Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.04 KB, 9 trang )

MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM
TOÁN
3.1. Một số đánh giá tổng quan về Công ty
3.1.1. Nh ng m t m nh c a Công tyữ ặ ạ ủ
Thứ nhất: AASC là một trong hai công ty kiểm toán đầu tiên tại Việt Nam, với quá trình
phát triển lâu dài và bền vững. Sau hơn 16 năm xây dựng và phát triển, AASC đã đạt được
nhiều thành tựu lớn.
AASC đã có được một số lượng khách hàng đông đảo trong nhiều lĩnh vực từ sản xuất,
thương mại, xây dựng cho đến ngân hàng, tài chính, bảo hiểm… Bằng trình độ, nghiệp vụ,
AASC đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn… với chất lượng
cao, đáp ứng được sự tin cậy của khách hàng.
Với những thành công như vậy là vì AASC có được những thế mạnh sau:
Một là bộ máy quản lý của AASC được tổ chức một cách khoa học và hiệu quả trong nhiều
năm qua: Ban Giám đốc Công ty đều là những người được cấp chứng chỉ KTV đầu tiên tại Việt
Nam, có trách nhiệm trong công việc và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, kế
toán, tư vấn tài chính luôn giám sát chặt chẽ quá trình cung cấp các dịch vụ kiểm toán.
Hai là nhân sự: Với đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, có kiến thức và kỹ năng chuyên
môn, sáng tạo trong công việc, luôn luôn tìm tòi học hỏi. Ngoài những kiến thức cập nhật
thường xuyên do đòi hỏi của công việc, hàng năm, nhân viên của Công ty đều được đào tạo,
bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn qua các khoá học tập huấn do Công ty tổ chức.
Thứ hai: Về quy trình kiểm toán: Để có được những thành công như vậy là nhờ AASC
đã xây dựng được một quy trình kiểm toán hợp lý, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cao. Quy trình
kiểm toán tại AASC được xây dựng trên cơ sở lý thuyết kiểm toán, tuân thủ các Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam cũng như các Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận và các quy
định khác của Bộ Tài chính và được thể hiện qua từng giai đoạn:
Đối với giai đoạn chuẩn bị: Công việc lập kế hoạch kiểm toán được AASC thực hiện
khá tốt. Ưu điểm của giai đoạn này là:
Một: Hệ thống câu hỏi đánh giá hệ thống KSNB khá chi tiết, từ công việc đánh giá nhân
sự phòng kế toán đến việc thực hiện từng khoản mục cụ thể. AASC cũng đã thiết kế được
chương trình kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục một cách khoa học, giúp cho việc thực hiện
kiểm toán tiết kiệm được thời gian và chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Trong giai đoạn lập


kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên thu thập thông tin về khách hàng như cơ cấu tổ
chức, ngành nghề kinh doanh, các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. Điều này giúp
kiểm toán viên đánh giá được các rủi ro đồng thời định hướng cho quá trình kiểm toán tập trung
vào các vấn đề có rủi ro cao, nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán. Bên cạnh đó, AASC tiến
hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, hệ thống kế toán, quy trình hạch toán
đang áp dụng, cơ cấu tổ chức và hoạt động kiểm soát của đơn vị. Đối với các khách hàng
thường niên, AASC lưu các thông tin này trong hồ sơ chung và luôn cập nhật những thay đổi
qua các năm. Công việc này giúp tiết kiệm chi phí và thời gian tìm hiểu khách hàng cho kiểm
toán viên và công ty kiểm toán, giúp nâng cao hiệu quả cho cuộc kiểm toán.
Hai: Về đánh giá rủi ro: Tại AASC, thông thường việc đánh giá này được thực hiện bởi
các kiểm toán viên lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, là các trưởng phòng hoặc các Phó Tổng
Giám đốc. Công ty đã thiết kế một mẫu “phân tích hiệu quả hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội
bộ” đối với hệ thống kế toán, số dư tài khoản và loại nghiệp vụ theo từng cơ sở dẫn liệu trên
báo cáo tài chính. Mẫu phân tích này làm giảm thiểu các ý kiến bất đồng giữa ban giám đốc
công ty khách hàng với kiểm toán viên.
Đối với giai đoạn thực hiện: Giai đoạn này là giai đoạn kiểm toán viên làm việc trực
tiếp tại công ty khách hàng. Quá trình làm việc này được tiến hành một cách khoa học:
Một: Kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết: Đã lập được bám sát, các
kiểm toán viên của AASC đã thực hiện kiểm toán một cách toàn diện các báo cáo tài chính của
khách hàng. Mặc dù thời gian thực hiện cho mỗi cuộc kiểm toán hạn chế nhưng các kiểm toán
viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thập được các bằng
chứng đầy đủ và đáng tin cậy, cần thiết cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên. Tại AASC,
công việc kiểm toán được tiến hành theo khoản mục. Các khoản mục này được thực hiện bởi
các kiểm toán viên khác nhau nhưng giữa các kiểm toán viên luôn có sự phối hợp chặt chẽ.
Hai: Về việc trình bày và sắp xếp giấy tờ làm việc tại AASC: Các giấy làm việc được
trình bày và sắp xếp theo trình tự từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận đến các bằng chứng kiểm
toán cụ thể. Trong mỗi hồ sơ kiểm toán, trang tổng hợp luôn ở vị trí đầu tiên, sau đó là trang kết
luận, tiếp đến là chương trình kiểm toán, sau nữa là các giấy tờ làm việc khác mô tả chi tiết các
bước công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện cùng kết quả thu được, cuối cùng là các tài liệu
thu thập được từ phía khách hàng. Việc sắp xếp giấy tờ làm việc như vậy cho phép người sử

dụng thấy ngay được kết luận của kiểm toán viên và căn cứ đưa ra kết luận đó. Các trưởng
nhóm, trưởng phòng nghiệp vụ cũng như các thành viên kiểm soát chất lượng có thể dễ dàng
soát xét các công việc mà kiểm toán viên đã làm.
Đối với giai đoạn kết thúc: AASC đã tiến hành soát xét kỹ báo cáo kiểm toán trước khi
phát hành. Do đó, báo cáo được đưa ra với chất lượng và độ tin cậy cao. Sau khi báo cáo kiểm
toán được chính thức phát hành, kiểm toán viên của AASC vẫn tiếp tục theo dõi các sự kiện sau
ngày phát hành báo cáo và xem xét sự ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán.
3.1.2. Nh ng m t còn t n t i c a Công tyữ ặ ồ ạ ủ
Thứ nhất: Những hạn chế trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Một: Khi sử dụng bảng câu hỏi để tìm hiểu hệ thống KSNB, Công ty chưa quy định rõ
tiêu chí để đưa ra đánh giá hệ thống KSNB là tốt, khá, trung bình hay kém. Việc đánh giá hệ
thống KSNB vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, khả năng xét đoán của kiểm toán viên. Vì vậy,
có thể xảy ra trường hợp các kiểm toán viên khác nhau đưa ra quan điểm khác nhau về tính hiệu
quả của hệ thống KSNB. Từ đó sẽ gây ra khó khăn cho kiểm toán viên trong việc đưa ra kết
luận về hệ thống KSNB của khách hàng. Điều đó là do bảng câu hỏi được thiết kế sẵn, theo mẫu
chung của AASC và được áp dụng chung cho tất cả các khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng của
AASC rất đa dạng, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có đặc điểm khác nhau. Vì
vậy, việc áp dụng một mẫu bảng câu hỏi cho tất cả các khách hàng có thể sẽ làm cho quá trình
tìm hiểu không đạt được mục tiêu hoặc bỏ sót các thông tin quan trọng phục vụ cho quá trình
kiểm toán. Cũng có thể thấy bảng câu hỏi chỉ bao gồm các câu hỏi đóng, không mô tả được một
cách có hệ thống các thủ tục kiểm soát nội bộ đang được áp dụng.
Hai: Lập kế hoạch là công việc đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi
cuộc kiểm toán nhằm đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả. Việc lập
kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu của chính cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị
những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán mà còn nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện
kiểm toán, giúp cho công ty kiểm toán tiết kiệm chi phí kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả
công tác kiểm toán. Tuy nhiên, hiện nay công tác lập kế hoạch kiểm toán cho các cuộc kiểm toán
của AASC chưa thực sự được chú trọng. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán thì các bước quan
trọng bao gồm: thu thập thông tin cơ sở về khách hàng, thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ và đánh
giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Phần lớn trong các cuộc kiểm toán tại AASC hiện

nay, bước thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ và đánh giá hệ thống KSNB thường được dựa trên kinh
nghiệm phán đoán của KTV chứ không được thể hiện cụ thể trên giấy tờ làm việc. Điều này khiến
cho khâu lập kế hoạch còn nhiều hạn chế.
Ba: Việc soạn thảo chương trình kiểm toán riêng biệt cho từng cuộc kiểm toán vẫn chưa
thực hiện được. Công ty nên xây dựng chương trình cho mỗi cuộc kiểm toán, nếu có thủ tục bổ
sung thì trình bày bằng văn bản để định hướng cho người thực hiện kiểm toán và thuận lợi cho
việc soát xét. Tuy nhiên, với khung mẫu có sẵn, chương trình kiểm toán áp dụng với mọi loại
hình khách hàng nên sẽ thiếu sự linh hoạt khi áp dụng. Kiểm toán viên cần bổ xung các thủ tục
cần thiết cho phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
Thứ hai: Những hạn chế trong giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Một: Về việc thực hiện thủ tục phân tích: Tại AASC, thông thường kiểm toán viên chỉ tiến
hành phân tích xu hướng biến động của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán, không thực
hiện thủ tục phân tích các tỷ suất tài chính. Điều này sẽ gây ra những hạn chế trong việc thực
hiện mục tiêu nói trên. Phân tích xu hướng biến động chỉ cho thấy những biến động bất thường,
nguyên nhân của biến động của từng khoản mục, chỉ tiêu mà chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa
các khoản mục đó.
Hai: Về phương pháp chọn mẫu: Ở AASC, các kiểm toán viên thường chọn mẫu theo kinh
nghiệm. Đó là phương pháp mà mẫu chọn bao gồm các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất
thường và các nghiệp vụ có số tiền lớn. Phương pháp chọn mẫu này tuy chi phí thấp nhưng lại
chứa đựng rủi ro vì chưa hẳn gian lận và sai sót đã xảy ra ở các nghiệp vụ có số tiền phát sinh
lớn. Kiểm toán viên thường ít lựa chọn các khoản mục có sai số nhỏ, tuy khó phát hiện nhưng
sai sót này lại mang tính hệ thống.
Ba: Về trình bày giấy tờ làm việc: Tại AASC, giấy tờ làm việc được thiết kế theo một
mẫu có sẵn. Trên giấy làm việc thường in sẵn các thông tin bắt buộc kiểm toán viên phải điền
vào: tên khách hàng, niên độ kế toán, khoản mục, bước công việc, tham chiếu, người thực hiện,
ngày thực hiện. Đây là những thông tin quan trọng xác định công việc mà kiểm toán viên đã
thực hiện và là cơ sở cho việc kiểm tra, soát xét, xác định trách nhiệm của người thực hiện. Tuy
nhiên, các kiểm toán viên thường không điền ngay các thông tin này khi thực hiện mà khi chuẩn
bị hồ sơ mới hoàn tất thông tin nên nhiều thông tin trên giấy tờ bị bỏ sót. Kiểm toán viên nên
điền đầy đủ thông tin ngay tại mỗi bước công việc để thuận lợi cho quá trình tổng hợp và xác

định trách nhiệm.
Khi kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên thường chỉ ghi lại những sai sót phát hiện được mà
không ghi lại công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện… Điều này có thể chấp nhận được
nếu những sai sót là nhỏ, không nghiêm trọng. Còn trong trường hợp sai sót là nghiêm trọng thì
cần phải ghi lại đầy đủ các bước công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện cùng kết quả thu
được từ bước công việc đó.
Thứ ba: Những hạn chế trong giai đoạn kết thúc kiểm toán:
Một: Về tổng hợp bút toán điều chỉnh của kiểm toán viên: Trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, KTV đã xác định được mức trọng yếu và thực hiện phân bổ mức trọng yếu cho các
bộ phận, khoản mục, từ đó tính ra sai sót có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Tuy

×