Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.63 KB, 37 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH
THEO LƯƠNG CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU
2.1. Bản chất của tiền lương và các hình thức trong doanh nghiệp nói
chung.
2.1.1. Bản chất của tiền lương.
a. Khái niệm.
Theo từ điển thống kê của nước ta năm 1977 tiền lương được định nghĩa
như sau: "Tiền lương là số tiền rả cho người công nhân viên chức theo số
lượng và chất lượng lao động của họ đã đóng góp" hay nói cách khác: "Tiền
lương là giá cả của sức lao động. Giá trị của sức lao động thể hiện ở khả năng
lao động của con người về thể chất và trí tuệ".
Khái niệm tiền công hay tiền lương chỉ mang tính quy ước, do đó nó là
giá cả sức lao động mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo
thỏa thuận để hoàn thành một công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định
thông qua hoạt động lao động. Như vậy tiền lương là nguồn sống chủ yếu của
người lao động và gia đình họ.
Việc xác định chính xác tiền lương là một công việc phức tạp đòi hỏi
những số liệu chi tiết và chính xác thông qua quá trình quan sát đo lường tính
toán và ghi chép các hoạt động nhằm thực hiện chức năng giám sát, phản ánh
các hoạt động kinh tế.
b. Bản chất của tiền lương.
Về bản chất tiền lương chính là giá cả của hàng hóa đặc biệt đó là hàng
hóa sức lao động. Nghĩa là người lao động bỏ sức của mình ra để hoàn thành
một sản phẩm hàng hóa nào đó và được trả một số tiền nhất định.
Trong cơ chế thị trường bản chất của tiền lương chính là giá cả sức lao
động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thỏa thuận
giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Tiền lương là một vấn đề thiết thân đối với đời sống cán bộ công nhân
Chuyên đề thực tập
viên chức. Tiền lương được quy định một cách đúng đắn là một yếu tố kích


thích sản xuất mạnh mẽ đẩy mạnh công cuộc xây dựng XHCN. Nó khuyến
khích mỗi người ra sức sản xuất làm việc nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến
kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất tăng nhanh năng suất lao động.
c. Chức năng của tiền lương.
Hiện nay nền kinh tế thị trường để phát huy hết hiệu quả kinh tế của tiền
lương tác động lên người lao động thì tiền lương phải đảm bảo các chức năng
sau.
Chức năng tái sản xuất sức lao động: lao động là một trong ba yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất. Sức lao động là một dạng công nằm tồn tại trong
cơ thể con người. Trong quá trình tạo ra sản phẩm con người phải hao phí sức
lao động của mình và do vậy tiền lương phải đảm bảo bù đắp khoản hao phí
này để tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu tất yếu, là cơ sở tối thiểu để
đảm bảo sự tác động trở lại của phân phối tới sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất tiền lương
cần thiết phải đủ để nuôi sống người lao động và gia đình họ mới đảm bảo tái
sản xuất ra lực lượng sản xuất xã hội. Như vậy quá trình tái sản xuất xã hội sẽ
không được đảm bảo cho quá trình tái sản xuất sức lao động cả về thể lực lẫn
tinh thần. Đây là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho quá trình tái sản xuất xã hội
được phát triển.
Vai trò kích thích sản xuất: Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện các
quan hệ kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội nhất định, nó là động cơ thúc
đẩy hoạt động kinh tế của con người.
Lợi ích kinh tế tạo ra động lực mạnh mẽ kích thích sự hoạt động của
con người. Đồng thời lợi ích kinh tế như một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ
khoa học kinh tế - xã hội. Nhu cầu của con người tạo ra động cơ thúc đẩy họ
tham gia lao động song chính lợi ích của họ mới là động lực trực tiếp thúc
đẩy họ làm việc với hiệu quả cao. Do đó chính sách tiền lương đúng đắn sẽ
là động lực to lớn phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong việc thực
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
22

Chuyên đề thực tập
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc chi trả lương phải nhằm mục đích
thúc đẩy mà khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả lao động.
d. Nguyên tắc trả lương.
Như đã nói ở trên tiền lương lao động biểu hiện rõ ràng nhất lợi ích kinh
tế của người lao động và trở thành đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ nhất để khích
thích người lao động. Tuy nhiên để có thể phát huy được những chức năng cơ
bản của tiền công thì việc trả công phải dựa trên nguyên tắc cơ bản sau:
Tiền lương phải đảm bảo tài sản xuất sắc lao động: tiền lương là nguồn
thu nhập chủ yếu của người lao động. Bởi vậy độ lớn của tiền lương không
những phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng về số lượng và chất lượng lao động
mà còn phải đảm bảo nuôi sống gia đình họ.
Tiền lương phải chịu trên cơ sở thỏa thuạn giữa người có sức lao động và
người sử dụng sức lao động: Nguyên tắc này bắt nguồn từ pháp lệnh hợp
đồng lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Song mức độ
tiền lương phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu (tức là số
tiền trả cho loại lao động giản đơn nhất trong xã hội).
Tiền lương trả cho người lao động phải phụ thuộc vào hiệu quả lao động
của người lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Nguyên tắc
này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa tái sản xuất và tiền dùng trong đó sản xuất
đóng vai trò quan trọng.
e. Các chính sách tiền lương của nhà nước ta hiện nay.
Tiền lương giữ vai trò quan trọng to lớn trong vấn đề kích thích sản
xuất. Chính vì vậy trong nhiều năm Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu, xây
dựng và nhiều lần sửa đổi chế độ tiền lương, thu nhập các bộ công nhân viên
sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cơ chế quản lý của từng thời
kỳ: Từ sau Đại hội VI của Đảng do Nhà nước chuyển nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN thì chế độ tiền lương cũng thay đổi. Tháng 05 năm 1993

Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
33
Chuyên đề thực tập
Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã ban hành các Quyết định số 69/QĐ-TW và
Ban Bí thư TW Đảng, số 35/UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
các Quyết định số 28/CP của Hội đồng Chính phủ về việc ban hành chế độ
tiền lương cho người lao động.
Nhà nước ban hành các chính sách chế độ tiền lương để giúp cho các
doanh nghiệp có thể dựa vào đó để có chế độ trả lương đúng đắn. Tuy nhien
người chủ sử dụng lao động phải dựa vào đặc điểm của quá trình lao động,
yêu cầu của quá trình lao động về tính chất của sản phẩm để lựa chọn hình
thức trả lương cho phù hợp. Hình thức trả lương phải được áp dụng sao cho
đảm bảo việc tuân thủ theo quy định phân phối lao động theo hoạt động một
cách nghiêm ngặt và kích thích người lao động tích cực làm việc.
Mức lương tối thiểu.
Năm 1994 quy định mức lương tối thiểu ở nước ta là 120.000 đồng/
tháng. Năm 1997 là 144.000đ/ tháng. Năm 2000 là 180.000đ/ tháng. Mức
lương tối thiểu của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay được điều chỉnh theo
ngành, vùng nhưng phần phát triển thêm không được quá tối đa 1,5 lần so với
mức tối thiểu chung do Nhà nước quy định (NĐ số 77/2000/NĐ-CP ngày 15
tháng 12 năm 2000 quy định mức lương tối thiểu là 210.000đồng/ ngày/ tháng
Nhà nước khống chế mức lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương
tối đa mà điều tiết bằng thu nhập. Việc khống chế mức lương tối thiểu có
nghĩa là: Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích tối thiểu cho
người lao động. Nếu doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thua lỗ để người
lao động có thu nhập dưới mức lương tối thiểu thì Nhà nước can thiệp, kiểm
tra xem xét thay đổi cán bộ lãnh đạo giúp đỡ doanh nghiệp chuyển hướng sản
xuất, sát nhập với xí nghiệp khác hoặc thậm chí cho phá sản. Đối với người
lao động có thu nhập quá cao sẽ được điều tiết bằng thuế thu nhập.
Chế độ phụ cấp.

Các chế độ phụ cấp thực chất là phần tiền lương bổ sung cho lương cơ bản
mà trong khi xác định tiền lương cơ bản có những yếu tố người ta chưa tính
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
44
Chuyên đề thực tập
đến hoặc đã tính đến nhưng chưa đầy đủ. Chế độ phụ cấp nhằm đãi ngộ điều
kiện lao động và điều kiện sinh hoạt không ổn định thường xuyên của người
lao động. Tổng các khoản phụ cấp chỉ được tính bằng 18% lương cơ bản.
Tiền phụ cấp = lương cơ bản x mức % phụ cấp.
Hiện nay ở nước ta đang áp dụng một số hình thức phụ cấp sau:
Phụ cấp khu vực: Là phụ cấp nhằm đãi ngộ hợp lý và khuyến khích cán
bộ công nhân viên công tác ở các vùng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực
như: Hải Đảo, vùng sâu, vùng xa... Đồng thời góp phần điều chỉnh lao động
giữa các vùng trong xã hội lẫn nhau. Chế độ phụ cấp khu vực có 5 cấp độ:
5%, 10%, 15%, 20%, 25%.
Phụ cấp độc hại: Là số tiền trả thêm cho những người làm việc trong môi
trường độc hại vượt quá mức cho phép.
Tiền phụ cấp = x mức % phụ cấp x thời gian.
Phụ cấp làm thêm, làm đêm: Đây là số tiền để bồi dưỡng động viên cán
bộ công nhân viên khi cần thiết phải làm thêm giờ, làm đêm.
Tiền phụ cấp =
Chế độ tiền thưởng.
Tiền thưởng là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ
hơn nguyên tắc phân phối theo lao động đồng thời nó cũng là đòn bẩy kinh
tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Mỗi hình thức, mỗi chế độ tiền thưởng đến
phản ánh một nội dung kinh tế nhất định. Căn cứ vào trình độ tổ chức sản
xuất tổ chức lao động và trình độ kỹ thuật cụ thể để vận dụng thích hợp các
hình thức và chế độ tiền thưởng. Khi xét các chỉ tiêu xét thưởng cũng như
các chỉ tiêu đánh giá thành tích nhất thiết phải coi trọng chỉ tiêu chất lượng
và chỉ tiêu số lượng không được coi nhẹ bất kỳ chỉ tiêu nào. Khi xét mức

thưởng của mỗi cán bộ công nhân viên được hưởng cao hay thấp là phụ
thuộc vào mức độ thành tích hiệu quả làm việc của công nhân. Tuy nhiên
tổng tiền lương bao giờ cũng nhỏ hơn tổng giá trị làm lợi. Hiện nay theo quy
định của nhà nước quỹ tiền thưởng không được quá 50% tổng quỹ lương
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
55
Chuyên đề thực tập
thực hiện của đơn vị (trích điều 3 Quyết định 317-CP ngày 01/09/1990 của
CTHĐBT). Quỹ tiền thưởng hiện nay được hình thành từ 2 nguồn thuộc quỹ
tiền lương và quỹ khuyến khích vật chất. Nói chung quỹ tiền thưởng phụ
thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền thưởng là lợi ích vật
chất khuyến khích người công nhân quan tâm đen\én kết quả công việc và
trách nhiệm của mình hơn nữa. Nếu biết áp dụng tốt chế độ thưởng các
doanh nghiệp có thể đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
2.1.2. Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
Hoạt động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân bao gồm sản xuất
công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, vận tải, bưu điện, thương nghiệp xây
dựng cơ bản... hoạt động kinh doanh của các đơn vị thuộc các lĩnh vực này
cũng có những đặc thù khác nhau. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải dựa
vào đặc điểm về điều kiện sản xuất cụ thể của mình để áp dụng các hình thức
trả lương cho thích hợp. Hiện nay có 2 hình thức trả lương cơ bản sau:
a. Hình thức trả lương theo thời gian.
Tiền lương trả theo thời gian chỉ áp dụng đối với những người làm công
tác quản lý còn đối với công nhân sản xuất chỉ áp dụng ở những bộ phận
không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính
chất của sản xuất hạn chế nên thực hiện trả công theo sản phẩm thì sẽ không
đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực.
- Hình thức này có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức tiền lương trả
theo sản phẩm, bởi vì nó chưa gắn thu nhập của mỗi người với kết quả lao
động mà họ đã đạt được trong thời gian làm việc. Hình thức trả lương theo

thời gian gần 2 chế độ.
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn, chế độ này là chế độ trả lương
mà tiền lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao
hay thấp và thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả
lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động chính xác, khó
đánh giá công việc thật chính xác.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
66
Chuyên đề thực tập
L
CN =
L
MIN
x K
CN
x T
Trong đó:
L
MIN
: Lương tối thiểu.
K
CN
: Hệ số lương cấp bậc công nhân.

T: Thời gian làm việc thực tế.
Có ba loại tiền lương theo thời gian.
Lương giờ: Tính theo lương cấp bậc và số giờ làm việc.
Lương ngày: Tính theo lương cấp bậc ngày và số ngày làm việc thực tế
trong tháng.
Lương tháng: Tính theo lương cấp bậc tháng.

Nhược diểm của chế độ trả lương này là mang tính chất bình quân khong
khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên liệu, tập
trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động. Chế độ trả
lương theo thời gian có thưởng là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời
gian giản đơn và với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng
hoặc chất lượng đã quy định. Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng đối với
những công nhân phụ làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh
thiết bị... ngoài ra còn áp dụng đối với những công nhân chính làm việc ở
những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hóa cao, tự động hóa của những công
việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng.
Tiền lương của công nhân được tính bằng cách lấy lương theo thời gian
đơn giản nhất cộng thêm tiền thưởng. Trong chế độ trả lương này không
những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn
chặt với thành tích công tác thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì
vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả làm việc và trách
nhiệm công tác. Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật chế
độ tiền lương ngày càng mở rộng hơn.
b. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
77
Chuyên đề thực tập
Hiện nay trong các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau đang áp dụng rộng rãi hình thức trả lương theo sản phẩm với nhiều
chế độ linh hoạt. Hình thức trả lương cho người lao động theo sản phẩm có
nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian và có những tác
dụng sau:
Quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động (theo số lượng và
chất lượng sản phẩm). Gắn liền thu nhập về tiền lương với kết quả sản xuất
của mỗi người do đó kích thích tăng năng suất lao động.
Khuyến khích mỗi người lao động, ra sức học hỏi nâng cao trình độ tay

nghề, cải tiến phương pháp lao động sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao
năng suất lao động.
Chế độ trả lương theo sản phẩm gồm các loại:
- Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: được áp dụng đối
với đối tượng làm việc độc lập, công việc có thể định mức kiểm tra và nghiệm
thu sản phẩm trực tiếp.
Đơn giá (ĐG) = L/Q
o
Hoặc ĐG = L x T
o
Trong đo:
L: Lương cấp bậc công việc (tính theo ngày giờ).
Q
o
: Định mức sản lượng (bao nhiêu sản phẩm trong một đơn vị thời
gian)
T
0
: Định mức thời gian.
Tính lương cho công nhân theo công thức.
L
CN
= ĐG x Q
Trong đó:
L
LC
: Lương thực tế công nhân nhận được trong ngày hoặc tháng.
ĐG: Đơn giá sản phẩm.
Q: Số lượng sản phẩm công nhân làm được thực tế.
Chế độ trả lương trực tiếp này có ưu điểm là người công nhân nhận biết

ngay với kết quả lao động của mình (trong ngày hoặc tháng) sẽ nhận được
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
88
Chuyên đề thực tập
bao nhiêu tiền lương kích thích họ tăng năng suất lao động. Tuy nhiên nhược
điểm của nó là người công nhân ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc
thiết bị, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, ít quan tâm chăm lo đến công việc
chung của tập thể.
- Chế độ trả lương tính theo sản phẩm tập thể: áp dụng đối với những
công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện như: lắp ráp thiết bị, sản
xuất dây chuyền.
Đơn giá ở đấy tính theo công thức:
ĐG
TT
=
Q
L
n
1i

=
hoặc: ĐG
TT
=
0
n
1i
TxL

=

Trong đó:
ĐG
TT
: Đơn giá sản phẩm tập thể.

=
n
1i
L
: Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc (1 đến n)
Q
0
: Định mức sản lượng.
T
0
: Định mức thời gian.
Tính lương công nhân 2 bước:
- Tính tổng tiền lương của tập thể.
- Tính lương cho từng công nhân tham gia vào công việc.
L
TT
= ĐG
TT
x Q
Q: Số lượng sản phẩm tập thể làm được trong ngày.
Tính lương cho từng công nhân: khi tham gia công việc các cá nhân
công nhân có thể có bậc thợ khác nhau và thời gian tham gia vào công việc
của mỗi người có thể khác nhau. Do đó khi tính toán chia lương cho từng
người thì phải xem xét đến yếu tố này.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B

99
Chuyên đề thực tập
Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể cơ ưu điểm là khuyến khích công
nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả
cuối cùng của tập thể. Tuy nhiên, nhược điểm của chế độ trả lương này chưa
đề cao được nguyên tắc phân phối theo lao động, sản lượng của mỗi công
nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, phân phối tiền lương cho
cá nhân chưa tính đến điều kiện sức khỏe thái độ của mỗi người.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng cho những công
nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của
công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm cụ thể là công nhân phục vụ
máy, sửa chữa... tiền lương của công nhân phụ tùy thuộc vào kết quả sản xuất
của công nhân chính. Do đó đơn giá tính theo công thức sau:
ĐG
GT
=
00
QxM
L
Trong đó:
ĐG
GT
: Đơn giá lương sản phẩm gián tiếp.
L: Lương cấp bậc công nhân phụ.
Q
0
: Định mức sản lượng công nhân chính.
M
0
: Định mức phục vụ công nhân phụ.

Tính lương công nhân theo chế độ sản phẩm gián tiếp.
L
CN
= ĐG
GT
x
Σ
Q
Trong đó:
Σ
Q: Tổng sản phẩm của công nhân chính đạt được.
Chế độ trả lương này có ưu điểm là khuyến khích công nhân phục vụ tốt
hơn cho công nhân chính, tại điều kiện nâng cao năng suất lao động.
- Chế độ trả lương khoán: áp dụng cho những công việc yêu cầu phải
hoàn thành trong một thời gian nhất định, chủ yếu trong xây dựng cơ bản và
một số công việc trong nông nghiệp có thể thực hiện khoán cho tập thể hoặc
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
1010
Chuyên đề thực tập
cá nhân.
Đơn giá khoán có thể tính theo đơn vị công việc. Tính đơn giá khoán vẫn
thực hiện theo nguyên tắc chia tổng tiền lương theo cấp bậc công việc và cho
tổng các mức sản lượng.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng: chế độ này nhằm mục đích
khuyến khích công nhân sản xuất vượt mức kế hoạch. Những sản phẩm vượt
mức được trả lương cao hơn những sản phẩm bình thường. Tiền lương chế độ
này tính theo công thức:
L
TH
: Lương có thưởng.

L: Lương bình thường theo sản phẩm với đơn giá cố định.
m: % tiền thưởng cho 1% hoàn thành vượt mức kế hoạch.
h: % vượt mức kế hoạch.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm lũy tiến: thực chất của chế độ trả lương
này là trả lương theo sản phẩm có thưởng nhưng những sản phẩm vượt mức
về sau được tính đơn giá cao hơn những sản phẩm vượt mức trước, tức là m
được tăng dần theo chế độ tăng của h. Chế độ trả lương này áp dụng rất hạn
chế vì tỷ lệ tiền lương trong giá thành những sản phẩm vượt kế hoạch sẽ cao
hơn bình thường dẫn đến giá thành bình quân tăng. Do vậy, chế độ trả lương
theo sản phẩm lũy tiến chỉ áp dụng ở những khâu yếu trong sản xuất mà xét
thấy việc giải quyết những tồn tại ở khâu này có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở
những khâu khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch của
doanh nghiệp.
c. Một số chế độ khác khi tính lương.
Chế độ trả lương khi ngừng việc: Theo điều 62 của Bộ luật lao động
được quy định.
Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương, những
người lao động khác trong cùng đơn vị ngừng việc được trả lương theo mức
độ thỏa thuận giữa 2 bên nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
Nếu vì sự cố mất điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
1111
Chuyên đề thực tập
động hoặc vì những nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, bão lụt) thì tiền
lương do hai bên thỏa thuận nhưng cũng không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Theo điều 63 Bộ luật lao động: Các chế độ phụ cấp tiền lương và các chế
độ khuyến khích khác có thể được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa
ước tập thể hoặc quy định trong quy chế của doanh nghiệp.
2.2. Thực trạng công tác tiền lương của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
2.2.1. Hình thức tổ chức hạch toán lao động tiền lương và công tác kế

toán tiền lương của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
a. Đặc điểm chung về hạch toán tiền lương.
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác và theo chế độ kế toán hiện
hành, công tác hạch toán lao động tiền lương ở Công ty Bánh kẹo Hải Châu
được tiến hành như sau:
Việc thu thập số liệu tình hình từ dưới lên theo hai kênh: thời gian lao
động (coi như là hao phí lao động vật chất) và tiền lương, các khoản phụ cấp
tiền lương (thể hiện hao phí lao động về giá trị). Hai khâu này có quan hệ mật
thiết với nhau, dựa vào thời gian lao động, kết quả lao động để tính trả lương
cho người lao động.
Trình tự tiến hành công việc hạch toán trên đây diễn ra theo quá trình từ
dưới lên (công nhân tự hạch toán, tổ sản xuất chấm công, hạch toán sản
phẩm), nhân viên phân xưởng tập hợp số liệu theo tổ, ca làm việc, quản đốc
xem xét duyệt chứng từ, tổng hợp tiền lương của phân xưởng. Hàng tháng
phòng tổ chức xem xét duyệt chứng từ của phân xưởng, đồng thời chuyển cho
phòng kế toán kiểm tra các khoản chi trả và giám đốc duyệt chi các khoản
lương, thưởng, BHXH... hàng tháng. Căn cứ vào tiền lương đã được duyệt kế
toán lương và thủ quỹ trả lương trực tiếp hàng tháng cho người lao động,
đồng thời kế toán lương tập hợp các khoản chi trả lương, BHXH... tiến hành
phân bổ vào giá thành sản phẩm. Bởi vậy, trình tự luân chuyển chứng từ để
hoạch toán tiền lương như sau:
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
1212
Chuyên đề thực tập
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng

Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
Bảng thanh toán tiền lương ở mỗi phân xưởng
b. Hạch toán tiền lương theo thời gian.
Hình thức trả lương này được áp dụng chủ yếu đối với các bộ phận quản
lý của công ty (kể cả nhân viên quản lý phân xưởng) công nhân sản xuất phụ
trợ (như lò hơi, cơ điện, phục vụ ngoài dây chuyền sản xuất chính). Ngoài ra
công nhân sản xuất chính đối với một số sản phẩm (công việc) không định
mức được hoặc vì khó định mức cũng hưởng lương theo thời gian.
Để trả lương cho nhân viên theo hình thức tiền lương này, công ty sử
dụng công thức sau:
= x
Trong đó: Hệ số bổ sung lương hàng tháng tùy thuộc vào sản lượng tiêu
thụ, hệ số này giao động từ 1,7 - 3,5.
= x
Trong đó: Hệ số 1,3 được sử dụng để tính tiền công hưởng phép.
- Đối với thời gian ngừng việc, nghỉ việc chỉ tính 70% lương cấp bậc
công việc.
- Thời gian đi học, nghỉ phép được hưởng 100% lương cấp bậc công nhân.
- Thời gian đi họp vẫn tính vào công việc làm thực tế.
Tại Công ty Bánh kẹo Hải Châu, để theo dõi số công thực tế của mỗi
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
1313
Chuyên đề thực tập
công nhân viên đi làm trong tháng thì mỗi phòng ban, bộ phận phục vụ tiến
hành theo dõi trực tiếp trên bảng chấm công ghi rõ ngày làm việc, ngày nghỉ
của mỗi công nhân. Xem bảng chấm công của phòng kế hoạch vật tư (biểu 3)
Xem bảng thanh toán lương của phòng kế hoạch vật tư (biểu 4).
VD: nhân viên Trương Mạnh Hùng có hệ số cấp bậc công việc là 2,74 đi
làm 24 ngày công, 2 công nghỉ phép.
Hệ số bổ sung lương trong tháng là 2,5. Vậy:

= x 24 = 910.523 đồng.
= x 2 = 39.456 đồng.
Nhân viên toàn công ty được nghỉ lễ ngày 1/1.
= x 1 = 19.728 đồng.
Mức phụ cấp thuộc quỹ lương (cơm ca) = 3000 x 24 = 72.00.
Tổng cộng thu nhập của nhân viên Trương Mạnh Hùng là:
910.523 + 39.456 + 72.000 = 1.021.979 đồng.
Nhân viên Nguyễn Hồng Hải có hệ số cấp bậc công việc là 3,54 đi làm
đủ 26 ngày công.
= x 26 = 1.274.400 đồng.
= x 1 = 25.488 đồng.
Phụ cấp thuộc quỹ lương (cơm ca) = 3000 x 26 = 78.000 đồng.
Phụ cấp trách nhiệm theo quy định mức phụ cấp trách nhiệm đối với
nhân viên quản lý bằng 10%, 20% lương cơ bản chưa tính đến cấp bậc lương
tùy từng công việc đảm nhiệm.
Nhân viên Nguyễn Hồng Hải có mức phụ cấp trách nhiệm 10%.
144.000 x 10% = 14.400 đồng.
Tổng cộng thu nhập của nhân viên Nguyễn Hồng Hải là:
1.274.400 + 25.488 + 78.000 + 14.400 = 1.391.888 đồng.
Tổng số lương của phòng kế hoạch vật tư:
1.391.888 + 1.021.979 + ... = 14.349.833
Ngoài ra ở bộ phận sản xuất trực tiếp đối với một số sản phẩm chưa
được định mức thì cũng áp dụng phương pháp tính lương theo thời gian như
trên. Ngừng việc, nghỉ việc do hỏng máy thì hưởng 70% lương thời gian cấp
bậc công việc của mỗi công nhân.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
1414

×