Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.4 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Cơ chế quản lý kinh tế có sự đổi mới sâu sắc đã tác động rất
lớn tới các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được nhà nước giao quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập nghĩa là lấy thu bù
chi để tăng tích lũy tái sản xuất mở rộng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao là một vấn đề phức tạp đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện
pháp quản lý phù hợp với sự thay đổi của thị trường cũng như sự thay đổi
của doanh nghiệp mình. Việc đảm bảo lợi ích của người lao động là một
trong những động lực cơ bản trực tiếp khuyến khích mọi người đem hết khả
năng của mình nỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất. Một trong những
công cụ hiệu quả nhất nhằm đảm bảo các điều kiện trên đó là hình thức trả
lương cho người lao động.
Tiền lương là một trong những khoản chi phí sản xuất cấu thành nên giá
thành sản phẩm, cho nên công tác tiền lương, BHXH là vấn đề cần được quan
tâm. Công tác kế toán tiền lương và BHXH, cung cấp những thông tin kinh tế
cần thiết cho công tác hạch toán kinh tế.
Không những thế tiền lương còn là một vấn đề thiết thân đối với đời
sống công nhân viên chức. Tổ chức tốt công tác phân phối tiền lương (tiền
công) là yếu tố kích thích khuyến kích người lao động ra sức sản xuất, làm
việc nâng cao trình độ tay nghề, tăng năng suất, từ đó giảm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm. Tiền lương còn là một trong những công cụ kinh tế để phân
phối sắp xếp lại lao động một cách có kế hoạch giữa các doanh nghiệp và các
ngành sản xuất xã hội thích hợp với yêu cầu phát triển nhịp nhàng của nền
kinh tế quốc dân.
Do nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tăng thu nhập cho
người lao động theo nguyên tắc phân phối trong XHCN: làm theo năng lực
hưởng theo lao động. Nên ý nghĩa trên, em đã chọn đề tài: "Công tác kế
toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải
Chuyên đề thực tập
Châu" để làm chuyên đề tốt nghiệp. Với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của


thầy Trần Trọng Kim cùng sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi của
ban giám đốc, các cô chú anh chị trong Phòng Kế toán, phòng tài vụ của công
ty em đã hoàn thành bản chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề gồm ba chương chính ngoài lợi mỏ bài và kết luận:
Ch ương 1: Giới thiệu khái quát về Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Ch ương 2: Thực trạng công tác tiền lương và các khoản trích theo
lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Ch ương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tiền lương và các
khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Tuy nhiên do những hạn chế về thời gian cũng như trình độ hiểu biết của
em nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong
nhận được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
2
Chuyên đề thực tập
Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Được sự giúp đỡ của hai tỉnh Quảng Châu và Thượng Hải (Trung Quốc)
ngày 02/09/1965 Nhà máy Bánh kẹo Hải Châu được thành lập. Theo Quyết
định số 1335NN - TCCB/QĐ ngày 24/10/1994 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Công nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) về việc đổi tên thành
Công ty bánh kẹo Hải Châu. Tên giao dịch quyết tế là HAI CHAU
CONFECTIONERRY, trụ sở đặt tại số 5B - phố Mạc Thị Bưởi - quận Hai Bà
Trưng Hà Nội.
Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau từ thời kỳ chiến tranh đến thời kỳ hòa bình lập lại, từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường Hải Châu
từng bước khẳng định mình bằng chính năng lực của mình qua các thời kỳ

phát triển.
Thời kỳ đầu thành lập 1965 - 1975: Đây là thời kỳ đất nước chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ chủ yếu của nhà máy là sản xuất
phục vụ dân sinh và quốc phòng.
Năm 1972 Nhà máy Bánh kẹo Hải Châu tách phân xưởng sản xuất kẹo
sang Nhà máy Miến Tương Mai và sau này thành lập Nhà máy Bánh kẹo Hải
Hà (nay là Công ty bánh kẹo Hải Hà).
Mặc dù trang thiết bị ban đầu còn lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu
song đây là cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu tạo điều kiện cho sự đi lên của
nhà máy sau này.
Số công nhân viên bình quân: 850 người/ năm.
Thời kỳ 1975-1986, thời kỳ khôi phục năng lực sản xuất sau chiến tranh
và đi vào hoạt động sản xuất bình thường.
Số công nhân viên bình quân: 1250 người/ năm.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
3
Chuyên đề thực tập
Thời kỳ 1986 - 1990: Thời kỳ thích ứng với cơ chế kinh tế mới. Cùng
với cả nước nhà máy bắt đầu chuyển sang kinh doanh tự bù đắp chi phí,
không có sự bao cấp của Nhà nước. Sản phẩm của nhà máy ngày càng chịu sự
cạnh tranh của thị trường trong khi công nghệ chưa kịp cải tiến. Đây là thời
kỳ khó khăn nhất của nhà máy.
Số công nhân viên bình quân: 950 người/ năm.
Thời kỳ 1991-1995: Thời kỳ đầu tư chiều sâu, mở rộng thị trường. Nhà
máy thực hiện lại việc sắp xếp theo chủ trương mới, hướng vào mục tiêu đẩy
mạnh sản xuất các mặt hàng truyền thống. Đầu tư mua sắp thêm một số máy
móc thiết bị hiện đại của Đài Loan, CHLB Đức.
Đây là những dây chuyền hiện đại nhất cho ra các sản phẩm cao cấp nhất
rong ngành bánh kẹo Việt Nam.
Số công nhân viên bình quân 705 người/ năm.

Từ năm 1996 đến nay: Công ty tiếp tục đầu tư thêm máy móc thiết bị
hiện đại để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà công ty
mở rộng được thị trường trong nước và quốc tế.
Số cán bộ công nhân viên bình quân 705 người/ năm.
Suốt chặng đường dài phát triển công ty đã đạt được nhiều thành tích
đáng tự hào.
- Năm 1973, Huân chương kháng chiến hạng hai.
- Năm 1979, 1980, 1981. Huân chương lao động hạng ba.
- Năm 1994, tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng cờ đơn vị lao động
xuất sắc nhất.
- Năm 1996 huân chương chiến công hạng ba.
- Năm 1997, huân chương lao động hạng ba.
Cho đến nay, vượt qua bao thăng trầm của nền kinh tế, với những khó
khăn về vốn, về thị trường và những cơn lốc của hàng ngoại nhập. Công ty
Bánh kẹo Hải Châu đã trở thành một doanh nghiệp nhà nước có uy tín, có chỗ
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
4
Chuyên đề thực tập
đứng vững trên thương trường. Sản phẩm của công ty liên tục đạt danh hiệu
Hàng Việt Nam chất lượng cao được tổ chức hàng năm.
1.2. Các nguồn lực của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
1.2.1. Vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty.
a. Đặc điểm về vốn và cơ cấu vốn.
Vốn kinh doanh là một trong năm yếu tố quyết định năng lực sản xuất
kinh doanh của công ty, là vấn đề không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp.
Biểu 1: Bảng tổng hợp vốn kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu qua 2 năm.
Đơn vị: Triệu đồng.
Nội dung
Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch (+/-)
Số tiền

Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Tổng số vốn SXKD 44369 100 44684 100 + 315 +0,71
+ VCĐ 23098 52,06 23235 52 +137 +0,59
+ VLĐ 21271 47,94 21449 48 +178 +0,83
Theo nguồn hình
thành
- Vốn chủ sở hữu 22500 50,71 24000 53,71 +1500 +6,7
+ Ngân sách cấp 8000 18,03 8000 17,9 0 0
+ Tự bổ sung 14500 32,68 16000 35,81 +1500 +10,3
- Nợ phải trả 21869 49,29 20684 46,29 -1185 -5,41
+ Nợ ngắn hạn 13309 30 16469 36,86 +3160 +23,7
+ Nợ dài hạn 8560 19,29 4215 9,43 -4345 -50,7
Nguồn: Phòng kế toán của công ty.
Tương ứng với mỗi quy mô sản xuất kinh doanh nhất định đòi hỏi doanh
nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn này thể hiện nhu cầu vốn
thường xuyên của doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục. Tương ứng với lượng
vốn đó tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp lại có nguồn hình thành
khách nhau, với quy mô thích hợp để tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
Căn cứ vào số liệu của biểu 01 chúng ta có thể đánh giá khái quát tình
hình tổ chức vốn sản xuất kinh doanh và nguồn hình thành vốn của công ty.
Năm 2001 tổng số vốn sản xuất kinh doanh của cylà 44,684 tỷ đồng so với
năm 2000 là 44,369 tỷ đồng. Như vậy tổng số vốn sản xuất kinh doanh tăng

Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
5
Chuyên đề thực tập
315 triệu đồng (44,684 - 44,369) với tỷ lệ tăng tương ứng là 0,71%. Số vốn
tăng phản ánh quy mô vốn của doanh nghiệp đã tăng, việc tăng quy mô vốn
do mức tăng cả vốn cố định và vốn lưu động.
Trong năm 2001. VCĐ của công ty là 23,235 tỷ đồng chiếm 52% vốn
sản xuất kinh doanh, đã tăng lên so với năm 2000 là 137 triệu đồng, tương
ứng với tỷ lệ tăng 0,59%. Việc tăng VCĐ là do công ty đã chú trọng tới việc
trang bị thêm TSCĐ để nâng cao năng lực sản xuất và năng lực sản xuất và
năng lực quản lý. Cụ thể năm 2001 TSCĐ dùng cho nhà cửa, vật kiến trúc
tăng 237,64 triệu đồng, tăng 4% chủ yếu là do công ty đầu tư xây dựng chi
nhánh ở miền Nam và đầu tư cho sửa chữa nhà kho. Việc đầu tư đúng mức
này là do công ty đã quan tâm với việc mở rộng thị trường, tăng khả năng tiêu
thụ của công ty, TSCĐ dùng trong sản xuất như máy móc thiết bị tăng
353,662 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,8%, phương tiện vận tải tăng
179,116 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 8,5%. Số tăng này công ty dành cho việc
mua sắm máy móc thiết bị như động cơ điện ba pha, máy bơm, nâng cấp một
số dây truyền sản xuất hay phương tiện vận tải.
Về VLĐ, năm 2001 tăng 178 triệu đồng so với năm 2000 tỷ lệ tăng là
0,83%. Việc tăng VLĐ này là do doanh nghiệp đã huy động được tiền nhàn
rỗi của công nhân viên làm tăng tiền mặt cho công ty, ngoài ra do có uy tín
cao trên thị trường nên công ty đã tận dụng được uy tín của mình làm tăng
nguồn vốn, đẩy nhanh vòng quanh của VLĐ. Điều đó chứng tỏ rằng công ty
có mối quan hệ tốt với cả người mua và người bán.
Với cơ cấu vốn có sự thay đổi. Như vậy nguồn hình thành của công ty
cũng có sự biến động. Đối với vốn CSH ta thấy năng lực tài chính của doanh
nghiệp năm 2001 là khá cao so với số tiền là 24 tỷ đồng chiếm 53,71% trong
tổng số vốn sản xuất kinh doanh. Hơn nữa số vốn số vốn này tăng so với
năm 2000 là 1500 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 6,7%. Việc tăng vốn CSH

chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh của công ty rất có hiệu quả. Bên cạnh đó,
năm 2001 tổng số nợ phải trả của công ty là 20,684 tỷ đồng chiếm 46,29%
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
6
Chuyên đề thực tập
tổng nguồn vốn, giảm so với năm 2000 là 1185 triệu đồng với tỷ lệ giảm
5,41% (khoản nợ phải trả này là những khoản ngắn hạn, phải trả người bán,
người mua trả tiền trước, các khoản phải trả công nhân viên, nộp ngân sách,
các khoản phải trả khác). Trong đó nợ ngắn hạn trong năm 2001 tăng so với
năm 2000 là 3160 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 23,7%. Đâylà những
khoản mà công ty chiếm dụng được trong quá trình kinh doanh cho nên công
ty cần thận trọng khi sử dụng nguồn vốn này. Bởi trong thời gian cho phép
thì nguồn vốn trở nên hữu dụng công ty chỉ có thể sử dụng vào mục đích
tạm thời, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả theo phát luật. Nợ dài hạn năm 2001
là 8560 giảm đáng kể trong năm 2001 mức giảm là 4345 triệu đồng tương
ứng với tỷ lệ giảm là 50,7%.
Do đặc điểm của sản xuất nên công ty luôn cần một số lượng làm vốn
lưu động, thường chiếm hơn 70% tổng vốn kinh doanh của công ty. Nhìn trên
bảng ta thấy lượng vốn lưu động có xu hướng tăng lên. Điều này thể hiện
công ty đang có sự mở rộng về quy mô sản xuất.
Mặc dù chi hàng năm công ty được Nhà nước cấp bổ sung vốn lưu động
song với số lượng ít nên chưa đáp ứng được tính hình sản xuất kinh doanh của
công ty. Do vậy, công ty phải đi vay thêm ngân hàng để tăng thêm nguồn vốn
của mình.
Biểu 2: Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn.
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001
Hiệu quả sử dụng VCĐ Tr. đồng 0,12 0,9
Hiệu quả sử dụng TSCĐ Tr. đồng 0,32 0,25
Tốc đô luân chuyển VCĐ Vòng 8,3 10,6
Số ngày 1 vòng luân chuyển Ngày 43,3 33,9

Nguồn: Số liệu hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Trên bảng ta thấy tình hình sử dụng vốn là tốt, số vòng quay của vốn
cao. Vì do tình hình thị trường không có sự biến động không gây ảnh hưởng
đến hiện kế hoạch của công ty. Bộ máy quản lý hoạt động tốt phát huy được
hết khả năng của mình.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
7
Chuyên đề thực tập
Vậy để tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn, hoàn thành mục tiêu kế hoạch
đề ra và đảm bảo tốc độ tăng trưởng công ty đang hoàn thiện toàn bộ máy tổ
chức, dự báo sự biến động của môi trường kinh doanh nhằm hạn chế tối đa,
rủi ro và nguy cơ bất ngờ có thể xảy ra.
b. Đặc điểm về nguyên vật liệu.
Với đặc điểm của công ty sản xuất bánh kẹo là chủ yếu vì vậy nguyên
liệu, thành phần chính để tạo nên sản phẩm rất đa dạng và phức tạp. Vật liệu
của công ty vừa phải nhập khẩu vừa mua trong nước. Các loại vật liệu phải
nhập khẩu như bột mỳ, bao bì, bao gói sản phẩm...
c. Đặc điẻm về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hiện nay công ty có 3 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng bột
canh, phân xưởng bánh và phân xưởng kẹo.
• Phân xưởng bột canh là phân xưởng với 2 dây chuyền sản xuất bột
canh thường và bột canh Iot có đặc điểm sản xuất chủ yếu bằng thủ
công máy móc thô sử dụng, nhưng hiệu quả đem lại khá cao.
Sơ đồ 1: Quy trình công nghệ của phân xưởng bột can.
- Bột canh Iot.
- Bột canh thường.
• Phân xưởng bánh: Có đặc điểm sản xuất tự động, chỉ ở công đoạn
cuối (bao gói) là bằng thủ công đó là 2 dây chuyền sản xuất bánh kem
xốp và bánh kem xốp phủ sôcôla.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B

8
Nhập muối tinh Bột Iot Trộn phụ gia
Bột gói đóng
hộp
Giang
muối
Xay nghiền Sàng lọc
Trộn phụ
gia
Bao gói +
đóng gói
Chuyên đề thực tập
Sơ đồ 2: quy trình công nghệ của phân xưởng bánh.
• Phân xưởng kẹo là phân xưởng thay đổi hoàn toàn về máy móc thiết
bị sản xuất, trước đây sản xuất chủ yếu bằng thủ công. Cuối năm
1996 công ty nhập 2 dây chuyền sản xuất kẹo cứng và kẹo mềm của
Cộng hòa Liên Bang Đức. Đây là 2 dòng truyền hiện đại có công suất
cao.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
9
Trộn bột mỳ
Trộn bột nước
bánh
Phiết kem
Làm lạnh
Chọn cốt
Bao gói
Bánh vụn
Trộn NL phụ
Bao phủ

Đun mỡ
Trộn NVL phụ
Giữ nhiệt
Làm lạnh
Bán thành
phẩm
Định hình cắt
Bao gói
Chuyên đề thực tập
Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ sản xuất của phân xưởng kẹo.
1.2.2. Lao động và cơ cấu tổ chức của công ty.
a. Đặcđiểm về lao động.
Lực lượng lao động là yếu tố cơ bản quyết định sự thành đạt hay thất bại
của một doanh nghiệp. Công ty bánh kẹo Hải Châu có lực lượng lao động dồi
dào, ổn định và có xu hướng tăng trong một số năm gần đây. Lực lượng lao
động của công ty được chia làm 2 bộ phận là lao động trực tiếp và lao động
gián tiếp. Lao động trực tiếp chiếm phần lớn, khoảng 87%-88% so với tổng
lao động của toàn công ty. Số lao động này tập trung chủ yếu ở 4 phân xưởng
sản xuất chính và phân xưởng sản xuất phụ trợ.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
10
Nhân kẹo
Phối trộn NL
Nấu kẹo
Bàn làm nguội
Quấn kẹo
Định nhiệt
Vuốt lăn côn
Vuốt dây kẹo
Trộn NL

Nấu kẹo
Nhân + hương
liệu
Nhào bột
Vuốt thô dây kẹo
Dập viên kẹo
Cắt vỡ gói kẹo
Bao gói
Làm nguội
Bao gói
Chuyên đề thực tập
Năm 2001 tổng lao động của công ty là 905 người, trong đó:
+ Lao động trực tiếp 796 người.
+ Lao động gián tiếp 109 người.
(Trong đó nhân viên quản lý: 40 người).
Tỷ lệ lao động gián tiếp chiếm 12-13% so với lực lượng lao động toàn
công ty. Trong số đó, số lượng nhân viên quản lý thường chiếm từ 4-5% so
với tổng số lao động của toàn công ty, tỷ lệ này có xu hướng giảm xuống. Lao
động gián tiếp của công ty bao gồm ban giám đốc, phòng - ban chức năng, đội
ngũ nhân viên phục vụ. Lực lượng lao động này của công ty có trình độ
chuyên môn cao, mọi người đều có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Lao động gián tiếp bao gồm lao động công nhân và lực lượng lao động
công nhân kỹ thuật. Tỷ lệ lao động nữ trực tiếp chiếm từ 70-73%. Tỷ lệ này
tương đối cao nhưng phù hợp với sản xuất bánh kẹo ở các khâu bao gói thủ
công, công nhân thường chịu khó, khéo tay và cần cù. Tuy nhiên công nhân
nữ cũng có những mặt hạn chế, thai sản, nuôi con ốm... làm ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nói chung Công ty bánh kẹo Hải
Châu có lực lượng lao động.
Biểu 3: Cơ cấu lao động của công ty qua một số năm từ 1999-2001
Đơn vị: Người

Năm
Chỉ tiêu
Năm 1999 2000 2001
SL
(người)
Tỷ trọng
%
SL
(người)
Tỷ trọng
%
SL
(người)
Tỷ trọng
%
Tổng số CNV 639 100 745 100 848 100
Công nhân SXTT 477 74,7 609 81,7 0 82,5
Công nhân SXGT 162 25,3 136 18,25 130 15,3
Nhân viên quản lý 105 16,4 86 11,5 80 9,4
Nhân viên phục vụ 37 8,9 50 6,7 48 5,6
Nguồn: Số liệu phòng tổ chức lao động của công ty.
Biểu 4: Trình độ tay nghề của công nhân.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
11
Chuyên đề thực tập
Loại hình
Tổng
số
Bậc thợ
Bình

quân
Từ 1-3 Từ 4-5 Bậc 6 Bậc 7
Cơ khí 78 4,7 17 49 10 2
Điện 6 5,2 1 2 2 1
Công nghệ thực
phẩm
386 4,7 46 247 73
Tổng cộng 470 4,71
Nguồn: Số liệu phòng kỹ thuật của công ty.
Khá mạnh, cả lực lượng lao động gián tiếp và trực tiếp. Nếu lực lượng
tốt sẽ nâng cao được hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng
sản xuất sản phẩm đưa ra sản phẩm mới ra thị trường.
b. Đặc điểm về cơ cấutổ chức bộ máy của công ty.
Hiện nay Công ty bánh kẹo Hải Châu tổ chức mô hình quản lý theo
phương pháp kết hợp giữa trực tuyến và chức năng. Do công ty sử dụng cả 2
hình thức quản lý kết hợp nên thể hiện được cả tỉnh tập trung hóa và phi tập
trung hóa, tận dụng được ưu điểm cũng như hạn chế được nhược điểm của 2
phương pháp quản lý này. Bộ máy quản lý của công ty gồm có: 1 giám đốc, 2
phó giám đóc, một kế toán trưởng, 5 phòng và 2 ban. Chức năng và nhiệm vụ
được xác định như sau:
* Ban giám đốc, phụ trách chung và phụ trách các mặt công tác cụ thể
sau:
+ Công tác tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương...
+ Công tác kế hoạch vật tư và tiêu thụ.
+ Công tác tài chính thống kê kế toán.
+ Tiến bộ kỹ thuật và đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất: giúp việc cho giám đốc các công tác
về kỹ thuật, công tác nâng cao bồi dưỡng trình độ công nhân, công tác BHLĐ,
điều hành kế hoạch tác nghiệp của các phân xưởng.
- Phó giám đốc kinh doanh, giúp việc cho giám đốc các công tác về kinh

Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
12
Chuyên đề thực tập
doanh tiêu thụ sản phẩm, công tác hành chính quản trị và bảo vệ.
- Kế toán trưởng: phụ trách vấn đề tài chính của công ty.
* Các phòng ban:
- Phòng tổ chức lao động: Tổ chức bộ máy điều độ tiến độ sản xuất, tổ
chức cán bộ, lao động tiền lương, soạn thảo các nội quy, quy chế quản lý các
quyết định công văn, chỉ thị về lao động, tuyển dụng đào tạo, BHLĐ, giải
quyết các chế độ chính sách.
- Phòng kỹ thuật: Theo dõi thực hiện các quy trình công nghệ đảm bảo
chất lượng sản phẩm, nghiên cứu tạo sản phẩm mới, theo dõi lắp đặt, sửa
chữa thiết bị đưa ra dự án mua sắm thiết bị mới.
- Phòng kế hoạch vật tư: Xác định kế hoạch chiến lược ngắn hạn, dài hạn, kế
hoạch tác nghiệp, điều độ sản xuất hàng ngày, cung ứng vật tư tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng hành chính: Theo dõi thực hiện các mặt hành chính, quản trị đời
sống, y tế sức khỏe.
- Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho giám đốc về công tác kế toán
tài chính. Góp phần quan trọng vào việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh
doanh chịu trách nhiệm trước công ty về hoạt động kế toán tài chính.
- Ban bảo vệ: Tổ chức công tác nội bộ, công tác tự vệ và nghĩa vụ dân
sự.
- Ban xây dựng cơ bản: Lập kế hoạch xây dựng thực hiện sửa chữa nhỏ
trong công ty.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
13
Giám đốc công ty
Kế toán trưởngPhó giám đốc KD Phó GD kỹ thuật
Phòng
KHVT

Phòng
tài vụ
Phòng
kỹ
thuật
Ban
bảo vệ
Ban
KTCB
Phòng
tổ chức
Phòng
tổ chức
Phân
xưởng
bánh I
Phân
xưởng
bánh II
Phân
xưởng
bánh
III
Phân
xưởng
kẹo
Phân
xưởng
bột
canh

Phân
xưởng
cơ điện
Bộ
phận
in
phun
Chuyên đề thực tập
1.3. Các sản phẩm kinh doanh của công ty.
Hiện nay Công ty bánh kẹo Hải Châu có nhiệm vụ chủ yếu sản xuất kinh
doanh các mặt hàng chủ yếu sau:
- Kinh doanh các sản phẩm bánh kẹo.
- Kinh doanh sản phẩm mì ăn liền.
- Kinh doanh bột gia vị.
Công ty bánh kẹo Hải Châu là một công ty lớn trong tổng công ty và là
một trong số ít các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi. Công ty đã tạo được
uy tín với người tiêu dùng nhất là khu vực miền Bắ và miền Trung với sản
phẩm truyền thống như bánh kem xốp, bột canh. Hiện nay công ty có hệ
thống đại lý với hơn 150 đầu mối chiếm 61 tỉnh trong cả nước.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
14
Chuyên đề thực tập
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH
THEO LƯƠNG CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU
2.1. Bản chất của tiền lương và các hình thức trong doanh nghiệp nói
chung.
2.1.1. Bản chất của tiền lương.
a. Khái niệm.
Theo từ điển thống kê của nước ta năm 1977 tiền lương được định nghĩa

như sau: "Tiền lương là số tiền rả cho người công nhân viên chức theo số
lượng và chất lượng lao động của họ đã đóng góp" hay nói cách khác: "Tiền
lương là giá cả của sức lao động. Giá trị của sức lao động thể hiện ở khả năng
lao động của con người về thể chất và trí tuệ".
Khái niệm tiền công hay tiền lương chỉ mang tính quy ước, do đó nó là
giá cả sức lao động mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo
thỏa thuận để hoàn thành một công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định
thông qua hoạt động lao động. Như vậy tiền lương là nguồn sống chủ yếu của
người lao động và gia đình họ.
Việc xác định chính xác tiền lương là một công việc phức tạp đòi hỏi
những số liệu chi tiết và chính xác thông qua quá trình quan sát đo lường tính
toán và ghi chép các hoạt động nhằm thực hiện chức năng giám sát, phản ánh
các hoạt động kinh tế.
b. Bản chất của tiền lương.
Về bản chất tiền lương chính là giá cả của hàng hóa đặc biệt đó là hàng
hóa sức lao động. Nghĩa là người lao động bỏ sức của mình ra để hoàn thành
một sản phẩm hàng hóa nào đó và được trả một số tiền nhất định.
Trong cơ chế thị trường bản chất của tiền lương chính là giá cả sức lao
động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thỏa thuận
giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
15
Chuyên đề thực tập
Tiền lương là một vấn đề thiết thân đối với đời sống cán bộ công nhân
viên chức. Tiền lương được quy định một cách đúng đắn là một yếu tố kích
thích sản xuất mạnh mẽ đẩy mạnh công cuộc xây dựng XHCN. Nó khuyến
khích mỗi người ra sức sản xuất làm việc nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến
kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất tăng nhanh năng suất lao động.
c. Chức năng của tiền lương.

Hiện nay nền kinh tế thị trường để phát huy hết hiệu quả kinh tế của tiền
lương tác động lên người lao động thì tiền lương phải đảm bảo các chức năng
sau.
Chức năng tái sản xuất sức lao động: lao động là một trong ba yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất. Sức lao động là một dạng công nằm tồn tại trong
cơ thể con người. Trong quá trình tạo ra sản phẩm con người phải hao phí sức
lao động của mình và do vậy tiền lương phải đảm bảo bù đắp khoản hao phí
này để tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu tất yếu, là cơ sở tối thiểu để
đảm bảo sự tác động trở lại của phân phối tới sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất tiền lương
cần thiết phải đủ để nuôi sống người lao động và gia đình họ mới đảm bảo tái
sản xuất ra lực lượng sản xuất xã hội. Như vậy quá trình tái sản xuất xã hội sẽ
không được đảm bảo cho quá trình tái sản xuất sức lao động cả về thể lực lẫn
tinh thần. Đây là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho quá trình tái sản xuất xã hội
được phát triển.
Vai trò kích thích sản xuất: Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện các
quan hệ kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội nhất định, nó là động cơ thúc
đẩy hoạt động kinh tế của con người.
Lợi ích kinh tế tạo ra động lực mạnh mẽ kích thích sự hoạt động của
con người. Đồng thời lợi ích kinh tế như một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ
khoa học kinh tế - xã hội. Nhu cầu của con người tạo ra động cơ thúc đẩy họ
tham gia lao động song chính lợi ích của họ mới là động lực trực tiếp thúc
đẩy họ làm việc với hiệu quả cao. Do đó chính sách tiền lương đúng đắn sẽ
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
16
Chuyên đề thực tập
là động lực to lớn phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc chi trả lương phải nhằm mục đích
thúc đẩy mà khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả lao động.

d. Nguyên tắc trả lương.
Như đã nói ở trên tiền lương lao động biểu hiện rõ ràng nhất lợi ích kinh
tế của người lao động và trở thành đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ nhất để khích
thích người lao động. Tuy nhiên để có thể phát huy được những chức năng cơ
bản của tiền công thì việc trả công phải dựa trên nguyên tắc cơ bản sau:
Tiền lương phải đảm bảo tài sản xuất sắc lao động: tiền lương là nguồn
thu nhập chủ yếu của người lao động. Bởi vậy độ lớn của tiền lương không
những phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng về số lượng và chất lượng lao động
mà còn phải đảm bảo nuôi sống gia đình họ.
Tiền lương phải chịu trên cơ sở thỏa thuạn giữa người có sức lao động
và người sử dụng sức lao động: Nguyên tắc này bắt nguồn từ pháp lệnh hợp
đồng lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Song mức độ
tiền lương phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu (tức là số
tiền trả cho loại lao động giản đơn nhất trong xã hội).
Tiền lương trả cho người lao động phải phụ thuộc vào hiệu quả lao động
của người lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Nguyên tắc
này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa tái sản xuất và tiền dùng trong đó sản xuất
đóng vai trò quan trọng.
e. Các chính sách tiền lương của nhà nước ta hiện nay.
Tiền lương giữ vai trò quan trọng to lớn trong vấn đề kích thích sản
xuất. Chính vì vậy trong nhiều năm Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu, xây
dựng và nhiều lần sửa đổi chế độ tiền lương, thu nhập các bộ công nhân viên
sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cơ chế quản lý của từng thời
kỳ: Từ sau Đại hội VI của Đảng do Nhà nước chuyển nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
17
Chuyên đề thực tập
hướng XHCN thì chế độ tiền lương cũng thay đổi. Tháng 05 năm 1993
Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã ban hành các Quyết định số 69/QĐ-TW và

Ban Bí thư TW Đảng, số 35/UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
các Quyết định số 28/CP của Hội đồng Chính phủ về việc ban hành chế độ
tiền lương cho người lao động.
Nhà nước ban hành các chính sách chế độ tiền lương để giúp cho các
doanh nghiệp có thể dựa vào đó để có chế độ trả lương đúng đắn. Tuy nhien
người chủ sử dụng lao động phải dựa vào đặc điểm của quá trình lao động,
yêu cầu của quá trình lao động về tính chất của sản phẩm để lựa chọn hình
thức trả lương cho phù hợp. Hình thức trả lương phải được áp dụng sao cho
đảm bảo việc tuân thủ theo quy định phân phối lao động theo hoạt động một
cách nghiêm ngặt và kích thích người lao động tích cực làm việc.
Mức lương tối thiểu.
Năm 1994 quy định mức lương tối thiểu ở nước ta là 120.000 đồng/
tháng. Năm 1997 là 144.000đ/ tháng. Năm 2000 là 180.000đ/ tháng. Mức
lương tối thiểu của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay được điều chỉnh theo
ngành, vùng nhưng phần phát triển thêm không được quá tối đa 1,5 lần so với
mức tối thiểu chung do Nhà nước quy định (NĐ số 77/2000/NĐ-CP ngày 15
tháng 12 năm 2000 quy định mức lương tối thiểu là 210.000đồng/ ngày/ tháng
Nhà nước khống chế mức lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương
tối đa mà điều tiết bằng thu nhập. Việc khống chế mức lương tối thiểu có
nghĩa là: Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích tối thiểu cho
người lao động. Nếu doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thua lỗ để người
lao động có thu nhập dưới mức lương tối thiểu thì Nhà nước can thiệp, kiểm
tra xem xét thay đổi cán bộ lãnh đạo giúp đỡ doanh nghiệp chuyển hướng sản
xuất, sát nhập với xí nghiệp khác hoặc thậm chí cho phá sản. Đối với người
lao động có thu nhập quá cao sẽ được điều tiết bằng thuế thu nhập.
Chế độ phụ cấp.
Các chế độ phụ cấp thực chất là phần tiền lương bổ sung cho lương cơ
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
18
Chuyên đề thực tập

bản mà trong khi xác định tiền lương cơ bản có những yếu tố người ta chưa
tính đến hoặc đã tính đến nhưng chưa đầy đủ. Chế độ phụ cấp nhằm đãi ngộ
điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt không ổn định thường xuyên của
người lao động. Tổng các khoản phụ cấp chỉ được tính bằng 18% lương cơ
bản.
Tiền phụ cấp = lương cơ bản x mức % phụ cấp.
Hiện nay ở nước ta đang áp dụng một số hình thức phụ cấp sau:
Phụ cấp khu vực: Là phụ cấp nhằm đãi ngộ hợp lý và khuyến khích cán
bộ công nhân viên công tác ở các vùng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực
như: Hải Đảo, vùng sâu, vùng xa... Đồng thời góp phần điều chỉnh lao động
giữa các vùng trong xã hội lẫn nhau. Chế độ phụ cấp khu vực có 5 cấp độ:
5%, 10%, 15%, 20%, 25%.
Phụ cấp độc hại: Là số tiền trả thêm cho những người làm việc trong môi
trường độc hại vượt quá mức cho phép.
Tiền phụ cấp = x mức % phụ cấp x thời gian.
Phụ cấp làm thêm, làm đêm: Đây là số tiền để bồi dưỡng động viên cán
bộ công nhân viên khi cần thiết phải làm thêm giờ, làm đêm.
Tiền phụ cấp =
Chế độ tiền thưởng.
Tiền thưởng là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ
hơn nguyên tắc phân phối theo lao động đồng thời nó cũng là đòn bẩy kinh
tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Mỗi hình thức, mỗi chế độ tiền thưởng đến
phản ánh một nội dung kinh tế nhất định. Căn cứ vào trình độ tổ chức sản
xuất tổ chức lao động và trình độ kỹ thuật cụ thể để vận dụng thích hợp các
hình thức và chế độ tiền thưởng. Khi xét các chỉ tiêu xét thưởng cũng như
các chỉ tiêu đánh giá thành tích nhất thiết phải coi trọng chỉ tiêu chất lượng
và chỉ tiêu số lượng không được coi nhẹ bất kỳ chỉ tiêu nào. Khi xét mức
thưởng của mỗi cán bộ công nhân viên được hưởng cao hay thấp là phụ
thuộc vào mức độ thành tích hiệu quả làm việc của công nhân. Tuy nhiên
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B

19
Chuyên đề thực tập
tổng tiền lương bao giờ cũng nhỏ hơn tổng giá trị làm lợi. Hiện nay theo quy
định của nhà nước quỹ tiền thưởng không được quá 50% tổng quỹ lương
thực hiện của đơn vị (trích điều 3 Quyết định 317-CP ngày 01/09/1990 của
CTHĐBT). Quỹ tiền thưởng hiện nay được hình thành từ 2 nguồn thuộc quỹ
tiền lương và quỹ khuyến khích vật chất. Nói chung quỹ tiền thưởng phụ
thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền thưởng là lợi ích vật
chất khuyến khích người công nhân quan tâm đen\én kết quả công việc và
trách nhiệm của mình hơn nữa. Nếu biết áp dụng tốt chế độ thưởng các
doanh nghiệp có thể đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
2.1.2. Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
Hoạt động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân bao gồm sản xuất
công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, vận tải, bưu điện, thương nghiệp xây
dựng cơ bản... hoạt động kinh doanh của các đơn vị thuộc các lĩnh vực này
cũng có những đặc thù khác nhau. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải dựa
vào đặc điểm về điều kiện sản xuất cụ thể của mình để áp dụng các hình thức
trả lương cho thích hợp. Hiện nay có 2 hình thức trả lương cơ bản sau:
a. Hình thức trả lương theo thời gian.
Tiền lương trả theo thời gian chỉ áp dụng đối với những người làm công
tác quản lý còn đối với công nhân sản xuất chỉ áp dụng ở những bộ phận
không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính
chất của sản xuất hạn chế nên thực hiện trả công theo sản phẩm thì sẽ không
đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực.
- Hình thức này có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức tiền lương trả
theo sản phẩm, bởi vì nó chưa gắn thu nhập của mỗi người với kết quả lao
động mà họ đã đạt được trong thời gian làm việc. Hình thức trả lương theo
thời gian gần 2 chế độ.
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn, chế độ này là chế độ trả lương
mà tiền lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao

hay thấp và thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
20
Chuyên đề thực tập
lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động chính xác, khó
đánh giá công việc thật chính xác.
L
CN =
L
MIN
x K
CN
x T
Trong đó:
L
MIN
: Lương tối thiểu.
K
CN
: Hệ số lương cấp bậc công nhân.

T: Thời gian làm việc thực tế.
Có ba loại tiền lương theo thời gian.
Lương giờ: Tính theo lương cấp bậc và số giờ làm việc.
Lương ngày: Tính theo lương cấp bậc ngày và số ngày làm việc thực tế
trong tháng.
Lương tháng: Tính theo lương cấp bậc tháng.
Nhược diểm của chế độ trả lương này là mang tính chất bình quân khong
khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên liệu, tập
trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động. Chế độ trả

lương theo thời gian có thưởng là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời
gian giản đơn và với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng
hoặc chất lượng đã quy định. Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng đối với
những công nhân phụ làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh
thiết bị... ngoài ra còn áp dụng đối với những công nhân chính làm việc ở
những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hóa cao, tự động hóa của những công
việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng.
Tiền lương của công nhân được tính bằng cách lấy lương theo thời gian
đơn giản nhất cộng thêm tiền thưởng. Trong chế độ trả lương này không
những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn
chặt với thành tích công tác thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì
vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả làm việc và trách
nhiệm công tác. Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật chế
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
21
Chuyên đề thực tập
độ tiền lương ngày càng mở rộng hơn.
b. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Hiện nay trong các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau đang áp dụng rộng rãi hình thức trả lương theo sản phẩm với nhiều
chế độ linh hoạt. Hình thức trả lương cho người lao động theo sản phẩm có
nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian và có những tác
dụng sau:
Quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động (theo số lượng và
chất lượng sản phẩm). Gắn liền thu nhập về tiền lương với kết quả sản xuất
của mỗi người do đó kích thích tăng năng suất lao động.
Khuyến khích mỗi người lao động, ra sức học hỏi nâng cao trình độ tay
nghề, cải tiến phương pháp lao động sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao
năng suất lao động.
Chế độ trả lương theo sản phẩm gồm các loại:

- Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: được áp dụng đối
với đối tượng làm việc độc lập, công việc có thể định mức kiểm tra và nghiệm
thu sản phẩm trực tiếp.
Đơn giá (ĐG) = L/Q
o
Hoặc ĐG = L x T
o
Trong đo:
L: Lương cấp bậc công việc (tính theo ngày giờ).
Q
o
: Định mức sản lượng (bao nhiêu sản phẩm trong một đơn vị thời
gian)
T
0
: Định mức thời gian.
Tính lương cho công nhân theo công thức.
L
CN
= ĐG x Q
Trong đó:
L
LC
: Lương thực tế công nhân nhận được trong ngày hoặc tháng.
ĐG: Đơn giá sản phẩm.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
22
Chuyên đề thực tập
Q: Số lượng sản phẩm công nhân làm được thực tế.
Chế độ trả lương trực tiếp này có ưu điểm là người công nhân nhận biết

ngay với kết quả lao động của mình (trong ngày hoặc tháng) sẽ nhận được
bao nhiêu tiền lương kích thích họ tăng năng suất lao động. Tuy nhiên nhược
điểm của nó là người công nhân ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc
thiết bị, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, ít quan tâm chăm lo đến công việc
chung của tập thể.
- Chế độ trả lương tính theo sản phẩm tập thể: áp dụng đối với những
công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện như: lắp ráp thiết bị, sản
xuất dây chuyền.
Đơn giá ở đấy tính theo công thức:
ĐG
TT
=
Q
L
n
1i

=
hoặc: ĐG
TT
=
0
n
1i
TxL

=
Trong đó:
ĐG
TT

: Đơn giá sản phẩm tập thể.

=
n
1i
L
: Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc (1 đến n)
Q
0
: Định mức sản lượng.
T
0
: Định mức thời gian.
Tính lương công nhân 2 bước:
- Tính tổng tiền lương của tập thể.
- Tính lương cho từng công nhân tham gia vào công việc.
L
TT
= ĐG
TT
x Q
Q: Số lượng sản phẩm tập thể làm được trong ngày.
Tính lương cho từng công nhân: khi tham gia công việc các cá nhân
công nhân có thể có bậc thợ khác nhau và thời gian tham gia vào công việc
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
23
Chuyên đề thực tập
của mỗi người có thể khác nhau. Do đó khi tính toán chia lương cho từng
người thì phải xem xét đến yếu tố này.
Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể cơ ưu điểm là khuyến khích công

nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả
cuối cùng của tập thể. Tuy nhiên, nhược điểm của chế độ trả lương này chưa
đề cao được nguyên tắc phân phối theo lao động, sản lượng của mỗi công
nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, phân phối tiền lương cho
cá nhân chưa tính đến điều kiện sức khỏe thái độ của mỗi người.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng cho những công
nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của
công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm cụ thể là công nhân phục vụ
máy, sửa chữa... tiền lương của công nhân phụ tùy thuộc vào kết quả sản xuất
của công nhân chính. Do đó đơn giá tính theo công thức sau:
ĐG
GT
=
00
QxM
L
Trong đó:
ĐG
GT
: Đơn giá lương sản phẩm gián tiếp.
L: Lương cấp bậc công nhân phụ.
Q
0
: Định mức sản lượng công nhân chính.
M
0
: Định mức phục vụ công nhân phụ.
Tính lương công nhân theo chế độ sản phẩm gián tiếp.
L
CN

= ĐG
GT
x Σ Q
Trong đó:
Σ Q: Tổng sản phẩm của công nhân chính đạt được.
Chế độ trả lương này có ưu điểm là khuyến khích công nhân phục vụ tốt
hơn cho công nhân chính, tại điều kiện nâng cao năng suất lao động.
- Chế độ trả lương khoán: áp dụng cho những công việc yêu cầu phải
hoàn thành trong một thời gian nhất định, chủ yếu trong xây dựng cơ bản và
một số công việc trong nông nghiệp có thể thực hiện khoán cho tập thể hoặc
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
24
Chuyên đề thực tập
cá nhân.
Đơn giá khoán có thể tính theo đơn vị công việc. Tính đơn giá khoán vẫn
thực hiện theo nguyên tắc chia tổng tiền lương theo cấp bậc công việc và cho
tổng các mức sản lượng.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng: chế độ này nhằm mục đích
khuyến khích công nhân sản xuất vượt mức kế hoạch. Những sản phẩm vượt
mức được trả lương cao hơn những sản phẩm bình thường. Tiền lương chế độ
này tính theo công thức:
L
TH
: Lương có thưởng.
L: Lương bình thường theo sản phẩm với đơn giá cố định.
m: % tiền thưởng cho 1% hoàn thành vượt mức kế hoạch.
h: % vượt mức kế hoạch.
- Chế độ trả lương theo sản phẩm lũy tiến: thực chất của chế độ trả lương
này là trả lương theo sản phẩm có thưởng nhưng những sản phẩm vượt mức
về sau được tính đơn giá cao hơn những sản phẩm vượt mức trước, tức là m

được tăng dần theo chế độ tăng của h. Chế độ trả lương này áp dụng rất hạn
chế vì tỷ lệ tiền lương trong giá thành những sản phẩm vượt kế hoạch sẽ cao
hơn bình thường dẫn đến giá thành bình quân tăng. Do vậy, chế độ trả lương
theo sản phẩm lũy tiến chỉ áp dụng ở những khâu yếu trong sản xuất mà xét
thấy việc giải quyết những tồn tại ở khâu này có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở
những khâu khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch của
doanh nghiệp.
c. Một số chế độ khác khi tính lương.
Chế độ trả lương khi ngừng việc: Theo điều 62 của Bộ luật lao động
được quy định.
Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương, những
người lao động khác trong cùng đơn vị ngừng việc được trả lương theo mức
độ thỏa thuận giữa 2 bên nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
Sinh viên: Đỗ Tuấn Mạnh - Lớp Kế toán B
25

×