Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu tại Công ty In báo Hà Nội Mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.25 KB, 11 trang )

Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu tại Công ty In báo Hà Nội Mới.
3.1. Đánh giá khái quát thực trạng kế toán nguyên, vật liệu tại Công ty In báo
Hà Nội Mới.
Công ty In báo Hà Nội Mới là một trong những Công ty nhạy bén với những
biến đổi của thị trường, đã tự tìm cho mình một hướng đi phù hợp với điều kiện
riêng của Công ty, thích ứng với môi trường mới nhờ vậy hoạt động kinh doanh
của Công ty đang có hiệu quả cao. Để đứng vững và tiếp tục phát triển, Công ty đã
chú trọng rất nhiều đến tổ chức bộ máy kế toán cũng như kế toán của Công ty.
Trong giai đoạn hiện nay, Công ty In báo Hà Nội Mới đang trên đà phát triển
vững mạnh. Cùng với sự phát triển của Công ty kế toán nói chung và kế toán
nguyên, vật liệu nói riêng cũng không ngừng được củng cố, hoàn thiện, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, kế toán trong điều kiện nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
Tại Công ty, bộ máy kế toán được tổ chức theo mô hình tập trung, gồm 5
nhân viên đã hoàn thành tốt công việc kế toán của Công ty. Bộ máy được tổ chức
gọn nhẹ nhưng đạt hiểu quả cao, công việc được sắp xếp phù hợp với chuyên môn
và năng lực của từng người. Hơn nữa đa số cán bộ phòng kế toán là những người
có thâm niên công tác cao, có kinh nghiệm và hiểu rõ công việc mình làm. Khi làm
việc có tinh thần trách nhiệm cao, phối hợp chặt chẽ với nhau nhờ vậy kế toán của
Công ty được hoàn thành một cách đầy đủ, chính xác kịp thời
3.1.1. Về tổ chức bộ máy kế toán.
Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo mô hình tập trung, đây là
một mô hình ưu việt, tránh sự chồng chéo trong thực hiện công việc. Tất cả các
công việc kế toán đều đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của kế toán trưởng. Tạo điều
kiện cho kế toán trưởng và các nhân viên trong phòng kế toán cung cấp thông tin
tài chính tổng hợp đầy đủ chính xác cho ban giám đốc của Công ty. Các quyết định
về tài chính do vậy cũng trở nên chính xác kịp thời hơn.
Về mặt nhân sự, nhân viên kế toán trong Công ty là những người có chuyên
môn tốt,có nhiều kinh nghiệm. Công việc kế toán do vậy được hoàn thành tốt,
đúng như ban lãnh đạo của Công ty yêu cầu. Phân công lao động kế toán trong
Công ty đúng theo trình độ chuyên môn và năng lực của từng người. Đặc biệt trong


phân công lao động Công ty thực hiện rất tốt nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Điều này
thể hiện ở 2 điểm sau:
Thứ nhất : Về kế toán vật tư, phân công cho 2 người. 1 kế toán vật tư tại
phòng tài vụ thực hiện công việc kiểm kê nguyên, vật liệu nhập kho cùng với thủ
kho, 1 kế toán vật tư tại phòng vật tư thực hiện công việc kế toán chi tiết nguyên,
vật liệu. Điều này tách rời công việc nhận hàng và công việc ghi chép ra cho 2
người, tránh khả năng xảy ra gian lận do thông đồng giữa kế toán vật tư và thủ kho.
Thứ hai : Về quản lý phế liệu và bán phế liệu. 2 công việc này được tách rời
và giao cho 2 người là kế toán kho và kế toán thanh toán. Kế toán kho theo dõi
quản lý phế liệu nhập kho xuất kho, nhưng không tham gia và bán phế liệu. Bán
phế liệu do kế toán thanh toán thực hiện. Điều này đảm bảo kế toán kho không
gian lận trong ghi chép phế liệu nhập kho, xuất kho..
3.1.2. Về tổ chức quản lý và kế toán nguyên, vật liệu.
Công ty có rất nhiều chủng loại ngyên vật liệu khác nhau nên công tác quản
lý và kế toán nguyên, vật liệu của Công ty gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên việc
quản lý và kế toán chi tiết nguyên, vật liệu ở Công ty đã hoàn thành tốt thể hiện
qua những điểm sau đây:
Thứ nhất: Về phương pháp sử dụng trong kế toán chi tiết nguyên, vật liệu,
Công ty sử dụng phương pháp thẻ song song đây là phương pháp đơn giản, dễ thực
hiện, ngoài ra Công ty ứng dụng kế toán máy làm giảm thiểu công việc tăng độ
chính xác.
Thứ hai: Về phương pháp tính giá nguyên, vật liệu, phương pháp tính giá
nguyên, vật liệu Công ty sử dụng là phương pháp giá bình quân cuối kỳ. Do
nguyên, vật liệu dùng trong sản xuất của Công ty thường xuyên sự biến động về
giá cả nên phương pháp tính giá này làm cho công việc kế toán chi phí trở nên đơn
giản hơn rất nhiều. Phương pháp này nếu được áp dụng đối với đơn vị không sử
dụng kế toán máy thì rất khó khăn trong việc tính giá bình quân cuối kỳ , nhưng
đối với Công ty thì đó là công việc dễ dàng khi đến cuối kỳ máy sẽ tự tổng hợp các
số liệu về nhập xuất nguyên, vật liệu tính ra giá xuất nguyên, vật liệu.
Thứ ba: Về mã hóa nguyên, vật liệu, Công ty đã xây dựng phương pháp mã

hóa nguyên, vật liệu khoa học thuận tiện cho công tác quản lý vật tư. Đối với một
danh mục nguyên, vật liệu dài gồm hơn 300 chủng loại khác nhau, mỗi chủng loại
có quy cách, khối lượng, kích cỡ công dụng khác nhau thì việc mã hóa từng loại
nguyên, vật liệu để thuận tiện cho công tác quản lý là yêu cầu khách quan và cũng
rất khó khăn. Công ty đã thực hiện tốt công việc này.
Thứ tư: Việc kế toán chi tiết nguyên vật liệu tại Công ty đã được thực hiện
tốt thể hiện qua tài khoản để kế toán chi tiết nguyên, vật liệu, Công ty đã chi tiết tài
khoản 152 thành các tài khoản cấp 2 để kế toán nguyên, vật liệu chính, nguyên vật
phụ, nhiên liên và các nguyên, vật liệu khác ra các tài khoản chi tiết khác nhau,
trình tự luân chuyển chứng từ, ghi sổ được bố trí hợp lý. Điều này làm cho kế toán
chi tiết nguyên, vật liệu trở nên rạch ròi và rõ ràng hơn. Tuy nhiên việc chỉ chi tiết
tài khoản 152 thành 3 tài khoản cấp 2 là chưa hợp lý. Trong khi Công ty có 5 nhóm
nguyên, vật liệu chính mà chỉ thì việc chi tiết tài khoản 152 thành 3 tài khoản cấp 2
dẫn đến việc hạch toán chi tiết nguyên, vật liệu trở nên chồng chéo không rõ ràng.
Ngoài ra trong kế toán nhập kho nguyên, vật liệu, nếu gặp trường hợp hàng về mà
hoá đơn chưa về thủ kho vấn tiến hành nhập kho, kế toán sẽ không phản ánh
nghiệp vụ vào máy tính mà sẽ chờ cho đến khi hoá đơn về mới nhập dữ liệu nghiệp
vụ vào máy tính. Việc này dẫn đến quản lý nguyên, vật liệu không chính xác, số
lượng nguyên, vật liệu thực có trong kho không trùng với số liệu trên sổ sách
Thứ năm: Việc kiểm tra đối chiếu giữa các sổ kế toán diễn ra thường xuyên.
Số liệu của kế toán vật tư và thủ kho thường xuyên được đối chiếu nên việc ghi
chép rất chính xác.
Thứ sáu: Quản lý nguyên vật liệu của Công ty được thể hiện tốt thể hiện
qua việc xây dựng hệ thống định mức sử dụng vật tư của Công ty được xây dựng
cho những nguyên, vật liệu chính của Công ty như giấy, bản in. Tạo điều kiện cho
các phân xưởng sử dụng một cách tiết kiệm, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy
nhiên Công ty mới chỉ kiểm soát được chi phí nguyên, vật liệu chung cho cả 3
phân xưởng chứ chưa kiểm soát được chi phí nguyên, vật liệu phát sinh cho từng
phân xưởng một. Điều này thể hiện ở điểm các tài khoản chi phí 621, 627 không
được chi tiết thành tài khoản cấp 2 cho từng phân xưởng. Nếu Công ty không chi

tiết tài khoản 621, 627 cho từng phân xưởng thì có thể sử dụng bảng phân bổ chi
phí nguyên, vật liệu, sử dụng bảng này sẽ cho Công ty biết được chi phí nguyên,
vật liệu cho từng phân xưởng sản xuất, từ đó giúp cho quản lý chi phí nguyên, vật
liệu ở từng phân xưởng.
Thứ bẩy: Trong kế toán tổng hợp nguyên, vật liệu Công ty lựa chọn hình
thức ghi sổ Nhật ký chung là hợp lý. Với đặc điểm các nghiệp vụ của Công ty đơn
giản, thường mang tính lặp đi lặp lại thì ghi sổ theo hình thức Nhật ký chung giúp
làm giảm thiểu sổ sách kế toán. Tuy nhiên việc định khoản chi phí nguyên, vật liệu
dùng cho quản lý chung sang chi phí sản xuất mặc dù không ảnh hưởng đến lợi
nhuận chung của Công ty do Công ty tính lợi nhuận chung cho tất cả các đơn đặt
hàng như đã nói ở trên. Tuy nhiên xét về mặt chế độ , đây là việc vi phạm chế độ
kế toán, việc định khoản như vậy không phản ánh đúng bản chất nghiệp vụ kinh tế
phát sinh.
3..2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán nguyên, vật liệu tại Công ty In
báo Hà Nội Mới.
3.2.1. Hoàn thiện về tổ chức quản lý nguyên vật liệu.
Sử dụng phiếu xuất vật tư theo định mức.
Hiện nay thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liêt, đòi hỏi các Công ty
muốn hoạt động có hiệu quả phải chuyên nghiệp hóa bộ máy quản lý. Quản lý chi
phí nguyên, vật liệu đầu vào cũng phải đáp ứng nhu cầu bức thiết đó. Muốn kiểm
soát tốt chi phí nguyên vật liệu phải làm cho công tác kiểm soát trở nên minh bạch
và rõ ràng. Do vậy bên cạnh việc sử dụng bảng định mức sử dụng nguyên, vật liệu
để quản lý chi phí đầu vào, em xin đưa ra kiến nghị Công ty nên sử dụng thêm
chứng từ phiếu xuất vật tư theo hạn mức.
Công ty sẽ căn cứ vào mức độ sử dụng vật liệu của các kỳ trước, hoặc căn
cứ vào các hợp đồng phân bổ cho mỗi phân xưởng mà xác định số nguyên, vật liệu
cần thiết cho từng bộ phận trong tháng một tháng từ đó lập Phiếu xuất vật tư theo
hạn mức( Mẫu phiếu xuất vật tư theo hạn mức biểu 17 trang 57).
Từ phiếu xuất này, phòng vật tư và kế toán sẽ biết được chính xác tình hình
sử dụng vật liệu là tiết kiệm hay lãng phí. Nếu như số lượng nguyên, vật liệu lớn

hơn hạn mức được duyệt chứng tỏ bộ phận sản xuất đã sử dụng nguyên, vật liệu
không hiệu quả, ngược lai. Từ đó ban giám đốc sẽ có các biện pháp để nâng cao
hiệu quả sử dụng
Biểu 17: Phiếu xuất vật tư theo hạn mức
VĂN PHÒNG THÀNH UỶ HÀ NỘI

×