Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.74 KB, 11 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC
HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU.
3.1. Phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán tiền lương ở công ty bánh
kẹo Hải Châu.
Trong những năm đổi mới vừa qua công ty từng bước chuyển đổi phương
hướng sản xuất, hưởng ưu tiên vào những mặt hàng truyền thống có sức cạnh tranh
khá trên thị trường (bánh quy, quy xốp, bột canh...) và giảm hoặc ngừng không sản
xuất các mặt hàng phụ (bia, mì ăn liền...). Công ty đã đầu tư công nghệ máy móc
thiết bị hiện đại nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, dành được nhiều thị
phần ở nhiều địa phương, đảm bảo sản xuất không ngừng được ổn định.
Đối với công tác hạch toán, bộ máy kế toán tập trung, từng bước áp dụng tin
học hóa, sử dụng máy vi tính để tổng hợp và cung cấp thông tin một cách nhanh
nhất.
Như vậy việc tính toán, hạch toán và thanh toán tiền lương, tiền thưởng,
BHXH, BHYT, thời gian nghỉ ngơi, kỷ luật lao động và chế độ hạch toán kế toán
của Bộ Tài chính được công ty chấp hành nghiêm chỉnh.
Công việc hạch toán tiền lương không riêng ở các nhân viên kế toán phòng tài
vụ mà huy động được nhiều người tham gia một cách công khai tạo điều kiện cho
người lao động đánh giá được kết quả công việc và mức thuế lao được hưởng.
Mỗi doanh nghiệp, mỗi xã hội đều có một hình thức, quan niệm và cách thức
trả lương khác nhau. Tuy nhiên các dịch vụ đều mong muốn có được một cách
thức tính, cách chi trả và hạch toán tiền lương một cách phù hợp với đặc điểm của
doanh nghiệp mình.
Như các nhà triết học cổ đại đã nói: "không có cái gì tuyệt đối cả cái xấu xa
trong mỗi cá nhân là hướng tới sự hoàn thiện chính bản thân mình". Cũng như vậy
do sự thay đổi về kinh tế do đặc thù về sản xuất kinh doanh, tiền lương trong mỗi
doanh nghiệp cũng đều có những tồn tại mà các nhà quản lý doanh nghiệp cũng
đang nỗ lực và muốn khắc phục cái tồn tại đó để hoàn thiện cơ chế trả lương của
mình.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Châu em xin phép được đưa


ra một số tồn tại trong công tác tính toán thanh toán và hạch toán tiền lương.
a. Vấn đề thứ nhất.
Cần xác định hợp lý đơn giá tiền lương. Trong thực tế, công ty áp dụng
phương pháp tính đơn giá theo định mức lao động, theo hệ số như hướng dẫn của
Bộ Tài chính. Với hệ thống thang bậc lương mới, mức lương tối thiểu kể cả tăng
20% mức lương tối thiểu từ tháng 1/1998 thì tiền lương trả cho người lao động ở
doanh nghiệp sản xuất trong hoàn cảnh mới cũng quá thấp so với mặt bằng giá cả
hàng hóa, mức sống của dân cư đô thị. Bên cạnh đó công ty còn tính thêm hệ số bổ
sung lương từ 1,7 - 3,5 trên cơ sở thực tiễn tăng năng suất lao động và lợi nhuận.
Điều này chứng tỏ rằng việc xây dựng đơn giá tiền lương là quá thấp và chưa sát
với thực tế.
Mặt khác, một số sản phẩm mới đưa vào sản xuất do chưa định mức được
người lao động, đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm. Vì vậy việc tính lương của
sản phẩm này lại theo lương thời gian. Điều này là không hợp lý và không khuyến
khích được người lao động nâng cao năng suất, chất lượng lao động.
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty là sản xuất sản phẩm có nhiều
công đoạn quy trình công nghệ phức tạp. Bởi vậy việc xác định phương pháp tính
đơn giá tiền lương hiện tại của công ty là hoàn toàn phù hợp với tính chất công
việc của đơn vị. Tuy nhiên để tính đúng hợp lệ đơn giá tiền lương phản ánh đúng
giá trị sức lao động của công nhân bỏ ra làm cho tiền lương thực sự là công cụ
khuyến khích vật chất đối với người lao động thì cần phải:
+ Xác định lại định mức lao động hợp lý trên cơ sở sắp xếp lại tổ chức lao
động, tổ chức lại sản xuất, bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý.
+ Ngoài công thức trên cần tham khảo thêm cách tính để có đơn giá tiền
lương phù hợp với mặt bằng giá cả hàng hóa, mức sống dân cư.
b. Vấn đề hai.
Do đơn giá tiền lương ở từng quy trình công nghệ thấp nên sau khi đã thanh
toán cho công nhân viên quỹ tiền lương vẫn còn dư rất nhiều.
Trong tháng 1/2001 tổng tiền lương thực tế phải trả cho CNV là 780.095.818
đồng (lấy số tổng cộng trong "Bảng tổng hợp thanh toán tiền lương toàn công ty").

Còn tiền lương tính vào chi phí trong tháng 1/2001 là 1.171.595.291 đồng. Bởi vậy
số dư có trên tài khoản 334 là 391.499.473 đồng bằng 50% tiền lương trả cho
CNV. Vấn đề ở đây công ty đã sử dụng quỹ tiền lương này như thế nào? Theo quy
định của công ty.
- Chỉ số bổ sung cho quỹ lương thực hiện khi nó lớn hơn quỹ lương tạm tính.
- Chỉ số bổ sung cho quỹ lương trong điều kiện khách quan tác động (điều
kiện về khí hậu) mà năng suất không cao để khuyến khích tinh thần của công nhân
viên.
- Chi trả lương trong những giai đoạn thời kỳ không có việc làm. Thiết nghĩ
không nên để số dư có TK 334 quá lớn chỉ lên đổi lại 1 tỷ lệ vừa đủ (tỷ lệ trích sẽ
dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ, kế toán thống kê lại số % quỹ lương thực chi
vượt quỹ lương tháng tính toán của các năm trước tính ra tỷ lệ bình quân).
Còn đối với việc bổ sung quỹ lương trong điều kiện khách quan tác động mà
năng suất không cao để khuyến khích tinh thần CNV e rằng sẽ có tác động ngược
lại.
Khi không có được việc làm do không tiêu thụ được sản phẩm, do máy
hỏng... thì là lỗi của công ty. Trả lương cho công nhân phải lấy từ quỹ của công ty.
Bởi vậy gây ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người lao động, chưa khuyến khích
được người lao động do thu nhập về tiền lương chưa phản ánh được kết quả lao
động của họ.
Ngoài ra với số tiền còn dư thừa công ty quy định rằng sẽ phân chia cho
người lao động sản xuất dựa trên lương cấp bậc và hệ số lương. Như vậy mô hình
chung công ty đã biến phần quỹ lương này từ hình thức trả lương theo sản phẩm
sang hình thức chia lương theo cấp bậc. Do vậy hệ thống đơn giá tiền lương và
định mức lao động của công ty phải thiết lập lại.
c. Vấn đề thứ ba.
Tiền thưởng có ý nghĩa khuyến khích, vật chất rất lớn với cán bộ CNV. Là
động lực giúp công nhân tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư và còn phát minh
nhiều sáng kiến giúp thúc đẩy nhanh tiến bộ công việc. Công ty chỉ có 2 loại
thưởng: thưởng do hoàn thành vượt mức kế hoạch và thưởng chiến sĩ thi đua. Công

ty phải bổ sung thêm chế độ tiền thưởng để khen thưởng kịp thời cho người lao
động đủ ngày hoàn thành tốt các chỉ tiêu thưởng, chỉ tiêu tiết kiệm vật tư, chỉ tiêu
tiết kiệm sản phẩm và phải quy định tỷ lệ một cách rõ ràng, ổn định phải phù hợp
tránh tỷ lệ mà công nhân không thể đạt được hoặc quá thấp mà người lao động
không cần cố gắng cũng đạt được.
Công ty nên áp dụng các hình thức thưởng phổ biến sau:
Chế độ thưởng thường xuyên:
- Thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm: Thưởng giảm tỷ lệ hàng hỏng cho
những người lao động hoàn thành hoặc giảm tỷ lệ hàng hỏng so với quy định. Mức
và nguồn tiền thưởng trích tối đa 50% sổ tiết kiệm được thưởng để thưởng cho tổ
và cá nhân có thành tích nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thưởng nâng cao tỷ lệ: Hàng có chất lượng cao (loại 1) chỉ tiêu xét thưởng
hoàn thành và hoàn thành vượt mức sản phẩm loại 1 và loại 2 trong một thời gian
nhất định. Mức và nguồn tiền thưởng dựa vào chênh lệch giá trị giữa sản phẩm các
loại đạt được với tỷ lệ sản phẩm từng loại mặt hàng đã quy định. Mức lương tối đa
50% giữa giá trị chênh lệch đó.
- Thưởng tiết kiệm vật tư:
Chỉ tiêu xét thưởng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu về tiết kiệm vật tư nhưng
phải đảm bảo những quy phạm kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, an toàn
lao động. Theo nguyên tắc trích từ 30% - 40% giá trị vật liệu tiết kiệm được.
Chế độ thưởng đột xuất định kỳ.
- Thưởng thi đua: Phần tiền thưởng này nằm trong kế hoạch khen thưởng của
xí nghiệp, nó áp dụng một cách linh hoạt trong các trường hợp như thưởng cho
phát minh sáng kiến, thưởng khi người lao động hoàn thành tốt công việc được
giao... Thưởng dưới hình thức này sẽ làm cho người lao động thấy rằng mình được
quan tâm và đó chính là động lực rất lớn để người lao động cố gắng hơn. Theo chế
độ kế toán quy định người lao động có phát minh sáng kiến được thưởng 5% giá trị
bằng sáng kiến đó.
- Thưởng của hãng: Hình thức này áp dụng trong trường hợp mà lợi nhuận
của hãng tăng lên, lúc đó hãng quyết định trích ra một phần để thưởng cho người

lao động. Thông thường của hãng bao gồm:
+ Trích ra một phần để thưởng, tính đồng đều cả người lao động.
+ Phần còn lại sẽ thưởng tùy theo mức đóng góp của từng người.
Để phân chia quỹ khen thưởng này (được trích từ lợi nhuận và các khoản tiết
kiệm được của người lao động). Công ty đưa ra hệ số năng suất lao động. Hệ số
năng suất này dựa trên quỹ khen thưởng và quỹ lương của các bộ phận. Cũng khen
thưởng chỉ tối đa bằng 6 tháng lương của quỹ lương cả năng của cả hệ số lương và
các khoản phụ cấp theo lương ở từng bộ phận để phù hợp với chế độ quy định.
d. Vấn đề thứ tư.
Trong công tác hạch toán chi tiết tiền lương, công ty đưa ra một hệ thống
chứng từ tương đối phù hợp với đặc điểm của công ty. Tuy nhiên, do chưa quán
triệt đầy đủ nguyên tắc ghi chép bảng biểu của Nhà nước nên chưa cung cấp thông
tin một cách toàn diện.
Bảng chấm công không được sử dụng đúng ở các bộ phận theo chức năng và

×