Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phát triển dữ liệu – công nghệ số - trung tâm tri thức số tttrong thư viện số của trường Cao Đẳng Công nghệ & Kỹ thuật Ô tô trong công tác đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.74 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRONG THƯ VIỆN SỐ CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG CN&KT Ô TÔ </b>


<b>TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO</b>



<b>Đinh Văn Huy*</b>

<b>1</b>

<b> </b>


<i><b>Tóm tắt: Bài viết giới thiệu về Dữ liệu – công nghệ trong thư viện </b></i>


<i>số/ Trung tâm Tri thức số đối với công tác đào tạo và nghiên cứu </i>
<i>khoa học. Từ đó đề xuất hướng phát triển dữ liệu – thơng tin – tri </i>
<i>thức cho thư viện điện tử trong Trường Cao đẳng Cơng nghệ và </i>
<i>Kỹ thuật Ơtơ/Tổng cục Kỹ thuật.</i>


<b>1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>



Trong tác phẩm được coi là di chúc chính trị “Bàn về chế độ hợp
tác”, Lê-nin viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: Trước đây chúng
ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta
vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền… thì trọng tâm cơng tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy
vào hoạt động giáo dục”. Theo quan điểm của Lê-nin thì giáo dục – đào
tạo là cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội.


Hiện nay, bất cứ một nhà trường nào trong và ngoài quân đội cũng
đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó chính là: đào tạo và
nghiên cứu khoa học (NCKH). Đây là các hoạt động có mối quan hệ hữu
cơ, các nhiệm vụ cơ bản chiến lược của nhà trường, trong đó việc giảng
viên, giáo viên trong các nhà trường cần phải tích cực tham gia các hoạt
động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng, bắt buộc, cần
thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo trong Nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thực tiễn và lý luận đều chứng minh một cách rõ ràng rằng,
NCKH và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ


với nhau và hỗ trợ cho nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm
thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy ở trên lớp. Ngược lại, công tác giảng
dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Do vậy, có thể khẳng
định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực
chuyên môn của giảng viên, giáo viên trong các nhà trường hiện nay.


Tuy nhiên, để hoạt động NCKH của giảng viên, giáo viên đạt được
hiệu quả cao, cần phải liên tục trau dồi kiến thức, tiếp cận các dữ liệu,
thơng tin trong các ngành, các nghề thì yếu tố quan trọng bậc nhất
đó chính là tạo ra một mơi trường để có thể tiếp cận được đầy đủ các
nguồn dữ liệu – thông tin một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất.


Vì vậy hoạt động thơng tin - thư viện đã ra đời để những dữ liệu
- thông tin thuộc các trung tâm thông tin, trung tâm tài nguyên, trung
tâm học liệu, cơ sở lưu trữ,… bao gồm trong các loại hình thư viện:
thư viện nhà trường, thư viện quốc gia, thư viện công cộng, thư viện
chuyên ngành, đa ngành phục vụ thông tin cho người sử dụng theo
yêu cầu và bằng nhiều hình thức:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hệ thống máy tính đã, đang và tiếp tục được trang bị tại các thư viện
hiện nay, khả năng xây dựng các thư viện điện tử, thư viện số nhất là
Trung tâm Thông tin - Thư viện của Đại học Quốc gia Hà Nội đã đạt
được nhiều kết quả khả quan trong thời gian qua.


Các thư viện điện tử ở các viện nghiên cứu, trường học,... là những
trung tâm truy cập với các nguồn dữ liệu phân tán trong tất cả các lĩnh
vực nghiên cứu tới các mạng thơng tin trong và ngồi nước. Từ các
máy của các trung tâm đó có thể truy cập được tới các nguồn tin có chất
lượng tốt từ Internet có liên quan đến các thư viện, các mạng thông tin
lớn trên thế giới. Đi theo hướng xây dựng dữ liệu – công nghệ trong


thư viện số trong các thư viện điện tử tại các trường học hiện nay phải
định hướng vào việc phát triển dữ liệu – thơng tin – tri thức.


Điều đó đã đặt ra cho các thư viện nói chung và Thư viện Trường
Cao đẳng Cơng nghệ và Kỹ thuật Ơ tơ nói riêng nhiều thách thức:


- Thách thức đầu tiên là cơ sở vật chất, trang thiết bị hạ tầng công
nghệ thông tin trong các nhà trường. Các trang thiết bị cần phải được
trang bị đồng bộ, có mối quan hệ phân quyền rõ ràng và được kết nối
với nhau thông qua mạng nội bộ (LAN) hoặc mạng Internet.


- Thách thức thứ hai đến từ phát triển các nguồn tài liệu dạng số có
chất lượng để có thể cung cấp lượng thơng tin cần thiết, chính xác và đáng
tin cậy cho người sử dụng, vì vậy các thư viện phải thu thập và lưu trữ một
số lượng lớn các thông tin chất lượng cao. Tuy nhiên, việc thu thập nguồn
dữ liệu và lưu trữ, bảo quản tài liệu số cần có một số các yêu cầu và giải
pháp cụ thể, đặc biệt là đối với các dữ liệu độc đáo, có giá trị cao. Với từng
dữ liệu cụ thể cần phải được lưu trữ và phân quyền khả năng cho phép
truy cập, sao chép một cách cụ thể, cho phép truy cập không giới hạn về
đồ họa và khả năng phổ biến mà khơng cần những chi phí phát sinh cho
những dữ liệu khác trong điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật số vừa đủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Vấn đề quan trọng cuối cùng đặt ra trong thế giới dữ liệu số đó
là bản quyền. Bản quyền là cách làm truyền thống để bảo vệ quyền sở
hữu thông tin (thường là của nhà xuất bản chính chứ khơng phải tác
giả) và sự kiểm sốt của họ đối với việc phổ biến thông tin và dẫn đến
việc thu phí sử dụng/truy cập. Đây là lý do dẫn đến sự tăng trưởng của
công nghiệp xuất bản (cả ấn phẩm in và ấn phẩm điện tử) như chúng
ta đã thấy ngày nay.



<b>2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>



Để hiểu rõ phát triển dữ liệu – thông tin – tri thức, ta cần phân biệt
tri thức với các khái niệm tương đồng khác là dữ liệu, thông tin.


Dữ liệu là những con số hoặc dữ kiện thuần túy, rời rạc mà quan
sát hoặc đo đếm được khơng có ngữ cảnh hay diễn giải. Dữ liệu được
thể hiện ra ngồi bằng cách mã hóa và dễ dàng truyền tải. Dữ liệu được
chuyển thành thông tin bằng cách thêm giá trị thông qua ngữ cảnh,
phân loại, tính tốn, hiệu chỉnh và đánh giá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tri thức là thông tin được cấu trúc hóa, được kiểm nghiệm và có
thể sử dụng được vào mục đích cụ thể. Tri thức thường thể hiện trong
những hoàn cảnh cụ thể kết hợp với kinh nghiệm và việc phán quyết
hay ra quyết định. Để truyền tải thì địi hỏi sự học tập của người tiếp
nhận tri thức.


Như vậy nếu một thông tin giúp chúng ta nhận thức và đưa ra
quyết định thì là tri thức. Thơng tin trở thành “đầu vào” được nạp vào
trong não, qua quá trình xử lý sẽ tạo ra tri thức. Nhưng quá trình xử
lý này với mỗi một cá nhân khác nhau sẽ cho ra những “đầu ra” khác
nhau. Có nghĩa là cùng một thông tin như vậy nhưng với mỗi cá nhân
thì tri thức mà họ nhận thức được sẽ khác với tri thức mà người khác
nhận thức. Thông tin là những dữ liệu được cấu trúc hóa được thể
hiện ra ngồi và ai cũng có thể tiếp cận. Nhưng tri thức thiên về những
thông tin được cấu trúc hóa và cá nhân hóa nằm trong mỗi con người
cụ thể, do đó khả năng tiếp cận khó hơn và sự thể hiện ra ngồi khơng
phải lúc nào cũng chính xác.


Sơ đồ từ dữ liệu tới tri thức



Tri thức là những dữ liệu, thông tin được cấu trúc hóa, kiểm nghiệm
và sử dụng được vào một mục đích cụ thể tạo ra giá trị. Chúng ta có thể
chia ra làm 3 loại tri thức: Một là tri thức hiện (explicit knowledge); hai
là tri thức ngầm (tacit knowledge) và ba là tri thức tiềm năng (implicit
knowledge).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cách tiếp cận nào là thống nhất trong quản trị dữ liệu – thông tin – tri
thức ở các cơ quan, tổ chức nào. Tuy nhiên trong đó có những nội dung
có thể bao qt tồn bộ. Quản trị dữ liệu – thơng tin – tri thức bao gồm
con người, các cách thức và q trình, các hoạt động, cơng nghệ và một
môi trường rộng hơn thúc đẩy việc định dạng, sáng tạo, giao tiếp hay
chia sẻ và sử dụng các tri thức cá nhân cũng như tri thức của tổ chức.
Nó là về những quy trình quản lý việc tạo ra, phát tán và sử dụng dữ
liệu – thông tin – tri thức để đạt được mục tiêu của cá nhân, tổ chức. Nó
địi hỏi sự kết hợp giữa nhận thức, thái độ và thực tiễn sáng tạo, những
hệ thống, chính sách và những thủ tục được tạo ra để giải phóng sức
mạnh của thơng tin và ý tưởng của con người.


Quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức nhằm tạo điều kiện cho các
cán bộ, giảng viên, giáo viên Trường Cao đẳng Cơng nghệ và kỹ thuật
Ơ tơ trong q trình sáng tạo, nắm bắt, chuyển giao và sử dụng dữ liệu
– thông tin để nâng cao hiệu quả giảng dạy và NCKH. Quản trị dữ liệu
là quá trình có hệ thống của việc thu thập, xử lý, lựa chọn, lưu trữ và
chuyển tải những thông tin mà con người có thể sử dụng để sáng tạo,
cạnh tranh và hồn thiện.


Qua đó có thể phát triển hơn nữa hệ thống nguồn dữ liệu – thông
tin – tri thức và các cơng trình NCKH trong Nhà trường, nâng cao
năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng dạy trong các Nhà trường nói


chung và trong Trường Cao đẳng Cơng nghệ và Kỹ thuật Ơ Tơ/Tổng
cục Kỹ thuật nói riêng, cần phải đưa ra các giải pháp cụ thể sau.


<b>3. QUẢN TRỊ DỮ LIỆU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – THÔNG TIN – TRI THỨC</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Giải pháp thứ nhất: Chính sách quản trị dữ liệu – thơng tin – tri thức</i>


Chúng ta có nhiều, rất nhiều nguồn dữ liệu, trong từng ngành,
từng nghề, từng lĩnh vực khác nhau, trong đó có những nguồn dữ
liệu đặc biệt, có những dữ liệu cơ bản đến nâng cao. Tuy nhiên, để cho
người sử dụng dữ liệu đạt được hiệu quả theo nhu cầu của họ thì cần
phải có các kênh giới thiệu như hệ thống thông tin qua đài phát thành
của Nhà trường, các diễn đàn tuổi trẻ, lồng ghép trong các buổi sinh
hoạt và các nguồn liên kết để người trong Nhà trường có thể tiếp cận
được khi có nhu cầu.


Sau khi có được các tiếp cận của người đọc, cần phải có có các giải
pháp để người đọc đó giới thiệu, tạo ra sự thu hút của các cá nhân, tổ
chức liên quan khác để duy trì sự truy cập liên tục vào các nguồn dữ
liệu sẵn có. Trong các nguồn dữ liệu – thơng tin vẫn có những nguồn
dữ liệu đặc biệt và có giá trị kinh tế nhất định (các dữ liệu được tính
phí truy cập), tuy nhiên nhiều khi những nguồn dữ liệu có tính phí
truy cập lại rơi vào tình trạng “khơng ai trả phí để truy cập thơng tin”
dẫn đến nguồn dữ liệu đó khơng có ích. Nhiều nguồn dữ liệu có tính
phí cần phải được xem xét về phí truy cập hoặc có giải pháp nhằm kích
thích người đọc sẵn sàng truy cập để tìm hiểu.


Để dữ liệu – thơng tin - tri thức phát huy sức mạnh và vai trị của
mình thì cần có mơi trường. Quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức là
một lĩnh vực mà thế giới đã nhắc đến cách đây chục hàng năm nhưng


lại là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam nhất là trong môi
trường quân đội của Trường Cao đẳng Cơng nghệ và Kỹ thuật Ơ tô.
Quản trị dữ liệu – thông tin giúp chúng ta chia sẻ, đánh giá, lưu giữ,
sáng tạo và phát triển tri thức cho người đọc. Nó tạo ra mơi trường để
bất cứ cá nhân nào cũng có thể tiếp nhận, nắm giữ, chia sẻ, sáng tạo và
ứng dụng để trở thành những con người trí thức có thể vận hành cơng
việc ở các vị trí cụ thể.


<i>Giải pháp thứ hai: Tổ chức hội thảo, diễn đàn để tạo môi trường giao lưu, </i>
<i>chia sẻ kiến thức cho độc giả.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

ngành, lĩnh vực khác nhau thành lập các tổ chuyên môn trực thuộc
từng đơn vị trong Nhà trường để hướng các hoạt động độc giả là các
giảng viên, học viên tích cực tham gia thảo luận nhằm góp phần giúp
giảng viên, học viên chú trọng hơn về vị trí, tầm quan trọng NCKH,
kiến thức chuyên ngành và giao lưu kiến thức với các ngành khác, các
thơng tin hữu ích cho ngành, môn học cho học viên. Các tổ chuyên
mơn trực thuộc Phịng Đào tạo của Nhà trường thường xuyên tổ chức
đánh giá, phân tích và tiếp thu các ý kiến của các thành viên trong
diễn đàn để đưa ra được những định hướng NCKH hàng năm cho
giảng viên, các thông tin mới và định hướng ngành nghề mới trên thế
giới cho học viên. Bên cạnh đó là đưa ra các biện pháp khuyến khích
NCKH cho giảng viên và học viên để tạo được động lực cho giảng viên
trau dồi kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy và cho học viên hăng say
hơn trong lĩnh vực nghiên cứu, học tập của mình, góp phần đáp ứng
cao cho nhu cầu sử dụng sau khi nhận nhiệm vụ công tác tại các đơn
vị trong toàn quân.


<i>Giải pháp thứ ba: Tạo được sự thống nhất của các cấp, các ngành về tầm </i>
<i>quan trọng của Dữ liệu – thông tin – tri thức trong thư viện Nhà trường.</i>



Các cấp, các ngành có quan điểm thống nhất về tầm quan trọng
của dữ liệu – thông tin – tri thức trong thư viện nhà trường sẽ đưa ra
được nhiều giải pháp cụ thể để xây dựng hệ thống dữ liệu – thông
tin – tri thức trong thư viện nhà trường một cách toàn diện. Các giải
pháp khuyến khích đội ngũ cán bộ, giảng viên có chất lượng tham gia
tích cực vào việc tạo ra thêm nhiều nguồn dữ liệu – thông tin trong
các ngành, nghề vào Thư viện Nhà trường để tạo ra nhiều môi trường
phong phú từ các nguồn dữ liệu – thông tin phục vụ nghiên cứu, học
tập, góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đó là đội ngũ cán
bộ, giảng viên, giáo viên, học viên ở từng cấp, từng cương vị cơng tác,
từng chức trách, nhiệm vụ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức, sức khỏe tốt; có trình độ, trí tuệ, năng lực chun mơn cao,
đáp ứng sự phát triển của nhiệm vụ trong mọi tình huống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

viên, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao. Để nguồn nhân lực
này có điều kiện vươn lên tiếp thu, làm chủ nguồn dữ liệu – thơng
tin thì vấn đề quan trọng không chỉ coi trọng đầu tư về cơ sở vật chất,
trang thiết bị kỹ thuật mà cần phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề
con người. Điều đó địi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường phải
quan tâm xây dựng lòng say mê, sự nhiệt tình, trách nhiệm cao của
các lực lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với công tác
giáo dục và đào tạo; bằng nhiều biện pháp tăng cường đưa họ vào
các hoạt động thực tiễn ở các môi trường khác nhau để bồi dưỡng,
rèn luyện và tạo điều kiện tốt nhất cho họ phát huy vai trị, khả năng
của mình. Ln quan tâm xây dựng bầu khơng khí dân chủ, cởi mở
trong các hoạt động; coi trọng việc tham khảo ý kiến các chuyên gia
đầu ngành, cán bộ quản lý giỏi nhằm tôn trọng, khuyến khích và
phát huy vai trị tích cực, chủ động, sáng tạo của họ trong các hoạt
động, nhất là áp dụng việc khai thác nguồn dữ liệu – thông tin trong


thư viện Nhà trường để tự học tập, nâng cao trình độ áp dụng tốt vào
giảng dạy và các cơng trình NCKH. Cùng với đó, cần quan tâm phát
triển hạ tầng kỹ thuật, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại theo
hướng tăng cường cho cơ sở, ưu tiên việc trang bị cho các khoa giáo
viên có các phịng học chun dùng, hệ thống thiết bị ảo, mơ phỏng,
các phần mềm giảng dạy,… để nguồn nhân lực chất lượng cao có
điều kiện học tập, vươn lên tiếp thu và ứng dụng thành tựu của cuộc
cách mạng Công nghiệp 4.0 vào thiết kế nội dung bài giảng và nâng
cao chất lượng nghiên cứu khoa học. Đồng thời, có cơ chế khuyến
khích họ tự nghiên cứu, sáng tạo ra các phần mềm, thiết kế giáo án
điện tử, bài giảng điện tử, tập hợp các kho tư liệu,… để chia sẻ, trao
đổi thông tin trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở phạm vi từng
trường và liên kết giữa các nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Giải pháp thứ tư: Tạo sự chuyển biến về nhận thức của các lực lượng về </i>
<i>xây dựng và phát huy vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao ở các nhà trường </i>
<i>quân đội trong bối cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0. </i>


Cơ quan tham mưu đào tạo trong nhà trường cần chủ động xây dựng
chương trình, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng phù hợp.
Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, tôn vinh những
đóng góp của nguồn nhân lực chất lượng cao trong công tác giáo dục và
đào tạo, nhất là trong công tác phát triển nguồn dữ liệu – thông tin trong
Thư viện Nhà trường, từ đó tiếp tục gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và
NCKH để tạo ra phong trào trong toàn đơn vị. Vấn đề quan trọng là phải
vừa khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia tra cứu dữ liệu – thông tin
trong thư viện bằng các hình thức tuyên truyền khác nhau, vừa đề xuất ra
nhiều hoạt động thực tiễn để từng bước khẳng định tầm quan trọng của
<b>dữ liệu – thông tin trong công tác đào tạo và NCKH trong Nhà trường. </b>



<b>KẾT LUẬN</b>



Như vậy, quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức là một quá trình để có
thể chia sẻ, thu nhận, lưu giữ, lựa chọn, và truyền tải tới người đọc, đóng
góp vào quá trình tạo ra các sản phẩm NCKH, tạo ra của cải cho xã hội.


Để quản trị được dữ liệu – thông tin - tri thức, chúng ta phải thực
hiện đồng bộ các giải pháp trong đó ưu tiên hàng đầu là:


Thứ nhất, chúng ta cần xây dựng chính sách thu thập, xử lý, sàng
lọc, lưu trữ truyền tải dữ liệu – thông tin cho người đọc theo hướng
thực tế hơn và biến nó thành hiện thực chứ không chỉ nằm trên giấy tờ.


Thứ hai, xây dựng và triển khai một chương trình quốc gia về
quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức triển khai rộng rãi trong các cơ
quan, doanh nghiệp, nhà trường...


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Nguyễn Huy Chương (2011), “Học liệu mở và hướng phát triển tài
nguyên số, thư viện điện tử và vấn đề phát triển học liệu số”, tr.1-3.
2. Đại tá, TS. Vũ Đình Đắc (2019), “Giải pháp cơ bản xây dựng và phát huy


</div>

<!--links-->

×