Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNGVÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.62 KB, 25 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNGVÀ
CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP
I. BẢN CHẤT TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG:
1 Tiền lương :
Đối với người lao động trong bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ
không phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp thì tiền lương vẫn đóng
vai trò quan trọng trong đó không chỉ là khoản thu nhập để đảm bảo đối với đời
sống và một phần tích luỹ trong cuộc sống. Nó chịu tác động của nhiều yếu tố như:
kinh tế chính trị, xã hội lịch sử... Tiền lương cũng tác động tới việc sản xuất, cải
thiện đời sống và ổn định chế độ chính trị xã hội. Chính vì thế không chỉ Nhà
nước, chủ các doanh nghiệp và người lao động đều chú trọng quan tâm đến chính
sách tiền lương. Bởi yếu tố tiền lương có tác động hai chiều cả phía người lao động
và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi tiền lương gắn
liền với việc tăng hay giảm năng suât lao động có mối quan hệ tỷ lệ thuận với
nhau. Tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất, đến lợi nhuận của doanh nghiệp
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh .
Nói như vậy tiền lương là gì ?
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung tiền lương được hiểu như sau:
Tiền lương dưới chế độ chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân được hiểu
dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên
cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi con người đã cống hiến.
Tiền lương phải phản ánh việc trả lương cho công nhân viên dựa trên nguyên tắc
phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao động.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quan điểm cũ về tiền lương
không còn phù hợp với điều kiện nền kinh tế hàng hoá. Đòi hỏi nhận thức lại “Tiền
lương là toàn bộ thu nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động với giá trị lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất
kinh doanh ”Để có nhận thức đúng đắn về tiền lương phải đáp ứng một số yêu cầu
sau:
Tiền lương phải là khoản tiền trả cho người đã bỏ sức lao động của mình
phục vụ một công việc nào đó. Khi đó sức lao động trở thành một thứ hàng hoá


của thị truờng yếu tố sản xuất. Tính chất của sức lao động có thể bao gồm không
chỉ lực lượng lao động làm trong khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh vực Nhà nước mà
còn cả đối với công nhân viên chức trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội.
Tiền lương trả cho sức lao động tức là giá trị của hàng ho sức lao động mà
người sử dụng và người cung ứng sức lao động thoả thuận với nhau theo quy luật
cung cầu của giá cả thị trường.
Tiền lương là khoản thu nhập chính đảm bảo cuộc sống và có phần tích luỹ
xã hôi của người lao động. Đồng thời tiền lương là một trong những khoản chi phí
đầu vào của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua các yêu cầu của tiền lương đi đến định nghĩa tiền lương như sau: “Tiền
lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức lao
động mà người sử dụng phải trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các
nguyên tắc cung cầu giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế:
Tiền lương danh nghĩa:
Tiền lương danh nghĩa là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng
sức lao động phải
trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp đồng lao động giữa hai bên
trong việc thúc đẩy lao dộng. Trên thực tế mọi mức lương trả cho người lao động
đều là tiền lương danh nghĩa. Lợi ích mà người cung ứng lao động nhận được còn
phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ và số lượng thuế mà người lao động sử
dụng tiền lương để mua sắm hoặc đóng thuế.
Tiền lương thực tế:
Tiền lương thực tế là lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động
có thể mua được bằng tiền lương của mình sau khi đã đóng các khoản thuế theo
quy định của Nhà nước. Số tiền lương thực tế tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả và tỷ lệ
thuận với chỉ sốtiền lương danh nghĩa tại thời điểm xác định.
Igc
Itldn

Ttltt
=
Trong đó :
Ttltt
:Chỉ số tiền lương thực tế
:Itldn
Chỉ số tiền lương danh nghĩa.
Igc
Chỉ số giá cả.
1.1.Chức năng của tiền lương:
- Chức năng thước đo giá trị: Biểu hiện giá cả sức lao động làm cơ sở để
điều chỉnh lương cho phù hợp mỗi khi giá cả trên thị trường biến động.
- Chức năng kích thích sức lao động: Tiền lương là động lực chủ yếu khích
lệ người lao động làm việc tích cực hơn, thúc đẩy người lao động cải tiến một cách
có hệ thống các phương pháp tổ chức lao động nhằm làm việc có hiệu quả nhất với
mức lương xứng đáng, ở một mức độ nhất định tiền lương thể hiện uy tín giá trị
của người lao động củng như năng lực và lao động của họ đối với sự phát triển
của đơn vị
- Chức năng tái sản xuất sức lao động: Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất,
tức là nuôi sống người lao động, duy trì và phát triển sức lao động của chính bản
thân người lao động trên cơ sở đó sản xuất ra sức lao động mới và hiệu quả tích luỹ
kinh nghiệm hoàn thành kỹ năng lao động và tăng sức sáng tạo trong lao động.
- Chức năng quản lý của Nhà nước: Tiền lương với chế độ của nó là những
đảm bảo có tính chất pháp lý của Nhà nước buộc người sử dụng lao động phải trả
theo công việc đã hoàn thành của người lao động đảm bảo quyền lợi tối thiểu mà
họ được hưởng. Căn cứ vào yêu cầu cơ bản này thông qua tình hình thực tiễn kinh
tế xã hội mà Nhà nước định ra chế độ tiền lương phù hợp như một văn bản bắt
buộc đối với người sử dụng lao động . Các cơ sở sản xuất kinh doanh trả lương
cho người lao động được giới hạn giữa mức tối thiểu do Nhà nước quy định và kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính điều đó buộc người sử dụng lao

động một cách hợp lý cũng như các chi phí khác.
- Chức năng điều tiết lao động: Thông qua hệ thống thang lương, bảng lương
và các chế độ phụ cấp được xác định cho từng ngành, từng vùng người lao động sẽ
tự nguyện nhận công việc được giao với mức lương phù hợp và thoả đáng. Tiền
lương tạo động lực và là công cụ điều tiết lao động giữa các nhành các vùng trên
lãnh thổ góp phần tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý. Đó là điều kiện cơ bản để
Nhà nước thực hiện kế hoạch cân đối vùng, ngành, lãnh thổ.
Tiền lương nhằm đảm bảo chi phí để tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu
cầu thấp nhất của tiền lương nuôi sống người lao động, duy trì sức lao động của họ.
- Chức năng kích thích của tiền lương: Tiền lương cao hay thấp có thoả đáng
hay không sẽ thể hiện rất rõ ở trách nhiệm và hiệu quả làm việc của người lao
động. Tiền lương phải tạo ra sự say mê nghề nghiệp. Không ngừng nâng cao trình
độ về chuyên môn và các lĩnh vực khác.
- Vai trò điều phối của tiền lương: Tiền lương nhận được phải thoả đáng,
người lao động sẵn sáng nhận mà công việc được giao dù ở đâu, làm gì hay bất cứ
khi nào trong điều kiện sức lực và trí tuệ của họ cho phép.
- Vai trò quản lý lao động: Doanh nghiệp sử dụng công cụ tiền lương còn với
mục đích khác là thông qua đó mà kiểm tra theo dõi người lao động làm việc đảm
bảo tiền lương chi ra phải đem lại kết quả rõ rệt. Hiêụ quả tiền lương không chỉ
tính theo tháng mà còn phải tính theo ngày, theo giờ, ở từng doanh nghiệp, bộ phận
và từng người.
1.2.Nguyên tắc trả lương:
Nguyên tắc 1:
Trả lương ngang nhau cho người lao động như nhau từ nguyên tắc phân phối
theo lao động. Nguyên tắc này dùng thước đo lao động để đánh giá so sánh và thực
hiện trả lương.
đây là nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo công bằng sự bình đẳng trong trả
lương.Thực hiện đúng nguyên tắc này có tác dụng kích thích người lao động hăng
hái tham gia sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
doanh .

Nguyên tắc 2:
Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân .
Tiền lương là do trình độ tổ chức và quản lý lao động ngày càng hiệu quả hơn. Nă
suất lao động tăng ngoài lý do nâng cao kỹ năng làm việc và trình độ tổ chức quản
lý thì còn do nguyên nhân khác tạo ra như đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao
trình độ, trang bị kỹ thuật ng lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Điều đó cho thấy tăng năng suất lao động có khả năng
khách quan tăng nhanh hơn tiền lương bình quân.Trong mỗi doah nghiệp việc tăng
tiền lương dẫn đến tăng chi phí sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động lại
giảm chi phí cho từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp chỉ thực sự
kinh doanh có hiệu quả khi chi phí cho từng đơn vị kinh doanh giảm đi và mức
giảm chi phí đó do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi phí do tiền
lương bình quân.
Nguyên tắc 3:
Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm
các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc
này thì cần dựa trên các yếu tố sau:
+Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành.Do đặc
điểm và trính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ ở các ngành khác nhau là
khác nhau. Điều naỳ cho thấy trình đôh lao động giữa các ngành nghề khác nhau
cũng khác nhau. Sự khác nhau này cần phải được phân biệt trong trả lương, như
vậy mới khuyến khích được người lao động tích cực học tập , rèn luyện, nâng cao
trình độ lành nghề và kỹ năng làm việc nhất là những nơi, những ngành đòi hỏi
kiến thức, trình độ tay nghề cao.
+ Điều kiện lao động khác nhau: có ảnh hưởng đến mức hao phí sức lao
động trong quá trình làm việc. Những người làm việc trong điều kiện nặng nhọc,
độc hại, hao tổn nhiều sức lực phải được trả lương khác so với người lao động làm
trong điều kiện bình thường . Từ đó dẫn tới sự khác nhau về tiền lương bình quân
trả cho người lao động làm việc ở những nơi có điều kiện lao động rất khác nhau.
+ Sự phân phối theo khu vực sản xuất: Một ngành có thể phân bố khác nhau

về vị trí địa lý phong tục tập quán … Điều kiện đó ảnh hưởng tới đời sống người
lao động làm việc ở những nơi có điều kiện khó khăn phải có chính sách tiền lương
hợp lý đó là những khoản phụ cấp lương.
+ ý nghĩa kinh tế mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân: Nền kinh tế quốc
dân có nhiều ngành nghề khác nhau đựơc xem là trọng điểm tuỳ từng giai đoạn
kinh tế xã hội, do đó nó cần được ưu tiên để phát triển được cần tập trung nhân lực
và biện pháp là tiền lương để thu hút lao động, đó là một biện pháp đòn bẩy kinh tế
cần được thực hiện tốt.
1.3. Các hình thức trả lương:
Việc tính và trả lương cho người lao động có thể được thực hiện theo nhiều
hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm kinh doanh, tính chất công việc vận dụng
hình thức tiền lương hợp lý nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động,
kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích chung của toàn xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và
những người lao động. ở nước ta hiện nay thường áp dụng hình thức trả lương theo
thời gian, theo sản phẩm hoặc theo khoán thu nhập.
- Hình thức trả lương theo thời gian: Hình thức trả lương theo thời gian thực
hiện tính trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc, theo ngành nghề và
trình độ thành thạo nghiệp vụ , kỹ thuật , chuyên môn cả người lao động.
Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗingành nghề cụ thể có một thang
lương riêng như :
Thang lương công nhân cơ khí, thang lương công nhân lái xe, thang lương nhân
viên văn phòng… Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo nghiệp
vụ, kỹ thuật chuyên môn mà chia ra làm thành nhiều bậc lương mỗi bậc lương có
một mức lương nhất định . Tiền lương theo thời gian được chia ra: Tiền lương
tháng, tiền lương ngày và tiền lương giờ.
+ Tiền lương tháng: Là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp
đồng lao động. Thông thường tiền lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc
lương trong các tháng lương. Lương tháng thường được áp dụng để trả lương cho
nhân viên làm công tác quản lý kinh tế, quản lý hành chính và các nhân viên thuộc
các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất.

Số tiền lương phải trả trong tháng
=
Mức lương tháng theo hợp đồng lao đồng
Các khoản phụ cấp lương
+
+ Các khoản phụ cấp lương : khi nói đến các khoản phụ cấp lương không
thể không nói đến chế độ phụ cấp lương, nó bao gồm ngững quy định của Nhà
nước cá tác dụng bổ sung cho chế độ tiền lương nhằm tính đến đầy đủ những yếu
tố không ổn định thường xuyên trong điều kiện lao động và diều kiện sinh hoạt mà
khi xác định tiền lương chưa tính hết. Chế độ phụ cấp có các loại phụ cấp sau:
++ Phụ cấp khu vực: áp dụng với những nơi xa xôi, miền núi, miền cao ... có
nhiều khó khăn và khí hậu xấu.
++ Phụ cấp độc hại, nguy hiểm: áp dụng với nghề hoậc công nhân có điều
kiện lao động đọc hại, nguy hiểm chưa được xác định trong mức lương.
++ Phụ cấp trách nhiệm: áp dụng đối với một số ngành nghề hoặc công việc
đòi hỏi trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức
vụ lãnh đạo.
++ Phụ cấp làm đêm: áp dụng với công nhân viên, viên chức làm việc từ
22h đêm đến 6h sáng hôm sau.
++ Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với một số ngành nghề hoặc công việc
phải thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở …
+ Tiền lương ngày: Là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương
ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Mức lương ngày được tính băng
cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc thực tế trong tháng theo chế
độ. Lương ngày được áp dụng để trả lương cho lao động trực tiếp hưởng lương
thời gian, tính trả lương cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập,
hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Tiền lương phải = Mức lương x Số ngày thực tế
trả trong tháng một ngày làm việc trong tháng
Mức lương ngày =Mức lương tháng theo cấp bậc (chức vụ ) x (Hệ số lương + Hệ

số phụ cấp )/Số ngày làm việc theo chế độ
+ Tiền lương giờ: Là tiền lương cho một giờ làm việc và được xác định bằng
cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ làm việc trong ngày theo chế độ (không
quá 8 giờ / ngày ) Lương giờ thường được áp dụng trả cho người lao động trực
tiếp sản xuất trong thời gian làm việc không hưởng lương theo sản phẩm. Thường
là những công việc mang lại kêt quả trong thời gian ngắn và đòi hỏi chất lượng
cao.
Ngoài ra còn có hình thức trả lương theo công nhật : Là mức lương do thoả
thuận giữa người sử dụng lao động và người lao đông, thường áp dụng cho những
lao động theo thời vụ và không thường xuyên.
Như vậy tiền lương theo thời gian căn cứ vào số lượng thời gian làm việc
thực tế nhân với mức tiền lương của một đơn vị thời gian. Hình thức tiền lương
theo thời gian không phát huy đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động vì nó
mang tính bình quân, nhiều khi không phù hợp với kết quả lao động thực tế của
người lao động. Để khắc phục phần nào hạn chế đó nên kết hợp với chế độ tiền
thưởng để khuyến khích người lao động làm việc. Nhìn chung, với những hạn chế
của tiền lương theo thời gian thì những trường hợp nào chưa đủ điều kiện hình
thức lương theo sản phẩm mới áp dụng tiền lương theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm: Hình thức trả lương theo sản phẩm
được thưc hiện việc tính chả lương cho người lao động theo số lượng và chất lượng
sản phẩm hoăc công việc đã hoàn thành. Hình thức tiền lương này phù hợp với
nguyên tắc phân phối theo lao đông, gắn chặt năng suất lao động với thù lao lao
động có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, góp
phần tăng thêm sản phẩm cho xã hội. Trong việc chả lương theo sản phẩm, điều
kiện quan trọng nhất là phải xây dựng đựơc các định mức kinh tế-kỹ thuật để làm
cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công
việc một cách hợp lý. Việc trả lương theo sản phẩm co thể tiến hành theo nhiều
mưc khác nhau như trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, trả theo sản phẩm
gián tiếp, trả theo sản phẩm có mức thưởng… tuỳ theo tình hình cụ thể ở từng
doanh nghiệp mà vận dụng theo từng hình thức tiền lương theo sản phẩm sau đây:

- Hình thức tiền lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế:
Tiền lương trả cho = Số lượng sản x Đơn giá tiền lương
người lao động phẩm hoàn thành đã quy định
đúng quy cách ,phẩm chất
Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến để trả lương cho
người lao động trực tiếp.
- Hình thức trả lương theo sản phẩm gián tiếp:
Thường được áp dụng để trả lương cho người lao động gián tiếp ở các bộ
phận sản xuất như lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu, thành phẩm, bảo
dưỡng máy móc thiết bị… Tuy lao động của họ không trực tiếp tạo ra sản phẩm
nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng đến năng xuất lao động trực tiếp, nên có thể căn cứ
vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao động gián tiếp phục vụ để tính lương sản
phẩm cho lao động gián tiếp.
- Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp:
áp dụng để trả lương cho công nhân phục vụ sản xuất (vận chuyển vật liệu,
sản phẩm, bảo dưỡng máy móc …) Dựa vào năng suất lao động của lao động gián
tiếp để tính lương cho bộ phận lao dộng gián tiếp. Nhờ đó lao động gián tiếp sẽ
phục vụ tốt hơn và họ quan tâm đến kết quả phục vụ, kết quả sản xuất, từ đó có
giải pháp cải tiến công tác phục vụ sản xuất. Song hình thức tính lương này như đã
nói ở trên phải phụ thuộc vào thái độ và trình độ của lao động trực tiếp, vì vậy nó

×