 phần)
- Lung khởi (Từ đầu đến “...tiếng vang như mõ”): cảm tưởng khái quát về cuộc đời
những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Thích thực (Tiếp theo đến”... tàu đồng súng nổ”): hồi tưởng cuộc đời và công
đức của người nghĩa sĩ.
- Ai vãn (Tiếp theo đến “...cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”): lời thương tiếc người
chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
- Kết (Cịn lại): tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Phần 1 - Lung khởi
- Mở đầu: “Hỡi ơi!”:
+ Tiếng than thể hiện tình cảm thương xót đối với người đã khuất
+ Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm
-> tiếng than lay động lịng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả
+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ” -> phác họa khung cảnh
bão táp của thời đại
+ Hình ảnh khơng gian to lớn đất, trời kết hợp những động từ gợi sự khuếch tán
âm thanh, ánh sáng rền, tỏ -> sự đụng độ giữa thế lực xâm lược hung bạo với vũ
khí tối tân và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
- Mười năm công võ ruộng – Một trận nghĩa đánh Tây
+ Người nông dân trở thành người nghĩa sĩ, yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển
biến, sự vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước.
+ Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tranh chống
trả của nhân dân.

b. Phần 2 - Thích thực ( Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ )
- Trước khi giặc đến:
+ Lai lịch: là những người nông dân
+ Cuộc sống: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc
cấy vốn quen làm...


+ Sử dụng từ láy ( cui cút ) tái hiện cuộc sống chịu khó, lam lũ, bao lo toan, vất vả
nhưng vẫn nghèo túng của những người nông dân. Đó là cuộc sống gắn bó với
ruộng đồng, con trâu, cái cày => họ hiền lành, chất phác.
+ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,...=> xa lạ, không hiểu biết với công việc
nhà binh, chiến tranh.
- Khi giặc đến: mùi tinh chiên vấy vá.../ ghét thói mọi..../bữa thấy bịng bong...=>
hành động tội ác và sự hoành hành ngang nhiên, khiêu khích của quân thù diệt tàn
cuộc sống của người nơng dân
+ Lịng căm thù giặc kìm nèn qua các yếu tố thời gian: hơn 10 tháng, đã 3 năm đến
mức phản ứng tự nhiên mà quyết liệt: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ,...
+ Nhận thức: một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu -> nhận thấy
trách nhiệm của mình trước hồn cảnh đất nước.
+ Hành động: Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm
trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ -> tự nguyện bổ sung vào đội
quân chiến đấu với quyết tâm sắt đá.
- Cuộc chiến đấu với kẻ thù của nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Điều kiện chiến đấu:
Lực lượng: khơng quen binh đao
Vũ khí: vật dụng thơ sơ
Binh thư, binh pháp: khơng quen, khơng biết
=> Vơ cùng khó khăn
+ Chiến đấu:
Tinh thần: theo tình cảm tự nhiên, khơng tính tốn, quả cảm, khí thế vũ bão

Hành động: đạp, xơ, đấm, đánh, đâm, chém,...
-> Sử dụng một loạt các động từ gợi sức mạnh, tư thế hiên ngang, tinh thần quả
cảm của nghĩa sĩ.
-> Bức tranh chiến trận thể hiện rõ tinh thần bão táp, hào hùng của người nghĩa sĩ
Cần Giuộc.
-> Tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ về hình ảnh người nghĩa sĩ nơng dân
Cần Giuộc.
c. Phần 3 – Ai vãn


- Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa
sĩ -> bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người viết
- Tiếng khóc được cổng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau:
+ Nỗi tiếc, ân hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp cịn dang dở, chí nguyện
chưa thành.
+ Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thân không thể bù đắp đối với
những người mẹ già, vợ trẻ.
+ Nỗi căm giận kẻ thù gây nên nghịch cảnh éo le hịa chung tiếng khóc uất ức,
nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước.
+ Niềm cảm phục và tự hào vì những người nơng dân bình thường đã dám đứng
lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, lấy cái chết làm rạng ngời chân lí cao đẹp: chết
vinh cịn hơn sống nhục.
+ Biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đời đời được nhân dân ngưỡng mộ và
Tổ quốc ghi cơng.
-> Tiếng khóc khơng chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà cao hơn, tác giả đã thay mặt
nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương cơng trạng của người liệt sĩ. Tiếng
khóc khơng chỉ gợi nỗi đau thương mà cịn khích lệ tinh thần chiến đấu của người
còn sống.
d. Phần 4 - Kết (Ca ngợi linh hồn bất diệt của nghĩa sĩ)
- Hai câu cuối thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả trước hình tượng

người nghĩa sĩ nơng dân: nước mắt anh hùng lau chẳng ráo -> giọt nước mắt chân
thành của Nguyễn Đình Chiểu.
- Bài văn tế kết thúc trong giọng điệu trầm buồn. Ngữ điệu câu không trọn vẹn ->
giây phút mặc niệm, cái nấc nghẹn ngào đến đau đớn của Đồ Chiểu, của bao người
gửi đến những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì đất nước
-> Ngợi ca công đức của họ
e. Giá trị nội dung
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người
nghĩa sĩ nơng dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm
thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi
kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tơi của
dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi
kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt


Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
f. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc
- Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh
- Thủ pháp liệt kê, đối lập,...
Nhận định
Một số nhận định, đánh giá về tác giả, tác phẩm
1. “Ngơi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng
tỏ hơn trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”.
( Phạm Văn Đồng )
2. “Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn
Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người, sự nghiệp thơ văn của
Nguyễn Đình Chiểu.”
( Hồi Thanh )



Tổng hợp các cách mở bài cho tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
MB1
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học
Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ
sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lịng u nước sâu sắc. Trong hệ thống tác
phẩm đó ta khơng thể khơng nhắc đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những
tác phẩm xuất sắc nhất của ơng.
MB2
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường... con mắt chúng ta phải
chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” đó là lời nhận xét
của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu. Nguyễn
Đình Chiểu nhà thơ mù lịa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. Nhắc đến ông người ta
không quên nhắc đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tác phẩm tiêu biểu và thành
công nhất cho thể loại văn tế để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm
thể hiện lịng biết ơn, sự xót thương, cảm phục của tác giả dành cho những người
nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc anh dũng, quả cảm qn mình vì nước.
MB3
Có lẽ với những người u thích văn chương, đề tài người nông dân đã quá đỗi
quen thuộc và trở thành chủ đề “chọn mặt gửi vàng" của khơng ít “cây bút". Chúng
ta đã có một anh nơng dân mất hết “nhân hình lẫn nhân tính" khi bị xã hội đẩy đến
bờ vực trong “Chí Phèo" – Nam Cao. Hay là hình ảnh chị Dậu “vùng chạy ra ngoài
giữa lúc trời tối đen như mực, đen như cái tiền đồ của chị vậy!” trong “Tắt đèn"
của Ngô Tất Tố. Thế nhưng, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam một tượng đài
sừng sững, hùng tráng về người nơng dân đã được Nguyễn Đình Chiểu chắp bút
qua “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Bên cạnh việc khắc họa hình ảnh bi tráng, đầy hi
sinh của người nơng dân chống Pháp thì bài tế cịn là nỗi lịng, nỗi xót thương của
tác giả cho “những anh hùng áo vải".
MB4
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình tượng người nơng

dân trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong bài văn tế, hình tượng người nơng dân được
khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nơng dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách
thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người
nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực
dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là
những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng khơng hề rơi nước mắt. Đó chính là cái
hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.


MB5
“Ngơi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải
sáng tỏ hơn trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này” (trích
“Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”, Phạm Văn
Đồng). Lời nhận định của tác giả Phạm Văn Đồng đã thể hiện sự ngưỡng mộ, trân
trọng, đề cao đối với tài năng của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu - gương mặt nổi bật
tiêu biểu đại diện cho những thành tựu của nền văn học trung đại Việt Nam. Một
trong những đóng góp nổi bật của Nguyễn Đình Chiểu là xây dựng thành cơng bức
tượng đài bất hủ về những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước thông qua tác phẩm
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Ra đời vào năm 1858 - thời điểm thực dân Pháp bắt
đầu nổ súng xâm lược nước ta tại cửa biển Đà Nẵng, tác phẩm đã phác họa bức
chân dung những người nông dân đã hi sinh anh dũng trong cuộc nổi dậy chống
thực Pháp vào ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu.


Tổng hợp các cách kết bài cho tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
KB1
Bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa
thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời
qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lịng cảm phục cũng như nỗi tiếc

thương trước những công trạng và sự hi sinh bất khuất của họ.
KB2
Chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nơng dân nghĩa sĩ
Cần Giuộc - những con người anh dũng dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng
nồng nàn yêu nước. Tinh thần ấy, con người ấy trở thành hình tượng đẹp, đáng nể
phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước khi thực dân
Pháp xâm lược thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu là thể loại truyện thơ dài với nhân
vật tiêu biểu là Lục Vân Tiên để truyền bá đạo lí và tư tưởng làm người thì ở giai
đoạn sau năm 1858 thơ văn Đồ Chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế
kỉ XIX, cổ vũ lòng yêu nước. Bài văn tế đã góp phần để Nguyễn Đình Chiểu ngơi
sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệ của dân
tộc.
KB3
Bằng cách sử dụng thể loại tế, cùng với việc sử dụng ngơn ngữ bình dị, dân dã
kết hợp giọng điệu xót thương, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nên bức chân
dung về những người “chiến sĩ Cần Giuộc” dũng cảm quên mình. Ở họ sự thiếu
thốn khắc khổ, cái khó khăn trong lúc luyện tập vũ khí khơng làm chùn bước chân
của những nghĩa sĩ mà trái lại tinh thần sơi nổi, ý chí tự nguyện cùng quyết tâm
đánh đuổi quân thù đã đúc kết lại làm nên những trang anh hùng. Dù kết thúc,
chúng ta đã có một phần nghĩa sĩ ngã xuống nhưng chính cái hi sinh ấy lại là tiếng
nói cao cả cho những con người dù “thấp cổ bé họng” vẫn có quyền lên tiếng cho
chính bản thân mình.
KB4
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình tượng người nông
dân trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong bài văn tế, hình tượng người nơng dân được
khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách
thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người
nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực
dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là

những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái
hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
KB5


Như vậy, qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của
những người nơng dân nghĩa sĩ thơng qua tinh thần u nước, ý chí tự nguyện
đứng lên đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm cũng như tư thế hiên ngang, anh dũng
trong trận mạc. Dưới ngịi bút “Chở bao nhiêu đạo thuyền khơng khẳm - Đâm mấy
thằng gian bút chẳng tà” của cụ Đồ Chiểu, bức chân dung của người nghĩa sĩ nông
dân trong trận nghĩa đánh Tây với vẻ đẹp bi tráng.


Phân tích hình tượng người nơng dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
của Nguyễn Đình Dàn ý
I. Mở bài
- Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Khái quát chung về hình tượng người nơng dân nghĩa sĩ trong tác phẩm
II. Thân bài
1. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ
- Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai
khẩn đất mới để kiếm sống)
+ “ cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó ”: hồn cảnh sống cơ đơn, thiếu người nương
tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời
- Nghệ thuật tương phản: chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.
=> Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến
trận, quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh
hùng trong đoạn sau.
=> Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương
thiện, chính hồn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và

cuối cùng là “nghĩa sĩ”
2. Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn
- Khi Thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông
chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.
+ Vốn là những người nơng dân nghèo khó khơng biết đến việc binh đao, họ lo sợ
là chuyện bình thường
+ Sự chờ đợi “quan”: như “trời hạn trông mưa”
+Thái độ đối với giặc: “ghét thói mọi như nhà nơng ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”,
“muốn ra cắn cổ” ⇒ Thái độ căm ghét, căm thù đến tột độ được diễn tả bằng
những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực
- Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ
chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”
=> Diễn biến tâm trạng người nơng dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ,
chính lịng u nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của
“quan” đã khiến họ tự gisc,tự nguyện đứng lên chiến đấu


3. Người nông dân nghĩa sĩ cao đẹp bởi tinh thần chiến đấu hi sinh của người
nông dân
- Tinh thần chiến đấu tuyệt vời: Vốn khơng phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân
lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”
- Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con
cúi đã đi vào lịch sử ⇒ làm rõ nét hơn sự anh dũng của những người nông dân
nghĩa sĩ
- Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt
đầu quan hai nọ”
-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh
chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi
- Sử dụng các động từ chéo “ đâm ngang, chém ngược” → làm tăng thêm sự quyết
liệt của trận đánh.

=> Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu
nước.
4. Người nơng dân nghĩa sĩ đáng kính trọng bởi sự hi sinh anh dũng
- Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm
tiếc thương chân thành
+ “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”: cách nói tránh sự hi sinh của những ifn
nghĩa sĩ
- Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thơ sơ nay lại hi
sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở
lại
=> Hình tượng những người nơng dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh sanh
dũng xứng đáng đi vào sử sách
III. Kết bài
- Khái quát và mở rộng vấn đề
BÀI THAM KHẢO
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít
nhất cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nơng dân ấy
chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu
đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt


Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng - bi thương mà
hào hùng - đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa
sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Tuy vậy, dù buồn thương, nhà thơ khơng bao giờ tuyệt vọng. Với niềm tin vào
sức mạnh muôn đời của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân
lân bình dị và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non
sông rồi sẽ sạch bóng quân xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu
làu:

Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sơng.
(Ngóng gió đơng)
Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu,
chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Cái đạo của ơng khơng là gì khác ngồi đạo u nước thương dân. Đó là
nguồn gốc khiến thơ văn ơng có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn
Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền;
Lịng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất
trọn vẹn, tấm lòng yêu nước của những người nơng dân bình thường này, vẻ đẹp
thực sự của tâm hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn tồn tại,
nhưng nào ai biết đến họ. Họ vẫn có đấy, sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng
của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc
sống của họ đã từng vạt vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn,
Toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thơng tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với
chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nơng dân cần Giuộc, người nơng dân
lục tính, cũng là người nơng dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và
cô đơn trong cuộc sống, cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng,
oằn vai cam chịu bao nhiêu gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai
họa từ thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như,
chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ đối với họ; tưởng như họ, những người



nơng dân vất vả ấy, chẳng cịn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngồi những
“toan lo nghèo khó” vốn đã q lớn lao ấy.
Thế mà khơng, qn xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng,
đã đến tận ngơi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng
phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng
mày nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản
rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua
mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nơng dân Cần Giuộc. Nó
chính là lịng căm thù giặc sục sơi vì hành động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nơng ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp: muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh
một khát vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự
nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Người nơng dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hồn tồn với người
nơng dân chỉ trước đo không bao lâu “Bước chân xuống thuyền, nước mắt như
mưa” khi phải sung làm lính đi biên thủ phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà
vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của mọi người
nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại
xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong mọi việc nghĩa, khơng có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc
nghĩa thì phải làm, làm một cách vơ tư, khơng vụ lợi, khơng chần chừ, khơng cần
đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nơng dân Cần Giuộc, đó

cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Gần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
Trông tin quan như trời hạn trông mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân
của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một
cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy... tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ... mắt chưa từng ngó


Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang
theo những trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những
tên lính nhà nghề vừa có đủ thứ “tàu thiếc tàu đông’', ‘‘đạn nhỏ đạn to", họ chỉ là
những người nơng dân khơng có kiến thức gì vê trận mạc, chỉ có “một manh áo
vải”, “một ngọn tầm vơng”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh
lệch làm sao! Kết thúc cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn
bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống
nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài
cả thế kỉ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng
ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên
trên nỗi lo thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần, xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi
sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như
không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có...
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu

như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy
đến mức độ tối đa và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức
mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
... Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma lí hồn kinh...
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có
một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình
ảnh người nơng dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì
vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần
Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của
nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, khơng làm sao có
được sự hịa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái
chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô của xang vào”, với những “kẻ đâm ngang,
người chém ngược”, “bọn hè trước, lũ ó sau" như thế dược.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ
Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vơ danh. Họ đã sống những cuộc
đời của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vơ danh. Họ khơng hề
tìm một điều gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đòi,


điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng
đài của họ, ấy là cái triết lí sống này:
Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Hồn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho
những lời ngợi ca, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa

sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ
Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn cần Giuộc của thực dân
Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc
kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà những nghĩa quân đã gây cho giặc
có lẽ cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu quả thực sự mà họ tạo nên cho cuộc
kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước tha thiết và vô tư của họ,
bằng tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sự dũng cảm vô điều kiện và tuyệt vời của họ,
thì to lớn vơ cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hồn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân
dân khi tạc nên bức tượng đài ấy.



×