Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.02 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nhạc cụ dân tộc Việt Nam là một lĩnh vực rất phonhg phú với vô vàn các loại nhạc cụ
khác nhau từ bộ dây đến bộ gõ, bộ hơi… Trong bài viết này upload.123doc.net xin
được giới thiệu đến các bạn một số loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam thông dụng, mời
các bạn cùng tham khảo.
<b>Đàn bầu</b>
Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm, là loại đàn một dây của người Việt, gảy bằng que
hoặc miếng gảy. Đàn có hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
<b>Đàn đá</b>
<b>Đàn đáy</b>
Đàn đáy là nhạc cụ do người Việt Nam sáng tạo ra. Không rõ đàn đáy xuất hiện lần
đầu vào năm nào nhưng nó được nhắc đến gần 500 năm qua.
<b>Đàn hồ</b>
Đàn hồ là nhạc cụ có cung vĩ, thuộc loại trung âm. Nó là một loại đàn nhị nhưng kích
thước lớn hơn, âm thanh trầm hơn đàn nhị bình thường.
Do đó các nghệ sĩ thường đặt đàn hồ trên giá gỗ để diễn tấu chứ không thể đặt trên
người.
Đàn hồ trung: Hồ trung còn gọi là hồ đại, mới xuất hiện trong thời gian gần đây do
yêu cầu của các dàn nhạc vừa trở lên.
<b>Đàn nguyệt (đàn kìm)</b>
Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam cịn gọi là đàn kìm. Loại đàn này có hộp đàn
hình trịn như Mặt Trăng nên mới có tên là “đàn nguyệt”. Theo sách xưa thì đàn
nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại cịn 2 dây[cần dẫn chứng]. Sách của Phạm Đình Hổ
thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.
<b>Đàn nhị (đàn cò)</b>
<b>Đàn tam</b>
<b>Đàn tam thập lục</b>
Tam thập lục là nhạc khí dây, chi gõ của âm nhạc dân gian Việt Nam. Đàn có 36 dây
nên được gọi là Tam Thập Lục. Tuy nhiên ngày nay một số nghệ nhân đã cải tiến đàn
này bằng cách mắc thêm nhiều dây nữa để đánh được nhiều âm hơn, kể cả những âm
nửa cung.
<b>Đàn tứ</b>
<b>Kèn loa</b>
Kèn loa là nhạc cụ thổi hơi có nhiều tên gọi khác nhau. Người ta còn gọi kèn loa là
kèn già nam, kèn bát (loa kèn giống hình cái bát) hay pí lê, pí kẻo (cách gọi của người
Thái). Nhạc cụ này cả người kinh và người dân tộc đều sử dụng.
<b>Mõ</b>
<b>Phách</b>
Phách là nhạc cụ gõ, xuất hiện trong nhiều thể loại ca, múa nhạc ở Việt Nam từ lâu
<b>Sáo ngang</b>
<b>Sinh tiền</b>
Sinh tiền là nhạc cụ gõ độc đáo, xuất hiện ở Việt Nam ít nhất vài trăm năm nay. Tên
cổ của nó là phách sâu tiền hay phách quán tiền. Ngày nay có người gọi là sênh tiền.
Nhìn chung, nhạc cụ này là một loại sinh có gắn những đồng tiền vào nên gọi là sinh
tiền.
Song loan là một loại mõ nhỏ bằng gỗ cứng hình trịn dẹt dùng để giữ nhịp trong dàn
nhạc.
<b>Tiêu</b>
Tiêu là nhạc cụ xuất hiện ở Việt Nam hàng ngàn năm nay. Nó là nhạc cụ thổi hơi có
cấu tạo đơn giản hơn cả sáo ngang, vì chỉ có một ống nứa và một số lỗ khoét. Nếu sáo
thường được thổi ngang thì tiêu lại thổi dọc.
<b>Trống cái</b>
Trống cái là nhạc cụ không định âm, to lớn, xuất hiện ở khắp nước Việt Nam từ hàng
ngàn năm nay. Dù ở đồng bằng hay miền núi người ta đều nhận ra sự có mặt của
trống cái.
<b>Trống cơm</b>
Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam (đời nhà Lý). Đây là nhạc cụ gõ,
định âm, cịn có tên gọi khác là phạn cổ (phạn là cơm, cổ là trống). Trong các ban
nhạc tuồng, chèo và ban nhạc tang lễ ngày xưa có loại trống này. Nhiều ban nhạc
ngày nay cũng sử dụng trống cơm.
<b>Trống đế</b>