Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CAVICO VIỆT NAM THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.31 KB, 11 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CAVICO VIỆT NAM
THƯƠNG MẠI
1. Một số nhận xét về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở Công ty.
Qua thời gian thực tập tại Công ty, em đã được tiếp cận với thực tế để củng
cố và nghiên cứu thêm những kiến thức đã được học. Mặc dù thời gian thực hiện
tại Công ty không dài, những kinh nghiệm thực tế cũng không được hoàn toàn đầy
đủ, em vẫn mạnh dạn đưa ra một số nhận xét khái quát về những điểm làm được và
những mặt còn hạn chế cần được hoàn thiện trong công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty.
1.1. Những ưu điểm :
Công ty đã chủ động nghiên cứu, từng bước tìm ra mô hình quản lý, hạch
toán chi phí và tính giá thành phù hợp với đặc điểm riêng của Công ty. Trong
những năm qua, Công ty đã không ngừng phát triển mạnh cả về quy mô chất lượng
sản xuất, tạo được uy tín trên thị trường. Có được những thành công đó, bên cạnh
sự quản lý năng động, sáng tạo của bộ máy quản lý Công ty, còn có sự đóng góp
không nhỏ của công tác hạch toán kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành nói riêng. Những mặt ưu điểm trong công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty thể hiện trên các mặt
chủ yếu sau :
Về bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình
thức tập trung, cơ cấu gọn nhẹ phù hợp với đặc điểm của Công ty. Quy trình làm
việc của bộ máy kế toán khoa học, hợp lý, công việc của từng cán bộ kế toán phù
hợp với trình độ và khả năng của mỗi người. Các cán bộ kế toán đều có kinh
nghiệm chuyên môn vững vàng về lĩnh vực tài chính kế toán, vận dụng một cách
linh hoạt vào thực tế. Nhờ đó việc hạch toán kế toán được thực hiện một cách hiệu
qủa, xử lý và cung cấp các thông tin kế toán một cách kịp thời cho lãnh đạo Công
ty.
Về tổ chức thực hiện công tác kế toán : Các chứng từ ban đầu được tổ chức


luân chuyển hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ. Hệ thống sổ sách kế toán được áp dụng phù
hợp với hình thức kế toán Nhật ký chung, có biểu mẫu đơn giản, dễ phân công
công việc kế toán, đáp ứng được các quy định của chế độ kế toán, phù hợp với đặc
điểm riêng của ngành và yêu cầu quản lý của Công ty, bộ máy kế toán được tổ
chức gọn nhẹ dù khối lượng công việc tương đối lớn.
Về phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành : Công ty tập hợp
chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên và tính giá thành theo
phương pháp trực tiếp. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng
công trình, hạng mục công trình hoặc khối lượng công tác xây lắp bàn giao là phù
hợp với đặc điểm riêng của ngành xây dựng. Mặt khác, công tác kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành cũng có những vận dụng sáng tạo linh hoạt, đặc
biệt là các bảng, các sổ và những tài khoản mở thêm, đảm bảo việc cung cấp thông
tin phục vụ cho công tác quản trị chi phí và giá thành của doanh nghiệp.
Cùng với sự phối hợp của các phòng ban chức năng của Công ty, phòng kế
toán đã hoàn thành tốt nhiệm vụ thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin tài chính nói
chung và thông tin chi phí và giá thành nói riêng, góp phần cùng Công ty giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Công ty với người lao động, với Nhà nước, với khách
hàng. Bộ phận kế toán đã thể hiện rõ vai trò then chốt trong quản lý doanh nghiệp.
1.2. Những mặt tồn tại :
Bên cạnh những ưu điểm đạt được, trong những năm gần đây, do chế độ kế
toán có một số thay đổi, công tác hạch toán kế toán của Công ty không tránh khỏi
những khó khăn và vấp phải một số tồn tại cần khắc phục, đặc biệt trong công tác
hạch toán kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Một là, về chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Do đặc điểm ngành xây dựng là
địa bàn hoạt động phân tán, Công ty đã tổ chức một hệ thống các kho tạm tại chân
công trình, phần lớn vật tư được sử dụng cho công trình đều được mua ngoài trực
tiếp về nhập kho. Việc quản lý vật liệu tại kho được tổ chức tương đối tốt với
những chứng từ, bảng biểu theo dõi chặt chẽ, Công ty đã có một hệ thống định
mức nguyên vật liệu, nhưng vẫn còn có kẽ hở về chi phí nguyên vật liệu tự đảm
nhiệm do đội tự mua. Mặc dù phải được sự chấp nhận của cấp trên, việc tự mua và

dùng nguyên vật liệu tại Công ty là rất khó quản lý và có thể làm tăng khoản chi
vật liệu lên cao hơn giá trị thực tế. Mà vật liệu chiếm một tỷ trọng đáng kế trong
giá thành sản phẩm xây lắp, việc phản ánh thiếu chính xác trị giá thực tế của vật tư
sẽ làm tăng giá thành và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thứ hai, về chi phí nhân công trực tiếp : Của Công ty được hạch toán cho cả
công nhân điều khiển máy thi công. Cách hạch toán này tiện cho việc thực hiện
giao khoán công trình cho từng tổ đội, nhưng lại không phản ánh được thực chất
chi phí nhân công trực tiếp. Điều này cũng ảnh hưởng đến công tác quản trị từng
khoản mục chi phí trong doanh nghiệp.
Thứ ba, về chi phí sử dụng máy thi công : Chi phí sử dụng máy thi công bao
gồm chi phí khấu hao máy thi công, chi phí TSCĐ thuê hoạt động, không bao gồm
chi phí nguyên vật liệu phục vụ máy thi công (được hạch toán vào chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp), chi phí nhân viên điều khiển máy thi công (được hạch toán vào
chi phí nhân công trực tiếp).
Cách hạch toán này cũng không phản ánh được đầy đủ toàn bộ chi phí máy
thi công.
Căn cứ vào các chứng từ gốc, bảng kê chi tiết chi phí sản xuất của đội gửi
lên kế toán tổng hợp bảng kê chi phí sản xuất cho từng công trình hạng mục công
trình vào NKC, sổ cái, sổ chi tiết TK chi tiết cho từng công trình.
Đối với chi phí SD MTC phải tách chi phí KHTSCĐ ở đội và chi phí
KHTSCĐ ở công ty để tập hợp vào TK 627 4.
Chi phí TCSĐ đi thuê hoạt động cùng với các khoản phải chi bằng tiền khác
đều tập hợp vào TK 627 8.
2. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty.
2.1. Về kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp :
Một là, Công ty nên hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo giá trị
thực tế của nguyên vật liệu gồm giá mua và chi phí mua theo đúng chế độ kế toán
đã quy định. Cách hạch toán này sẽ phản ánh đúng thực chất chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, giúp cho việc đánh giá từng khoản mục chi phí được chính xác.

Hai là, đối với vật tư xuất từ kho ở Công ty hoặc từ kho ở các công trình, mà
Công ty đã xây dựng được hệ thống định mức, Công ty nên sử dụng phiếu xuất vật
tư theo hạn mức để việc quản lý và hạch toán chi phí được chặt chẽ và hiệu quả
hơn. Mẫu phiếu xuất kho vật tư theo hạn mức có thể như sau (Phụ lục 13)
- Phiếu xuất kho vật tư này rất phù hợp trong trường hợp vật tư được xuất
nhiều lần trong tháng, giúp giảm số lượng các chứng từ ban đầu và theo dõi được
vật tư gắn với định mức được duyệt nhằm tiết kiệm chi phí. Hạn mức được duyệt
trong tháng được tính trên cơ sở khối lượng sản xuất, thi công trong tháng theo kế
hoạch và định mức tiêu hao vật tư. Hạn mức này sẽ được nhân viên phụ trách vật
tư tính trước và duyệt trước cho bộ phận sử dụng. Khi xuất vật liệu, thủ kho sẽ căn
cứ trên hạn mức đã được duyệt để thực hiện, bộ phận sử dụng không cần phải qua
ký duyệt. Cuối tháng, dù hạn mức vật tư còn hay hết, thu kho vẫn phải thu lại
phiếu xuất vật tư theo hạn mức, nộp lên kế toán nguyên vật liệu các đội để làm
chứng từ ghi sổ. Phiếu xuất vật tư theo hạn mức này sẽ tạo điều kiện theo dõi, quản
lý chặt chẽ hơn việc dùng vật liệu của Công ty. Mặt khác, nếu xảy ra hao hụt, mất
mát vật liệu, việc kiểm tra phát hiện cũng dễ dàng hơn.
Đối với vật tư đội tự đảm nhiệm, Công ty cần phải có biện pháp quản lý chặt
chẽ nhằm hạn chế tối đa những hao hụt vật tư, tránh những lãng phí không cần
thiết. Các biện pháp có thể áp dụng là yêu cầu đội trưởng phải chịu trách nhiệm
kiểm tra kỹ thuật chất lượng và giá cả vật tư mua về, Công ty nên cử nhân viên phụ
trách vật tư kiểm tra đột xuất và đánh giá lại số lượng vật tư đội tự đảm nhiệm.
Công ty cũng có thể hạn chế số lượng và giá trị vật tư do tổ đội tự mua trong kỳ.
Bốn là, tai các công trường, số lượng vật tư được xuất ra sử dụng trong
tháng tương đối lớn, một số vật tư không dùng hết nhưng không được nhập lại kho,
làm cho chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của Công ty bị tăng lên một khoản
đáng kể, và việc tính chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong tháng cũng không được
chính xác. Để khắc phục tình trạng này, nhân viên kinh tế ở các tổ đội cần phải xác
định cụ thể từng loại vật liệu, cuối tháng nhập lại kho những vật liệu chưa dùng
hết.

×