Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn tốt nghiệp hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.03 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN
TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lý học

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NCS. ThS. Đỗ Tất Thiên
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Lê Bảo Hồng
LỚP: K40.TLH.B
MSSV: K40.611.027

TP. HỒ CHÍ MINH, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN
TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học

TP. HỒ CHÍ MINH, 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các
số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung
thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng
được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Sinh viên
Nguyễn Lê Bảo Hoàng


LỜI CẢM ƠN
Xin dành lời cảm ơn trân trọng nhất đến NCS. ThS. Đỗ Tất Thiên - người đã tận
tâm hướng dẫn tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn đến tập thể Quý thầy cô, cán bộ công nhân viên đang hoạt động
ở Trường Đại học Sư phạm TP. HCM - những người đã giảng dạy và hỗ trợ tơi trong
q trình học tập và sinh hoạt trong thời gian ở trường.
Xin cảm ơn Khoa Tâm lý học - Trường Đại học Sư phạm TP. HCM đã tạo điều
kiện tốt nhất cho tơi hồn thành chương trình học.
Cảm ơn các bạn sinh viên từ Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, Đại học Kiến
trúc TP. HCM, Đại học Bách khoa TP. HCM, Đại học Ngoại ngữ - Tin học (HUFLIT)
và Đại học Công nghệ TP. HCM (HUTECH) đã giúp đỡ tôi thực hiện phần nghiên cứu
cho khóa luận.
Dù đã rất cố gắng trong q trình hồn thành luận văn song khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía thầy cơ.

Sinh viên
Nguyễn Lê Bảo Hồng



MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................................................................... 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................................................................. 2
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .................................................................................................. 2
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ................................................................. 2
5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................................................... 3
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU .............................................................................................. 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN ......................... 6
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP CỦA SINH VIÊN .............................. 6
1.1.1. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên trên thế giới ........................ 6
1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên ở Việt Nam ...................... 10
1.2. LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN................................................................. 11
1.2.1. Các vấn đề lý luận về hành vi ............................................................................... 11
1.2.2. Lý luận về hành vi lệch chuẩn ............................................................................... 14
1.2.3. Lý luận hành vi tự cô lập ....................................................................................... 21
1.2.4. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ................................................................... 25
1.2.5. Lý luận về hành vi tự cô lập của sinh viên ............................................................ 27
1.2.6. Hậu quả từ hành vi tự cô lập của sinh viên ........................................................... 30
1.2.7. Mơ hình hành vi tự cơ lập của sinh viên ............................................................... 31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................................... 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM ................................................................... 33
2.1. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HCM ........................................................................... 33
2.1.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 33
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 33
2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HCM TỪ BẢNG HỎI SÀNG LỌC BAN ĐẦU ...................... 37
2.2.1. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP.
HCM qua nghiên cứu sàng lọc ........................................................................................ 37
2.2.2. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP.
HCM sau sàng lọc ........................................................................................................... 39
2.2.3. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi tự cô lập ở sinh viên ....................... 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 67
1. KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 67
2. KIẾN NGHỊ.......................................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 70 


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

VIẾT TẮT

ĐẦY ĐỦ

1

ĐTB

Điểm trung bình

2

HVTCL


Hành vi tự cơ lập

3

SV

Sinh viên

4

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Trang

Bảng 2.1. Số lượng sinh viên khảo sát tại các trường Đại học

34

Bảng 2.2. Độ tin cậy của thang đo biểu hiện hành vi tự cô lập

36

Bảng 2.3. Cách tính điểm mức độ hành vi tự cơ lập


36

Bảng 2.4. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên

37

tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM
Bảng 2.5. Vài nét về khách thể nghiên cứu được sàng lọc

39

Bảng 2.6. Thực trạng hiểu biết của sinh viên về hành vi tự cô lập

41

Bảng 2.7. Thực trạng về thời gian thực hiện hành vi tự cô lập của sinh viên

42

Bảng 2.8. Tần số thực hiện hành vi tự cơ lập ở sinh viên

43

khi khơng có sự căng thẳng hay buồn bã
Bảng 2.9. Tần số thực hiện hành vi tự cơ lập ở sinh viên

43

khi có chuyện buồn hay gặp áp lực
Bảng 2.10. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong nhận thức của sinh viên


44

Bảng 2.11. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong xúc cảm/ thái độ của sinh viên

47

Bảng 2.12. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong hành động của sinh viên

49

Bảng 2.13. Biểu hiện hành vi tự cô lập của sinh viên

51

Bảng 2.14. Hệ số tương quan các mặt biểu hiện của

51

hành vi tự cô lập ở sinh viên chung
Bảng 2.15. Hành vi tự cô lập của sinh viên so sánh

52

theo phương diện giới tính
Bảng 2.16. Hành vi tự cơ lập của sinh viên so sánh

53

theo phương diện hệ đào tạo

Bảng 2.17. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cơ lập

53

trên phương diện học lực
Bảng 2.18. Kiểm định Tamhane trên phương diện học lực

54

Bảng 2.19. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập

56

trên phương diện điểm rèn luyện
Bảng 2.20. Kiểm định Tamhane trên phương diện điểm rèn luyện

57

Bảng 2.21. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cơ lập

58


trên phương diện xuất thân
Bảng 2.22. Kiểm định Tamhane trên phương diện xuất thân

59

Bảng 2.23. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập


61

trên phương diện kinh tế gia đình
Bảng 2.24. Kiểm định Tamhane trên phương diện kinh tế gia đình

62

Bảng 2.25. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi tự cô lập ở sinh viên

64


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đầu năm 2018, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội công bố kết quả nghiên cứu về sức khỏe tâm thần và tâm lý xã
hội của trẻ em - thanh thiếu niên Việt Nam. Theo đó, có đến 8-29% đối tượng được
nghiên cứu (11 đến 24 tuổi) gặp vấn đề sức khỏe tâm thần chung (tùy theo tỉnh thành,
giới…), và hiện có khoảng 3 triệu trẻ em, thanh thiếu niên có nhu cầu về những dịch vụ
chăm sóc sức khỏe tâm thần. Các vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến ở các em thường
ở hướng nội (lo âu, trầm cảm, cô đơn…) hoặc hướng ngoại (tăng động, giảm chú ý…).
Nghiên cứu dựa trên khảo sát 10.000 người được tiến hành sau khi có nhiều ý kiến tỏ ra
lo ngại rằng tình trạng lo sợ về cô đơn ở giới trẻ đang trở thành vấn đề lớn của xã hội.
Kết quả, người ta thấy rằng sống với ơ nhiễm khơng khí tăng tỉ lệ tử vong lên 5%, đối
với béo phì là 20%, lạm dụng rượu bia là 30%... và khi sống cô độc, con số này là 45%
[24].
Lứa tuổi đầu thanh niên (18 - 25) theo học thuyết của Erikson nằm ở giai đoạn
“Gắn bó và cơ lập”. Giai đoạn này con người tìm kiếm các mối quan hệ có sự gắn bó
lâu dài với người nào đó ngồi gia đình. Hồn thành thành cơng giai đoạn này có thể tạo
ra các mối quan hệ thoải mái và cảm giác gắn bó, an tồn, và có được tình u. Nếu

khơng có được sự u thương, con người có xu hướng tự cơ lập, vị kỷ, say mê với chính
mình [27].
Việc sống tự cơ lập không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tình thân của
bản thân, mà cịn ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội, tiêu tốn phúc lợi và thậm chí
làm trì trệ nền tài chính quốc gia. Những biểu hiện của người tự cô lập cho thấy họ
không quan tâm đến việc chăm sóc bản thân, thu mình lại với các mối quan hệ xã hội,
thậm chí ở mức độ nặng là sẽ giam mình trong nhà trong thời gian dài - đây cũng là
nguyên nhân xã hội thiếu hụt nguồn nhân lực cả về lao động lẫn tri thức. Ở Nhật Bản,
Hikikomori - một tên gọi khác của tự cơ lập do ràng buộc văn hóa - được nghiên cứu
sâu và đã có đề xuất xem đây là một chứng rối loạn tâm thần đưa vào DSM-V [15]. Điều
này cho thấy các vấn đề về hành vi lệch chuẩn ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thái
khác nhau, và từ nhiều góc độ thì “tự cơ lập” là một hành vi tuy không mới, nhưng chưa
được quan tâm và nghiên cứu đúng mực, nhất là ở Việt Nam.

1


Sinh viên là những người thuộc lứa tuổi đầu thanh niên, vừa là những người đang
mưu cầu hạnh phúc, lại là lực lượng nịng cốt góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng xã hội. Việc nghiên cứu và đánh giá mức độ, biểu hiện của các loại hành vi tự cơ
lập ở sinh viên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thay đổi các nhìn nhận đúng đắn
hơn về vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần và nâng cao các kỹ năng xã hội cần thiết.
TP. HCM là nơi có nhiều trường Đại học chất lượng cao ở khu vực phía Nam, nơi
sản sinh nguồn nhân lực tri thức đáp ứng cho nhu cầu phát triển xã hội. Trên thực tế bên
cạnh những hậu quả được nghiên cứu như hành vi nghiện, hành vi tự hủy hoại bản
thân… đến tâm sinh lý của bộ phận sinh viên, ảnh hưởng từ hành vi tự cô lập lại đang
làm sức khỏe tinh thần và lối sống của lứa tuổi năng động này mai một đi một cách âm
thầm. Việc tìm hiểu về hành vi tự cơ lập của sinh viên, không chỉ tạo nên một hướng đi
mới trong nghiên cứu ban đầu mà cịn góp phần thúc đẩy mọi người có cách nhìn nhận
đúng đắn hơn về dạng hành vi lệch chuẩn mới này - từ đó có những biện pháp chăm sóc

sức khỏe tinh thần và cải thiện lối sống, mối quan hệ xã hội, đầu tư vào nguồn nhân lực
hợp lý và hiệu quả.
Từ những cơ sở trên, đề tài “Hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại
học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hành vi tự cô lập của sinh viên tại một số trường Đại học
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số
trường đại học trên địa bàn TP. HCM.
- Phân tích thực trạng hành vi tự cô lập của sinh viên.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên đại học tại một số trường trên địa bàn TP.HCM
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Hành vi tự cô lập của sinh viên ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh.

2


5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về hành vi tự cô lập ở sinh viên thông qua biểu hiện ở các mặt
nhận thức, thái độ và hành vi.
Tìm hiểu một số nguyên nhân dẫn đến hành vi tự cô lập của sinh viên.
5.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên sinh viên tại các trường đại học như: Đại học Kiến trúc TP.
HCM; Đại học Ngoại ngữ - Tin học (HUFLIT); Đại học Sư phạm TP. HCM; Đại học
Công nghệ TP. HCM (HUTECH); Đại học Bách khoa TP. HCM.

6. Giả thuyết nghiên cứu
Biểu hiện của hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường Đại học trên địa bàn
TP. HCM ở mức trung bình, thể hiện cao nhất ở mặt thái độ và thấp nhất ở mặt hành vi.
Hành vi tự cơ lập có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa giới tính, học lực và điểm rèn
luyện của sinh viên. Một số nguyên nhân dẫ đến hành vi tự cô lập do bị lạm dụng/ bạo
hành cảm xúc (trêu chọc, đánh giá, phê bình, chế giễu, tẩy chay, chì chiết, bị cơ lập…)
hoặc khơng thích ứng được với mơi trường mới (Trường Đại học, nơi làm việc, ngoài
xã hội…).
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Quan điểm hệ thống - cấu trúc được vận dụng như là phương hướng cho tồn bộ
q trình xây dựng khung lý thuyết, xác lập khái niệm công cụ dưới dạng định nghĩa chỉ
báo cũng như xây dựng bảng hỏi theo cấu trúc đã được xác lập. Cấu trúc nhận thức, thái
độ và hành động cũng như mối quan hệ giữa 3 thành tố này được xem là 3 mặt chỉ báo
nghiên cứu xuyên suốt cho khung lý luận, thang đo và nghiên cứu thực tiễn của đề tài.

3


7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Hành vi tự cô lập của sinh viên được xem xét như một dạng hành vi được hình
thành, nảy sinh trên cơ sở thực tiễn chịu những tác động tiêu cực từ phía các mối quan
hệ trong đời sống của chủ thể. Nghiên cứu hành vi tự cô lập của sinh viên phải nghiên
cứu thông qua thực tiễn các mặt của hoạt động trong đời sống xã hội của sinh viên như
sinh hoạt, học tập và tham gia các hoạt động xã hội.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
a. Mục đích:
Xây dựng cơ sở lý luận về hành vi tự cô lập của sinh viên ở một số trường Đại học

tại TP. HCM.
b. Cách thực hiện:
+ Tập hợp các tài liệu có liên quan.
+ Phân tích tài liệu thành từng đơn vị kiến thức.
+ Khái quát thành một hệ thống lý thuyết riêng phù hợp cho đề tài.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
a. Mục đích:
+ Khảo sát tự nhận thức và nhận thức của sinh viên ở một số trường đại học trên
địa bàn TP. HCM về hành vi tự cô lập.
+ Khảo sát mức độ hành vi tự cô lập của sinh viên.
+ Đánh giá sự tác động các yếu tố hình thành nên mối quan hệ nguyên nhân - kết
quả của hành vi tự cô lập.
b. Xây dựng phiếu hỏi:
Phiếu hỏi được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và các yêu cầu cơ bản
về kỹ thuật soạn thảo cơng cụ nghiên cứu.
Tóm lại, đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính.
Các phương pháp cịn lại nhằm mục đích hỗ trợ quá trình nghiên cứu. Các phương pháp
này được sử dụng đồng bộ, phối hợp một cách hệ thống trong suốt quá trình nghiên cứu

4


7.2.3. Phương pháp thống kê tốn học
a. Mục đích:
Sử dụng phương pháp này để xử lý và phân tích các số liệu thu được từ bảng hỏi
nhằm định lượng các kết quả nghiên cứu và sử dụng như công cụ quy chiếu cho việc
xây dựng bảng phân loại mức độ hành vi tự cô lập.
b. Cách thực hiện:
+ Thống kê kết quả bảng hỏi, xử lý thơ bằng chương trình SPSS 20.0.

+ Tính tỉ lệ phần trăm, thống kê tần số, điểm trung bình, xếp hạng và crosstab.

5


CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về hành vi tự cô lập của sinh viên
1.1.1. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên trên thế giới
Tuy được nhận định là biểu hiện của trầm cảm hoặc các bệnh tâm lý khác, một
lượng đáng kể các trường hợp tự cô lập không đáp ứng các tiêu chí cho bất kỳ rối loạn
tâm thần hiện có theo chuẩn DSM-V1 hay ICD-102. Từ những hậu quả mang lại, hành
vi tự cô lập đã bắt đầu nhận được sự quan tâm từ cộng đồng Tâm lý học - Xã hội học, Y
học… trên thế giới hơn nửa thế kỷ gần đây. Các nghiên cứu chuyên sâu về hành vi này
cũng theo đó được xác lập. Có thể kể đến một số hướng nghiên cứu tiêu biểu sau:
Về lãnh vực Tâm lý học, đã có những cơng trình xuất hiện từ sớm. Tiêu biểu trong
đó là Học thuyết phát triển tâm lý của nhà tâm lý học Erik Erikson (1959). Mong muốn
gần gũi (Intimacy) và hành vi tự cô lập (Isolation) đã được mô tả trong quan điểm của
Erik Erikson về giai đoạn phát triển thứ 6 (độ tuổi 19-40) của con người. Ông tin rằng
con người đơi khi bị cơ lập vì mong muốn được gần gũi. Chúng ta sợ bị những hành
động khước từ như quay lưng, phản bộ, từ chối tình cảm hay chấm dứt mối quan hệ...
Chúng ta dần quen thuộc với nỗi đau (tinh thần) và một số người trong chúng ta từ chối
nỗi đau này bởi vì cái tơi của họ không thể chịu được. Erikson cũng cho rằng sự gần gũi
có một đối trọng, gọi tên là “Sự xa cách” (Distantiation): Sự sẵn sàng để tự cô lập và
nếu cần thiết, phá hủy các mối quan hệ hoặc con người có ý định gây ảnh hưởng, xâm
phạm, nới rộng phạm vi quan hệ của bản thân.” (1950). Trong giai đoạn này, khả năng
độc lập, tự chủ, ý chí nghị lực, tinh thần trách nhiệm của cá nhân là khá cao. Ở lứa tuổi
thanh niên này, con người có khuynh hướng tạo mối tương quan với người khác một
cách riêng tư và thân mật hơn. Nếu thất bại, con người sẽ vụng về trong giao tiếp xã hội
và khó kết thân với người khác, nhất là những người khác phái. Nếu khơng có được sự

u thương, con người có xu hướng trở nên cô lập, vị kỷ, tự say mê với chính mình. Sự
tự cơ lập qua đó có thể thấy là biểu hiện của một nhân cách không được phát triển ổn
định có thể dẫn đến các hành vi lệch chuẩn khác. Tuy nhiên, bên cạnh nguyên nhân lứa

Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders: Sổ Tay Thống Kê Và Chẩn Đoán Các Rối Loạn Tâm
Thần Rút Gọn, phiên bản thứ 5
2
 International Classification of Diseases: Phân loại quốc tế về bệnh tật 
1

6


tuổi và thất bại trong các mối quan hệ, việc mạng xã hội xuất hiện và dần kiểm soát thời
gian sinh hoạt của các cá nhân cũng là một trong những yếu tố tác động đến mong muốn
tự cô lập của bộ phận sinh viên hiện nay.
Một nghiên cứu của Đại học Rice, Mỹ trên 159 người trong độ tuổi 18-55 với
khoảng 60% nam giới về thể chất và tâm lý. Họ được nhỏ vào mũi dung dịch gây cảm
lạnh và được cách ly trong khách sạn 5 ngày. Sau khi cân nhắc các yếu tố như giới tính,
lứa tuổi… các nhà nghiên cứu xác định nguy cơ bị cảm lạnh của mọi người là tương
đương nhau. Tuy nhiên khi bị cảm lạnh thì tình trạng bệnh của họ nặng hơn rất nhiều.
Cảm giác cơ đơn khiến tình trạng bệnh nặng hơn và đối mặt với rủi ro chết sớm [24].
Năm 2015, những nhà nghiên cứu từ Đại học Bringham Young ở Utah xem xét dữ
liệu từ 3 triệu người trong 35 năm, phát hiện tằng những người sống một mình, khơng
tương tác xã hội thường xun, ít mối quan hệ có nguy cơ tử vong sớm hơn những người
khác [24].
Đài BBC ngày 11.04.2018 dẫn nghiên cứu của Cơ quan Thống kê quốc gia Anh
cho thấy tỉ lệ người trẻ cảm thấy cô đơn cao hơn hẳn so với các nhóm tuổi khác: cứ 8
người sẽ có một người cho biết họ khơng có bạn thân, 2/3 số người ở độ tuổi 16-24 đã
từng cảm thấy cô đơn trong một vài giai đoạn và 1/3 thường xuyên hoặc luôn cảm thấy

cơ độc. Tỉ lệ người trẻ 16-24 “có cảm giác cô đơn” cao gấp 63 lần so với người trên 75
tuổi [25].
Một số những nghiên cứu ở Nhật Bản từ bốn thập kỷ trở lại đây về sự tự cô lập
dưới tên gọi Hikikomori đem lại những thông tin rất đáng quan tâm. Năm 1978,
Kasahara đã mô tả một số trường hợp “loạn thần thoái lui” (withdrawal neurosis) hay
taikyaku shinkeishou. Những năm 1980, Lock cũng liệt kê những trường hợp có “hội
chứng từ chối nhà trường” (school refusal syndrome). Cả hai đều có những mơ tả tương
đồng với hành vi tự cơ lập, tuy nhiên lại có rất ít cơ sở để kiểm chứng. Hikikomori sau
đó được tiếp tục nghiên cứu vào những năm 1990 và đã bắt đầu nhận được sự quan tâm.
Nhà tâm thần học Nhật Bản Saito (1998) đã mô tả Hikikomori đầu tiên, tiếp nối là những
nghiên cứu đến từ Murakami (2000), Jones (2006)… Sau đó có sự quan tâm hỗ trợ từ
các viện Hàn lâm phương Tây ủng hộ vào việc phân tích, nghiên cứu chi tiết [15].
Trong DSM-IV có mơ tả về Rối loạn nhân cách tránh né, trong đó rối loạn thường
xuất hiện lúc bắt đầu trưởng thành trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và có ít nhất 4 trong
các biểu hiện dưới đây:

7


1. Tránh né các hoạt động xã hội nghề nghiệp phải quan hệ nhiều do sợ bị phê
bình, phản đối và chối bỏ.
2. Ngần ngại khơng bộc lộ tình cảm với người khác dù có nhu cầu được yêu thương.
3. Dè dặt ngay cả trong quan hệ thân tình vì sợ xấu hổ và làm chuyện kỳ cục
4. Trong các bối cảnh xã giao rất sợ bị phê bình và chối bỏ.
5. Trong những quan hệ mới mẻ thường ức chế vì cảm giác mình khơng được đánh
giá cao
6. Tự xem mình khơng có năng lực giao tiếp xã hội, kém thu hút và thấp kém so
với người khác
7. Rất dè dặt để tránh mọi vấn đề trong quan hệ cá nhân hoặc tránh né dấn thân
trong các hoạt động mới vì sợ rơi vào tình trạng lúng túng [13].

Các nghiên cứu chỉ ra một dải tương đối rộng các bệnh kết hợp, rối loạn nhân cách
tránh né được báo cáo có tỉ lệ cao liên kết với các bệnh thuộc nhóm rối loạn lo âu. Từ
20 đến 40% người mắc AvPD có bệnh ám ảnh sợ xã hội, đây là một con số không nhỏ.
Nhưng một số báo cáo còn cho thấy các tỉ lệ cao hơn ở các bệnh khác, chẳng hạn có đến
45% người bệnh có biểu hiện của bệnh rối loạn lo âu lan tỏa và trên 56% bệnh rối loạn
ám ảnh cưỡng chế [13]. Ngoài ra cịn có ám ảnh sợ khoảng trống, tâm thần phân liệt, rối
loạn chuyển đổi,…
Về lãnh vực Xã hội học, hành vi tự cô lập được xem là một dạng hành vi chống
xã hội - điều này đi ngược với quan điểm bản chất con người là tổng hoà các mối quan
hệ xã hội, khơng chỉ tổng hồ các mối quan hệ trong hiện taị mà cả trong quá khứ. Trong
những năm 1960, các nhà nghiên cứu Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu để xác định những lối
sống ảnh hưởng đến tuổi thọ của các nền văn hoá và bộ lạc bản địa, ở các vùng sâu vùng
xa trên thế giới - những người vẫn chưa bị ảnh hưởng bởi cơng nghiệp hóa, số hóa... Các
nhà khoa học như Alexander Leaf thuộc Trường Y Harvard, René Dubos thuộc Đại học
Rockefeller phát hiện ra rằng các liên kết tình cảm mạnh mẽ, sự gần gũi trong một cộng
đồng dường như bảo vệ con người khỏi bệnh tật và giúp họ sống lâu hơn [26].
Trong vòng 20 năm trở lại đây, đã có nhiều hơn sự quan tâm về sự cơ lập của con
người mà nghiên cứu của các nhà Tâm lý học, Xã hội học ở đại học Duke là một trong
số đó. Nghiên cứu cho biết có đến 25% người Mỹ đã khơng có tương tác xã hội nào có
ý nghĩa với người họ tin tưởng, quá nửa số đó cho biết họ khơng có bạn thân hay người
gần gũi trong gia đình. Cũng theo Robert Putnam, nhà xã hội học và là tác giả cuốn

8


Bowling Alone, cho biết cứ mỗi 10 phút trôi qua, lại có thêm 10% các mối quan hệ xã
hội mất đi [22].
Về lãnh vực Y học, không chỉ tác động tiêu cực về mặt tâm lý, hành vi tự cô lập
còn mang lại những hậu quả về mặt sinh học. Nghiên cứu vào tháng 11 năm 2015, Kiến
trúc khác biệt về di truyền học của di truyền giả dược bạch cầu trong nhận thức cách

ly xã hội, xuất hiện trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia [14]. Nghiên
cứu này làm sáng tỏ sự cô đơn và nhận thức về cô lập xã hội gây ra những thay đổi sinh
lý có thể làm cho ai đó bị bệnh hoặc chết sớm. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu nhận
thấy rằng đối với người lớn tuổi, sự cô lập xã hội có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm
lên 14%.
Luận văn năm 1959 của Fromm-Reichmann về Tính cô độc khiến các nhà phân
tâm học nghiên cứu thêm về sinh học về các tế bào và dây thần kinh. Họ khẳng định
rằng cô đơn cũng liên kết với các loại bệnh tật như các bệnh tâm lý khác. Sự cơ đơn gửi
tín hiệu hormone gây hiểu nhầm, ảnh hưởng lên sự sao chép gene điều khiển hành vi và
dần chiếm lấy toàn bộ hệ thống gene cùng tế bào thần kinh. Khi con người ở những tình
huống dễ bị tổn thương, hệ thống phản ứng căng thẳng sẽ được đẩy lên trạng thái báo
động, tim đập nhanh, cortisol tràn ngập cơ thể, các mô sưng lên, bạch cầu được tiết ra
nhiều để giảm cơn đau. Lượng norepinephrine (chất tương tự adrenaline, có thể thu hẹp
các mạch máu và tăng lượng đường trong máu) ở người cô đơn cao hơn so với người
bình thường. Norepinephrine kích động các tế bào gốc trong tủy xương, từ đó sản xuất
nhiều hơn một loại tế bào miễn dịch đặc biệt gọi là bạch cầu đơn nhân. Tình trạng này
diễn ra trong thời gian dài khiến huyết áp tăng lên, hệ thống miễn dịch yếu đi, sụt giảm
bạch cầu… từ đó con người dễ bị bệnh, làm trầm trọng bệnh hơn, về lâu dài, nguy cơ hệ
miễn dịch suy yếu là không thể tránh khỏi thậm chí dẫn đến tử vong [19]. Từ đó có thể
thấy “đại dịch cơ đơn” có nguy hại chẳng kém HIV/AIDS.
Từ những cơng trình đã nêu cho thấy các nhà nghiên cứu, các nhà Tâm lý học, Xã
hội học và Y học… trên thế giới đã bắt đầu có sự quan tâm trong việc phân chia sự cơ
đơn, sự cô lập, tự kỉ… thành những khái niệm tách bạch - được đánh giá dựa trên thiệt
hại về tâm-sinh lý; thậm chí từ mặt lợi ích kinh tế xã hội đến ảnh hưởng lên một nền văn
hóa trong thời đại công nghệ số hiện đại. Tuy nhiên với những kết quả hầu hết được
nghiên cứu trên người lớn tuổi - trong khi nguồn nhân lực chủ yếu tập trung ở người trẻ,
nhất là độ tuổi sinh viên lại chưa được quan tâm. Việc sinh viên khơng có những cơ hội

9



giao lưu và tiếp xúc cũng ảnh hưởng khá nhiều đến kĩ năng sống cũng như dễ dẫn đến
những triệu chứng rối nhiễu tinh thần. Mặt khác, điều này cũng ảnh hưởng quan trọng
đến nhân cách của cá nhân. Những cơ sở trên cho thấy sự tự cô lập ở sinh viên vẫn đang
là một vấn đề mang tính thách thức chưa được nhìn nhận đúng mực.
1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên ở Việt Nam
Hiện nay các cơng trình nghiên cứu trực tiếp đến hành vi tự cô lập của sinh viên ở
Việt Nam và cịn rất hiếm hoi. Có thể điểm qua một số nghiên cứu có liên quan gần đến
đề tài như sau:
Một số nghiên cứu về hành vi tự cô lập
Các nghiên cứu ở Việt Nam xem sự cô đơn và tự cô lập như là biểu hiện của trầm
cảm, bị bạo lực từ nhỏ, thay đổi môi trường sống, xâm hại tình dục… là những rối nhiễu
tâm lý dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Những người trầm cảm có mạng lưới giao tiếp xã
hội thưa thớt và coi chúng như là nguồn nâng đỡ. Sự nâng đỡ xã hội giảm sút có thể làm
yếu đi năng lực của cá nhân trong việc phản ứng với những sự kiện tiêu cực trong cuộc
sống, và làm cho cá nhân dễ cảm ứng với trầm cảm [3]. Người bệnh trầm cảm thường
ngủ không yên, ngủ không sâu, hay mộng mị. Họ thường trong trạng thái chán nản, bi
quan, thường bỏ dở nửa chừng và thấy việc gì cũng khó. Tội lỗi, mặc cảm thua kém,
khiến người bệnh thu mình lại, khơng muốn tiếp xúc với xung quanh. Điều này làm bệnh
ngày càng nặng thêm [25].
Một số nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn
Các nghiên cứu, chẩn đoán và điều chỉnh hành vi lệch chuẩn ở thanh, thiếu niên
Việt Nam tuy còn mới nhưng ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà Tâm lý
học, Giáo dục học, Y học. Tuy phần lớn các nghiên cứu được thực hiện ờ khu vực Hà
Nội, TP. HCM nhưng các tác giả đều nhận thức được tầm ảnh hưởng của các rối loạn
tâm lý, hành vi đến sự hình thành và hồn thiện nhân cách của thanh thiếu niên Việt
Nam (cụ thể là lứa tuổi sinh viên). Các biểu hiện “Tự nhốt mình trong nhà”, “Lao vào
một trị chơi nào đó” [12]… trong nghiên cứu “Rối loạn lo âu của sinh viên một số
trường sư phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh” phần nào cho thấy tự cơ lập - tự thu
mình chỉ được xem là một trong những biểu hiện của các rối loạn tâm thần đang được

nghiên cứu…

10


Những nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn và hành vi tự hủy hoại chưa được quan
tâm nhiều trong giai đoạn những năm 90 trở về trước. Vì Tâm lý học phát triển mạnh
trong lãnh vực sư phạm, giáo dục, những nghiên cứu về hành vi tự hủy hoại bản thân
bắt đầu phát triển từ những năm 1980 trở đi và nổi rõ là những năm 1995 trở về sau.
Những thuật ngữ như “hành vi lệch chuẩn”, “hành vi tự hủy hoại bản thân” hay “hành
vi tự cơ lập” cịn khá mới ở Việt Nam, thậm chí một số nhà giáo dục có biểu hiện tránh
né khi đề cập đến.
Người có cơng lao lớn trong việc nghiên cứu, phổ biến thực trạng, nguyên nhân và
tác hại của các loại hành vi lệch chuẩn ở Việt Nam là cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Năm
1996, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã làm chủ nhiệm đề tài cấp Quốc gia: “Bước đầu nhận
dạng và phân loại những biểu hiện tâm bệnh lý thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên
trong giai đoạn hiện nay” được Hội đồng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đánh
giá, xếp loại xuất sắc và nghiệm thu ngày 12.01.1997. Đây không phải là nghiên cứu
chuyên biệt về hành vi lệch chuẩn, hành vi tự hủy hoại hay hành vi tự cô lập nhưng là
một trong những nghiên cứu làm cho mối quan tâm đến vấn đề này trở nên phổ biến.
Một số biểu hiện “Bỏ bê bản thân mình”; “Nghĩ mình khơng có giá trị với mọi người
xung quanh” [2]… thể hiện cái tôi thấp - một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến
hình thành hành vi tự cơ lập.
Nhìn chung các nghiên cứu trong và ngồi nước nước vẫn chưa có cái nhìn quan
tâm đáng kể về hành vi tự cô lập so với nghiên cứu trên thế giới. Các khái niệm, biểu
hiện của hành vi tự cơ lập vẫn cịn bị đánh đồng với những căn bệnh phổ biến như trầm
cảm, rối loạn tránh né… Việc xem xét hành vi tự cô lập như một chỉnh thể độc lập địi
hỏi phải có sự phân biệt rõ ràng với các biểu hiện giống nhau tránh gây nhầm lẫn. Nghiên
cứu thực trạng trên sinh viên - lứa tuổi mà học tập thường được xem là hoạt động chủ
đạo của sinh viên để chuẩn bị hành trang về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp,

giúp họ sẵn sàng bước vào môi trường lao động nghề nghiệp trong tương lai tuy nhiều,
nhưng vẫn chưa có những nghiên cứu cụ thể về các vấn đề sức khỏe tinh thần cho sinh
viên. Vì vậy, việc nghiên cứu hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên
địa bàn TP. HCM là hoàn toàn cần thiết.
1.2. Lý luận về hành vi tự cô lập ở sinh viên
1.2.1. Các vấn đề lý luận về hành vi

11


a. Định nghĩa hành vi
Theo cách hiểu thông thường: Hành vi là một chuỗi các hành động lặp đi lặp lại,
có thể thuộc về ý thức, tiềm thức, cơng khai hay kín đáo, tự giác hoặc khơng tự giác.
Hành vi có thể thay đổi qua thời gian [17].
Theo từ điển Tiếng Việt của Hồng Phê chủ biên thì “Hành vi là tồn bộ nói chung
những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ
thể nhất định”. Ở đây đề cập đến hoàn cảnh của sự xuất hiện hành vi (tức là những tác
động bên ngoài chủ thể) và hành vi ở đây phải là những hành xử người khác có thể quan
sát được [21].
Trong Tâm lý học xã hội thì hành vi được quan niệm như “Hành động hay ý định
hành động mà cá nhân sẽ ứng xử với đối tượng”. Khi nói đến hành vi người, chúng ta
hiểu đó “là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm
lý bên trong của chủ thể” [22].
Bên cạnh đó, các nhà tâm lý học trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra
quan điểm về khái niệm hành vi có nét tương đồng nhau:
X.L. Rubinstein: “Hành vi là kết quả của hành động tích cực của chủ thể đối với
các đối tượng chủ thể gặp trong một hồn cảnh nào đó”. Hành vi con người khơng cịn
đơn thuần là hành vi phản ứng mà thành hành vi tích cực [8].
Theo A.N. Leonchiev, hành vi khơng phải là những phản ứng máy móc của một
cơ thể sinh vật, mà hành vi phải được hiểu là hoạt động [7].

Theo Hersey và Hard, đơn vị cơ sở của hành vi là một hành động. Toàn bộ hành
vi là một chuỗi hành động [19].
Trong nước, cũng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này như:
Tác giả Vũ Dũng, cho rằng hành vi là “Sự tác động qua lại giữa cơ thể sống với
môi trường xung quanh, do tính tích cực bên ngồi (kích thích) và bên trong (nhu cầu)
thúc đẩy. Sự độc đáo của hành vi cá nhân phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ
tương hỗ trong nhóm, thái độ của cá nhân đối với những chuẩn mực, định hướng giá trị
và vị thế xã hội mà người đó đảm nhiệm [15].
Tác giả Dương Thiệu Tống thì lại cho rằng: “Hành vi là những biểu hiện bên ngoài
của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể” [2].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt
động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích. Ơng cho rằng: nếu vận dụng cấu

12


trúc vĩ mô của hoạt động của A.N.Leonchiev vào nghiên cứu thế giới tâm lý người ở
các cấp bậc: thao tác (tương ứng với các điều kiện và phương tiện), hành động (tương
ứng với mục đích cụ thể) và hoạt động (tương ứng với mục đích chung, cịn gọi là động
cơ); hay nói ngắn gọn hơn: một là cấp bậc tổ hợp các cử động của cơ thể, hai là cấp bậc
hoạt động với đơn vị là hành động, thì Tâm lý học hoạt động nghiên cứu thế giới tâm lý
ở cấp bậc thứ hai, tức là ở cấp hoạt động - hoạt động ln địi hỏi phải có phản ánh tâm
lý. Trong trường hợp này, hành vi như là tổ hợp các cử động, thao tác, chỉ là mặt bề
ngoài của hoạt động. Tuy nhiên, hành vi ở đây rất khác so với các cử động, thao tác đơn
thuần mang tính vật lý hay sinh lý của thuyết hành vi cổ điển, vì “ẩn sau” hành vi ấy là
cả một thế giới tâm lý sinh động và vô cùng phức tạp của con người. Quan điểm này
cho thấy một luận điểm khá rõ ràng và cụ thể về mặt hành vi mang chất tâm lý của con
người. Luận điểm này tác giả khá tán đồng và sử dụng như quan điểm phù hợp trong
nghiên cứu này [8].
Như vậy, dựa trên những quan niệm khác nhau về hành vi, đề tài quan niệm rằng:

Hành vi là một chuỗi các hành động lặp đi lặp lại, biểu hiện thống nhất giữa hình
thức bên ngồi và nội dung tâm lý bên trong. Hành vi thể hiện đời sống tâm lý và
được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của nhân cách.
b. Phân loại hành vi
Trong Tâm lý học, có nhiều cách phân loại hành vi khác nhau:
- Xét theo khía cạnh giá trị, hành vi được phân chia như sau: [10].
+ Hành vi tiêu cực: Hành vi tiêu cực của chủ thể xuất hiện trong các hành động
đối lập với những nhu cầu của cá nhân hoặc các nhóm xã hội khác. Hành vi tiêu cực có
thể là phản ứng theo tình huống, hoặc là đặc điểm cá nhân xuất hiện do nhu cầu của chủ
thể nhằm tự khẳng định bản thân, nhằm bảo vệ “cái tơi” của mình. Hành vi tiêu cực cịn
là kết quả của tính ích kỉ, thờ ơ với lợi ích và nhu cầu của người khác. Cơ sở tâm lý của
hành vi tiêu cực là tâm thế xuất hiện do chủ thể khơng đồng tình, phủ nhận những đòi
hỏi, những mong đợi của các thành viên trong các nhóm xã hội. Hành vi tiêu cực xuất
hiện cũng do sự chối bỏ hoặc chống lại các quan hệ vốn đã hình thành trong tập thể.
+ Hành vi tích cực: Hành vi tích cực là hành vi chủ thể có thể làm được và mong
muốn làm điều đó, tuy nhiên nó phải đáp ứng được sự mong đợi của người khác. Để
tiến hành hành vi tích cực thì chủ thể phải có nhận thức đúng đắn, có tâm thế sẵn sàng,
thái độ tích cực và có ý chí để thực hiện.

13


- Nếu căn cứ vào phạm vi tác động của hành vi thì có ba kiểu hay ba nhóm hành
vi sau đây: [10].
Hành vi hướng vào chính mình: Hành vi hướng vào chính mình là những hành vi
ảnh hưởng trực tiếp lên chính chủ thể.
Hành vi hướng đến người khác: Hành vi hướng đến người khác những hành vi ảnh
hưởng trực tiếp đến những mối quan hệ xung quanh, thông qua đó tác động trở lại với
chính chủ thể.
Hành vi hướng đến sự vật, hiện tượng: Hành vi hướng đến sự vật, hiện tượng là

những hành vi tác động và ảnh hưởng trực tiếp lên các sự vật và hiện tượng và những
hành vi tác động này sẽ ảnh hưởng đến chính chủ thể gây ra hành vi.
- Nếu xem xét theo chuẩn mực hành vi: [6].
Hành vi hợp chuẩn: Hành vi hợp chuẩn là hành vi phù hợp với chuẩn mực của một
nhóm, một cộng đồng xã hội; những hành vi mà mọi người mong đợi từ một thành viên
nào đó.
Hành vi lệch chuẩn: Hành vi lệch chuẩn là những hành vi không đáp ứng được sự
mong đợi của một nhóm người nào đó, nó lệch với chuẩn mực của một nhóm, một cộng
đồng.
- Nếu căn cứ vào tính chất của hành vi: [10].
Hành vi công khai: Hành vi công khai là hành vi được chủ thể tiến hành trong một
môi trường cụ thể, trước sự quan sát và chứng kiến của người khác.
Hành vi che giấu: Hành vi che giấu là hành vi được chủ thể thực hiện nhằm khơng
cho người khác chứng kiến.
Tóm lại, cách phân loại hành vi tùy thuộc vào quan điểm, hoàn cảnh cụ thể. Trong
đề tài này, dựa trên quan điểm về hành vi đã xác lập cũng như định hướng nghiên cứu
về cô đơn và hành vi tự cô lập, chúng tôi sẽ xem xét hành vi tự cô lập theo chuẩn mực
hành vi. Theo cách xem xét này, hành vi tự cơ lập là hành vi lệch chuẩn. Nhằm có góc
nhìn rõ hơn về hành vi tự cô lập bản thân, đề tài sẽ tiếp cận hành vi tự cô lập trên cơ sở
lý luận hành vi lệch chuẩn.
1.2.2. Lý luận về hành vi lệch chuẩn
a. Định nghĩa hành vi lệch chuẩn

14


Trong Tâm lý học hiện đại, con người là chủ thể tích cực của hoạt động, họ làm
chủ bản thân và làm chủ môi trường chứ không phải chỉ là một cá thể thích nghi một
cách thụ động với mơi trường. Những hành vi của con người bao giờ cũng hướng tới
những mục tiêu nhất định, hành vi con người luôn luôn được thay đổi, phát triển chứ

không phải bất biến. Hành vi của con người là những hành vi tích cực để thoả mãn nhu
cầu ngày càng cao và có tính chất xã hội rõ ràng. Hành vi của con người bị chi phối, ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố, vì vậy xem xét chuẩn mực hành vi phải xem xét hành vi của
con người trong một môi trường nào đó, trong một cộng đồng người nhất định.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Hành vi lệch chuẩn là tồn bộ
hành vi có tính chất chống đối xã hội, xâm phạm hay khiêu khích được lặp lại và kéo
dài. Một hành vi như vậy trong hình thái cực độ sẽ đưa đối tượng đến chỗ vi phạm các
quy tắc xã hội chủ yếu tương ứng với lứa tuổi của trẻ, điều này vượt quá hành vi ranh
mãnh thông thường và các thái độ nổi loạn của thanh thiếu niên [18].
Trong cuốn DSM - IV “Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm thần”,
Bảng phân loại bệnh của Hoa Kỳ do bác sỹ Nguyễn Văn Xiêm dịch đã đưa ra định nghĩa
về hành vi lệch chuẩn như sau: Hành vi lệch chuẩn là kiểu hành vi lặp đi lặp lại và kéo
dài trong đó các quyền cơ bản của người khác hay các chuẩn mực xã hội hoặc luật lệ
lớn phù hợp với lứa tuổi bị vi phạm [13].
Tác giả V.A.Giliarovxki cho rằng: thực chất hành vi lệch chuẩn ở trẻ em là ở chỗ
khả năng của nhân cách không tương xứng với những yêu cầu xuất phát từ những mối
quan hệ xã hội nhất định [1].
Giáo sư Debray - Rizen thuộc trường Đại học Y khoa Paris đã định nghĩa: Hành
vi lệch chuẩn là những hành vi không phù hợp với chuẩn mực, mà biểu hiện của hành
vi đó nếu thường xuyên xảy ra sẽ thực sự ảnh hưởng xấu đến sự thích nghi của mỗi cá
nhân [17].
Theo Nguyễn Thị Ánh Tuyết vào năm 2013, hành vi lệch chuẩn là “hành vi không
phù hợp với những giá trị chân, thiện, mỹ, trong đó giáo dục đạo đức là cốt lõi. Sự lệch
chuẩn này thay đổi còn tùy theo lứa tuổi. Ở trẻ em, hành vi văn hóa đang được hình
thành, đó là những hành vi được coi là chuẩn mực vì đáp ứng với mục tiêu giáo dục cho
từng giai đoạn phát triển và được tăng dần theo hướng chân thiện mỹ theo từng độ tuổi.
Giáo dục được coi là yếu tố chủ đạo đối với sự phát triển hành vi của trẻ, bảo đảm cho

15



sự hình thành những hành vi văn hóa, đồng thời giúp trẻ loại bỏ những hành vi lệch
chuẩn” [4].
Như vậy, trong hành vi lệch chuẩn bao hàm hai mức độ về mặt tâm lý:
Một là, ở mức độ thấp và chỉ có ở một số hành vi. Cá nhân có những hành vi khơng
bình thường nhưng khơng ảnh hưởng đến hoạt động chung của cộng đồng, đến đời sống
cá nhân và gia đình họ. Mọi người xung quanh vẫn có thể chấp nhận, tuy nhiên không
thoải mái.
Hai là, ở mức độ cao và ở hầu hết các hành vi của cá nhân, từ hành vi trong sinh
hoạt đến hành vi lao động sản xuất, học tập, vui chơi. Những hành vi lệch chuẩn này
ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống cá nhân vì vậy cần được chẩn đốn và chữa trị.
Từ việc xem xét các quan niệm khác nhau về hành vi lệch chuẩn ở trên, đề tài quan
niệm rằng: Hành vi lệch chuẩn là một hiện tượng xã hội không phù hợp với chuẩn
mực, ảnh hưởng xấu đến sự thích nghi của mỗi cá nhân và ảnh hưởng đến đời sống
cá nhân, gia đình và hoạt động chung của cộng đồng.
b. Những cơ sở xét đoán hành vi lệch chuẩn
Việc chẩn đoán và phân loại hành vi lệch chuẩn đem lại lợi ích cho việc nghiên
cứu và điều chỉnh hành vi, song q trình này lại có thể đem lại những hậu quả tiêu cực.
Vì vậy, khi xem xét, đánh giá, chẩn đoán hành vi của một người nào đó là bất thường,
lệch chuẩn hay khơng, địi hỏi các nhà Tâm thần học, Tâm lý học phải dựa trên những
tiêu chuẩn hay những chuẩn mực nhất định.
Trên thực tế, những tiêu chuẩn được các nhà Tâm lý và các bác sỹ tâm thần vận
dụng để đưa ra những quyết định chẩn đoán cũng ảnh hưởng đến những xét đoán của
ngành pháp lý, ngành bảo hiểm và ngành kinh doanh chăm sóc sức khoẻ. Vì vậy việc
xét đốn hành vi của người nào đó là bất bình thường hay khơng là vấn đề hết sức quan
trọng.
Theo cách định nghĩa trong từ điển, hành vi bất thường là hành vi khác với “tiêu
chuẩn” (chuẩn mực).
Có ít nhất ba khái niệm về chuẩn mực hành vi: [5].
- Chuẩn mực xét về mặt thống kê: xem bất bình thường, những lệch lạc là nghiêm

trọng (về chiều kích này hay chiều kích khác) so với mức trung bình. Trên cơ sở tiếp
thu những quy định chung thành văn hoặc không thành văn của cộng đồng, đại đa số
các thành viên trong cộng đồng có hành vi tương tự như nhau trong một hoàn cảnh xác

16


định nào đó thì hành vi đó được coi là hợp chuẩn. Những hành vi nào đối lập lại được
coi là hành vi lệch chuẩn. Nói cách khác, hành vi bất thường là hành vi khác thường.
- Chuẩn mực hướng dẫn hay quy ước do cộng đồng hay xã hội đề ra: loại chuẩn
mực này được đưa ra trên cơ sở những yêu cầu chung của cộng đồng với từng thành
viên. Hành vi của cá nhân được so với những luật lệ về đạo đức hoặc xã hội của một
nhóm. Những hành vi nào khác với hướng dẫn, quy định thì những hành vi đó được coi
là khơng bình thường.
- Chuẩn mực chức năng: loại chuẩn mực này được xác định ở mỗi cá nhân. Một
hành vi được xem là hợp chuẩn khi hành vi đó phù hợp với mục đích do cá nhân đặt ra
cịn những hành vi khơng phù hợp với mục đích của cá nhân đề ra gọi là hành vi lệch
chuẩn (với cá nhân).
Hay có một cách khác phân chia chuẩn mực thành chuẩn mực xã hội và chuẩn mực
cá nhân. Chuẩn mực xã hội là những yêu cầu chung của cộng đồng với từng thành viên,
những luật lệ về đạo đức hoặc xã hội của một nhóm. Thơng qua hoạt động của mình,
mỗi cá nhân tiếp thu, chọn lọc biến những chuẩn mực xã hội thành chuẩn mực riêng của
bản thân (chuẩn mực cá nhân). Như vậy, chuẩn mực cá nhân được xác định bởi mỗi cá
nhân, được mỗi cá nhân hướng tới trong từng hành động.
Tuy nhiên, một số nhà Tâm lý học cho rằng việc quyết định một hành vi cụ thể có
phải là “lập dị” hoặc “bình thường” hay khơng là phải xét đến không gian sống, mà cụ
thể ở đây là mơi trường xã hội, mơi trường văn hố. Vì thực tế, một hành vi này của cá
nhân có thể là bình thường trong nền văn hố này nhưng lại là bất thường, không thể
chấp nhận được ở một nền văn hố khác. Theo Rosenhan và Seligman vào năm 1984,
có bảy thuộc tính có thể áp dụng để quyết định liệu một cá nhân hay hành vi có phải là

bất thường hay không: [21].
- Thứ nhất là đau khổ: liệu cá nhân có đau khổ hay khó chịu khi hành vi đó đang
diễn ra trong đời sống hay khơng.
- Thứ hai là tính thích nghi kém: liệu cá nhân có kiểu mẫu hành vi hay suy nghĩ
nào làm cho cuộc sống của họ khó khăn hơn, hơn là hỗ trợ họ.
- Thứ ba là tính phi lý: nếu cá nhân khơng thể lĩnh hội hay không thể truyền đạt
với người khác theo cách có lập luận.

17


×