Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Đặc khu kinh tế của Trung Quốc - Đoàn Thị Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.99 KB, 93 trang )

lời nói đầu
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình cải cách kinh tế sâu rộng ở
hầu hết các nớc XHCN. Việc chuyển sang các quan hệ thị trờng ở những nớc này
đã đợc xác định và tiến hành. Mỗi nớc đều tiến hành những biện pháp cải cách
mang sắc thái riêng phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và địa lí của mình
nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN đích thực. Mặc dù có
nhiều khó khăn nhng một số nớc đã đạt đợc những thành công nhất định trong
các lĩnh vực phát triển kinh tế khác nhau nh quản lý kinh tế, quan hệ sở hữu, t
nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc
Không phải ngẫu nhiên mà giới khoa học kinh tế rất quan tâm đến cái gọi
là con đờng Trung Quốc (China s road). Quả thật Trung Quốc có sức hấp dẫn
đặc biệt với những nớc định hớng XHCN. ở đây ngời ta thấy cùng hoàn cảnh
xuất phát điểm t duy kinh tế mới và tính chân lý của nó sau một thời gian cải
cách và mở cửa nền kinh tế. Những thành công của Trung Quốc về cải cách kinh
tế nói chung và các đặc khu kinh tế (ĐKKT) nói riêng đã đợc thừa nhận rộng rãi
ở bên trong cũng nh bên ngoài nớc này. Sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc
và sự phát triển thần kỳ của các ĐKKT đợc coi là một hiện tợng nổi bật của kinh
tế thế giới cuối thế kỷ XX. ĐKKT một loại hình khu kinh tế tự do mang tính
chất tổng hợp đợc tổ chức theo hình thức cao nhất, đầy đủ nhất về khu kinh tế tự
do ngày càng thể hiện rõ u thế của mình trong thu hút đầu t nớc ngoài, là nơi
hội tụ tốt nhất các yếu tố bên trong và các nguồn lực bên ngoài, là giải pháp về
vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý để công nghiệp hoá- hiên đại hoá (CNH-
HĐH) đất nớc. Đẩy mạnh cải cách và phát triển mô hình kinh tế hớng ra bên
ngoài với biện pháp xây dựng các ĐKKT theo mô hình của Trung Quốc đang là
một trong những vấn đề đợc nhiều nớc quan tâm nghiên cứu thực hiện.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để đạt
đợc các chỉ tiêu kinh tế chung của các nớc trong khu vực và trên thế giới, Việt
Nam cần mở cửa hơn nữa, đẩy mạnh hơn nữa CNH-HĐH hớng về xuất khẩu.
Để CNH-HĐH đất nớc hớng về xuất khẩu cần một lợng vốn đầu t rất lớn nhng
1
khả năng của Việt Nam chỉ tự đáp ứng đợc một phần trong khi hỗ trợ phát triển


chính thức và tài trợ của các tổ chức quốc tế đều có hạn, vì vậy chúng ta cần có
những hình thức thích hợp hơn để thu hút đầu t phát triển kinh tế, đúng nh Đại
hội VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra :"đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh tế đối ngoại, có chính sách thu hút t bản nớc ngoài đầu t vào nớc
ta, trớc hết là vào lĩnh vực sản xuất dới nhiều hình thức". Vào đầu năm 1990,
Việt Nam đã thành lập một loạt các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất
(KCX) trong cả nớc song đến nay chỉ có rất ít khu thu hút đợc một số nhà đầu t
nớc ngoài và bắt đầu đi vào hoạt động. Số còn lại đang nằm trong thời gian chờ
đợi, gây lãng phí về thời gian và tiền của. Do vậy, chúng ta cha đạt đợc mục tiêu
đề ra trong việc thành lập KCN và KCX. Là một nớc lân cận với nhiều nét tơng
đồng về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, những
kinh nghiệm mở cửa và phát triển kinh tế của Trung Quốc sẽ là những bài học
bổ ích cho Việt Nam. Kinh nghiệm về các ĐKKT cũng không phải là ngoại lệ.
Mới đây Việt Nam đã thành lập ĐKKT đầu tiên với tên gọi khu kinh tế mở Chu
Lai, đây là một mô hình khu kinh tế tự do rất thích hợp với Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu về ĐKKT là rất cần thiết cho việc chuẩn
bị, xúc tiến hình thành và điều hành quản lý ĐKKT ở Việt Nam.
Vào cuối những năm 1980 khi Việt Nam bắt đầu cải cách và mở cửa nền
kinh tế, một số công trình nghiên cứu về khu kinh tế tự do đã đợc phổ biến trong
đó có một phần nhỏ nói đến các ĐKKT của Trung Quốc. Năm 1989, Viện Kinh
tế đối ngoại đã xuất bản cuốn Các khu chế xuất châu á" nghiên cứu về vai trò
của các công ty xuyên quốc gia tại các KCX châu á và giới thiệu về ĐKKT
Thâm Quyến.
Sang những năm 1990, thành công của các ĐKKT Trung Quốc đã chứng
minh chủ trơng thành lập các ĐKKT của Trung Quốc là đúng đắn, Việt Nam đã
quan tâm hơn tới mô hình này và có chủ trơng thành lập ĐKKT tại Việt Nam
thì đã có một số công trình nghiên cứu về ĐKKT. Năm 1994, Viện Kinh tế học
đã xuất bản cuốn "Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCX và ĐKKT". Đây là tài
2
liệu giới thiệu về các chính sách, luật, các u đãi áp dụng trong các ĐKKT Trung

Quốc trớc năm 1993. Ngoài ra còn có Tài liệu về khu kinh tế tự do của Viện
Nghiên cứu tài chính Bộ Tài chính; Đặc khu kinh tế của Trung Quốc của
Viện Nghiên cứu quản lý Trung ơng; Báo cáo khảo sát ĐKKT Thâm Quyến của
đoàn cán bộ khảo sát của Bộ Tài chính, một số bài viết trên các tạp chí liên
quan đến đề tài. Những tài liệu này đã đa ra đợc số liệu về các ĐKKT, vai trò
của chúng cũng nh một số ý kiến về việc áp dụng loại hình này ở Việt Nam . Tuy
nhiên, các tài liệu kể trên đã không nghiên cứu một cách có hệ thống thành công
của các ĐKKT Trung Quốc, nguyên nhân của thành công và rút ra kinh nghiệm
áp dụng cho Việt Nam. Vì vậy đây là một vấn đề cần đợc nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của khoá luận:
- Nghiên cứu quá trình ra đời và phát triển của ĐKKT, đặc điểm và u thế
của chúng so với các khu kinh tế tự do khác;
- Tìm hiểu những kết quả mà các ĐKKT Trung Quốc đạt đợc;
- Rút ra kinh nghiệm xây dựng và phát triển ĐKKT của Trung Quốc áp
dụng cho Việt Nam.
Một số số liệu đa ra trong khoá luận cha đợc cập nhật vì rất hiếm dữ liệu
về các ĐKKT của Trung Quốc. Mặt khác, vai trò cửa sổ của các ĐKKT đ ợc
xem nh đã hoàn thành sứ mệnh. Trung Quốc đã đang giảm dần các u đãi thô sơ
ban đầu với các nhà đầu t nớc ngoài, tiến tới cân bằng giữa trong và ngoài đặc
khu và cải thiện hơn nữa môi trờng đầu t. Có thể nói ngày nay Trung Quốc
không còn dùng cửa sổ để giao l u với nớc ngoài nữa mà trên thực tế cả Trung
Quốc rộng lớn đang hành động. Vì vậy các số liệu về các ĐKKT Trung Quốc chỉ
nhằm chứng minh về sự phát triển vợt bậc của các ĐKKT trong một thời gian
ngắn sau khi thành lập và thành công ban đầu của chúng, qua đó rút ra kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Để đạt đợc mục đích nghiên cứu, khóa luận sẽ sử dụng phơng pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để nghiên cứu.
3
Bố cục của khoá luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận đợc kết
cấu thành 3 chơng:

chơng i: khái quát chung về đặc khu kinh tế
chơng ii: thành công của Trung Quốc trong thành
lập các đặc khu kinh tế
chơng iii: bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt tới GS-TS Bùi Xuân Lu đã tận tình h-
ớng dẫn em hoàn thành khoá luận. Con xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia
đình đã tạo điều kiện về thời gian, động viên khích lệ và giúp đỡ con thực hiện
khoá luận này.
4
Chơng I
khái quát chung về đặc khu kinh tế
I. Sự hình thành và phát triển của ĐKKT
1. Sự ra đời của khu kinh tế tự do
Kinh tế là một hệ thống mở, bất cứ một thực thể kinh tế nào cũng phải cần
đến sự trao đổi với môi trờng bên ngoài để tồn tại và phát triển, nếu không nó sẽ đi
vào tàn lụi và diệt vong. Điều này từ nhiều thế kỷ trớc ngời ta đã biết. Nhng có lẽ
vì những lý do phi kinh tế mà nhiều quốc gia không thể hoặc không muốn tuân
theo quy luật này một cách tự nhiên. Do đó, ngời ta chỉ có thể mở một cách hạn
chế với các đối tợng, lĩnh vực trong những thời gian hạn chế mà thôi.
Để giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu của một nền kinh tế mở và sự
hạn chế cần thiết theo tình hình của một quốc gia, ngời ta thiết lập các mô hình
khu kinh tế tự do trên một diện tích nhỏ phù hợp của một nớc để thực hiện những
chính sách đặc biệt làm thí điểm. Đó là một mô hình, một công cụ của chính sách
kinh tế đối ngoại, một cửa ngõ mời chào và u đãi doanh nhân nớc ngoài đến đây
đầu t, sản xuất kinh doanh. Qua đó nớc chủ nhà sẽ thu hút và nhận đợc những gì
mà nền kinh tế cần đến.
Trong mấy thập kỷ qua, khu kinh tế tự do với các tên gọi khác nhau ngày
càng đợc coi nh một cửa ngõ quan trọng để các nớc đi sau hội nhập nhanh vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, tạo điều kiện cho họ tận dụng cả lợi thế quốc tế và trong
nớc nhằm thúc đẩy sản xuất hớng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, đổi mới công

nghệ, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách với các nớc tiên tiến.
Các khu kinh tế tự do đã đợc hình thành từ rất lâu trong lịch sử phát triển
của thế giới. Bắt đầu là khi một số khu vực cho phép u tiên các thơng nhân một số
mặt hàng nhất định và tiếp sau đó là sự hình thành của các khu thơng mại tự do
(free trade zone). Các khu này thờng nằm ở biên giới một quốc gia, ở nơi giao
5
nhau của các tuyến đờng lu thông hàng hoá quốc tế hay ở những trung tâm buôn
bán náo nhiệt trên thế giới.
Vận tải hàng hải ra đời là một điều kiện thuận lợi để phát triển thơng mại,
đặc biệt là ngoại thơng. Hàng hoá tham gia vào thơng mại tăng lên gấp nhiều lần
do khối lợng hàng chuyên chở bằng đờng biển nhiều hơn và thời gian chuyên chở
ngắn hơn so với chuyên chở bằng đờng bộ. Cùng với sự phát triển của ngành hàng
hải, các trung tâm buôn bán chuyển dần từ trong đất liền ra các hải cảng ven biển.
Những hải cảng lớn nằm trên đờng trung chuyển của các tuyến đờng hàng hải là
các khu vực lý tởng cho việc hình thành các khu kinh tế tự do mà tên gọi gắn liền
với giai đoạn này gọi là các cảng tự do (free port). Cùng với sự phát triển của sản
xuất và trao đổi hàng hóa, hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nớc đã
ngăn cản hoạt động ngoại thơng. Chính điều này đã thúc đẩy hoạt động tại các
cảng tự do ngày càng mạnh mẽ hơn. Các cảng tự do đợc miễn khỏi các quy định
chung và đặt ra ngoài biên giới hải quan, hàng hoá trao đổi ở đây hầu nh không
phải chịu ảnh hởng của các biện pháp bảo hộ, có chăng là một vài sắc thuế ở mức
rất thấp. Legborn đợc ý làm thành cảng tự do năm 1547, sau đó là Giơnoa năm
1595. Về sau lần lợt các thành phố Naple, Vienna, Marseille, BagonDuyrich,
Ghibranta ở các n ớc cũng lần lợt đa ra các quy chế tơng tự. Thời kỳ này đã hình
thành một loạt các thơng cảng nổi tiếng nh Rotecdam (Hà Lan), Liverpool (Anh),
Hamburg (Đức) Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lợi thế về vị trí địa lý cũng
đã lợi dụng và khai thác tối đa lợi thế này, tạo nên những khu vực trung chuyển
hàng hoá nh Hồng Kông, Singapore hai ví dụ điển hình cho các cảng tự do. Ban
đầu là những hải cảng nhỏ, Hồng Kông và Singapore đã trở thành những thơng

cảng tự do khổng lồ và kéo theo một loạt các ngành nghề khác phát triển.
Do sự phát triển của công nghiệp, ngành vận tải mất tính chất quan trọng
hàng đầu trong nền kinh tế nên phong trào thành lập các cảng tự do nửa đầu thế kỷ
XIX giảm đi và chúng bị mất quyền u đãi. Nhng đến đầu thế kỷ XX, cảng tự do lại
hồi sinh do sự tăng trởng của thơng mại quốc tế cùng với cuộc cách mạng trong
vận tải container ra đời. Hàng loạt các khu thơng mại tự do, khu buôn bán miễn
thuế đợc thành lập và phát triển nhanh chóng cả về số lợng và chất lợng. Với lu l-
6
ợng hàng hoá khổng lồ đợc tập trung và với tất cả các u đãi, thơng mại quốc tế bị
cuốn hút vào đây. Bên cạnh các hoạt động thuần tuý về kinh doanh thơng mại, trao
đổi hàng hoá, tại các khu này đã xuất hiện các hoạt động kinh tế khác nh lắp giáp,
gia công, chế biến hàng hoá. Sự phát triển của khu thơng mại tự do kéo theo một
loạt các hình thức kinh doanh miễn thuế khác ra đời nh kho ngoại quan, cửa hàng
miễn thuế, kho bảo thuế
Năm 1956, một khu kinh tế tự do đã đợc thành lập ở cạnh sân bay Shannon
(Ireland) với một ý nghĩa hoàn toàn mới. Đài Loan là nớc đầu tiên sử dụng thuật
ngữ khu chế xuất để chỉ loại hình khu kinh tế tự do này trong luật KCX ban
hành năm 1965. KCX Shannon đợc sử dụng nh một hình thức để thu hút đầu t nớc
ngoài, xây dựng nền kinh tế hớng về xuất khẩu. Tất cả các sản phẩm sản xuất ra
trong khu này đều đợc xuất khẩu, đổi lại các nhà đầu t nớc ngoài đợc hởng nhiều -
u đãi. Shannon có thể coi là thành công đầu tiên trên thế giới về việc thu hút đầu t
nớc ngoài phát triển kinh tế bằng hình thức KCX.
Thành công của Ireland đã nhanh chóng đợc phổ biến và áp dụng ở các nớc.
Với sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới, hàng loạt các KCX đã đợc thành lập ở
Trung, Nam Mỹ, châu á. Các KCN tập trung, trong đó có những khu chuyên sản
xuất hàng xuất khẩu ra đời do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các nớc đang phát
triển luôn theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế do vậy phải chú ý tạo điều kiện cho
việc phát triển sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu, thu hút đầu t nớc ngoài,
chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, thông tin kịp thời, áp dụng các phơng pháp
quản lý hiện đại, đào tạo cán bộ lành nghề cho các ngành kinh tế, đặc biệt là công

nghiệp, đảm bảo công ăn việc làm, tạo điều kiện phát triển các vùng lạc hậu, đồng
thời tăng thêm các nguồn thu ngoại tệ, sử dụng hợp lý hơn nữa các nguồn lực của
địa phơng. Do vậy việc ra đời các KCN tập trung là rất phù hợp với các nớc này.
Không ít nớc đã thu đợc những thành tựu đáng kể, làm thay đổi bộ măt kinh tế của
đất nớc. Thành tích đặc biệt nhất có thể kể đến là Hàn Quốc và Đài Loan, từ nền
kinh tế yếu kém, Hàn Quốc và Đài Loan đã trở thành những nớc công nghiệp mới
đợc coi là những con rồng của Châu á.
7
Không chỉ phát triển về quy mô và số lợng, các khu kinh tế tự do ngày càng
có nhiều thay đổi về hình thức và chất lợng. Từ những khu tự do mang tính chất
thuần tuý về thơng mại, chuyển khẩu hàng hoá đã phát triển thành những khu tự
do sản xuất với mục tiêu hớng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu theo mô hình
KCX và KCN. Từ những khu kinh tế tự do mang tính chất đơn nhất thơng mại
hoặc công nghiệp đã có những khu kinh tế tự do mang tính chất hỗn hợp đợc thành
lập.
Năm 1979, hình thức tổ chức cao nhất của khu kinh tế tự do đã đợc thành
lập tại Trung Quốc với tên gọi đặc khu kinh tế (special economic zone). Nó bao
gồm tất cả các hoạt động kinh tế theo cơ cấu ngành nh của một nền kinh tế quốc
dân nh: công, nông, lâm, ng nghiệp, tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, du lịch,
dịch vụ với các điều kiện hoàn toàn thuận lợi và mang tính chất mở cho các nhà
đầu t nớc ngoài.
Thực ra các ĐKKT không phải là sáng kiến riêng của Trung Quốc. Trong
thực tiễn kinh tế thế giới sau chiến tranh ở một số nớc thuộc thế giới thứ ba đã
xuất hiện những khu kinh tế tự do có những đặc trng giống nh các ĐKKT của
Trung Quốc sau này. Đó thật sự là những quốc gia trong những quốc gia nh báo
chí phơng Tây gọi. Những nớc thuộc thế giới thứ ba dùng các khu này làm đầu cầu
thu hút vốn đầu t, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến của các nớc t bản phát
triển nhằm mục đích phát triển nền kinh tế còn lạc hậu của mình.
ở các nớc XHXN, các ĐKKT theo kiểu đó cũng đợc đề xớng vào cuối
những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX khi nền kinh tế các nớc đó lâm

vào tình trạng khủng hoảng. Những mục tiêu đợc đặt ra hồi đó là: thu hút t bản n-
ớc ngoài, thu hút kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, phát triển sản xuất hớng vào xuất
khẩu, áp dụng phơng pháp quản lý tiên tiến, đào tạo cán bộ kinh doanh và quản lý.
Một số nớc thông qua những đạo luật về mặt này nh Bungari, Hungari, Rumani,
Nam T. Nhng nếu nh ở các nớc Đông Âu cha đạt đợc thành công dù là nhỏ
thì ở Trung Quốc, chủ trơng này ngay từ đầu đã đem lại những hứa hẹn lớn, tuy
gặp không ít trở lực về nhận thức cũng nh thực tiễn.
8
Việc thành lập các ĐKKT ở các nớc Đông Âu cha đem lại những kết quả rõ
rệt vì mấy lẽ: trớc hết, thời gian còn ít và những quy chế chuẩn mực của các điều
kiện cha thật rành mạch; thứ hai, quan niệm về ĐKKT còn chật hẹp, nói chung chỉ
mới dành cho chúng một số chức năng hạn chế với những phơng pháp cũng còn
hạn chế (chủ yếu về thuế). Trong khi đó ở Trung Quốc đã có một cách tiếp cận
khác. Ngay từ những bớc cải cách đầu tiên, các ĐKKT đợc coi nh những phơng
tiện không phải chỉ để kích thích hoạt động ngoại thơng mà còn để phát triển công
nghiệp ở những vùng chịu tác động trực tiếp của các trung tâm công nghiệp và th-
ơng mại ở bên ngoài (Hồng Kông, Macao, các nớc Đông Nam á). Trong bốn đặc
khu đầu tiên có hai đặc khu (Thâm Quyến và Chu Hải) có giao thông trực tiếp
bằng đờng sắt với Hồng Kông và Macao. Hai khu kia (Sán Đầu và Hạ Môn) từ tr-
ớc cũng đã có những liên hệ thơng mại với bên ngoài. Nói chung, về mặt lịch sử
tất cả những đặc khu ấy có liên hệ với thị trờng bên ngoài chặt chẽ hơn thị trờng
nội địa. Quy chế đặc khu cho phép mở rộng và đẩy sâu những quan hệ kinh tế đối
ngoại vốn có. Chỉ sau hơn 10 năm cùng với sự thành công của các ĐKKT, sự phát
triển của 14 thành phố mở cửa đã làm thay đổi toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc,
đến mức ngời ta thấy ở Trung Quốc không chỉ có một Hồng Kông mà có tới XX0
Hồng Kông trong khả năng[3]. Thành công của Trung Quốc đợc coi là một kỳ tích
về phát triển kinh tế mà động lực của quá trình này không gì khác mà chính là
chính sách kinh tế mở đúng đắn với các ĐKKT diệu kỳ.
2. Các loại hình khu kinh tế tự do
Có thể hiểu khu kinh tế tự do là một không gian kinh tế mà ở đó thiết lập

một chế độ u tiên riêng. Các khu này tồn tại dới nhiều hình thức với nhiều tên gọi
theo cách của từng quốc gia, theo từng thời kỳ khác nhau. Sự đa dạng của các khu
kinh tế tự do trong thời gian gần đây đợc thể hiện rõ qua một loạt các khái niệm
nh: khu thơng mại tự do, cảng tự do, KCN tập trung, KCX, ĐKKT, kho ngoại
quan, công viên khoa học Hiện nay có tới 30 khái niệm (thuật ngữ)[21] dùng
để đặt tên cho các khu vực này. Các khu kinh tế tự do có ba đặc tính chung cơ bản
sau:
1) Đợc thành lập nhằm đảm bảo phục vụ cho thị trờng thế giới;
9
2) Không bị khống chế bởi các quy định hạn chế nghiêm ngặt nh những
vùng khác thuộc lãnh thổ quốc gia;
3) Đợc "tự do theo một nghĩa nào đó, song vẫn với t cách là một yếu tố
điều tiết của Nhà nớc trong trao đổi với bên ngoài.
Nội dung các thuật ngữ đặc thù biểu đạt các loại hình khu kinh tế tự do luôn
nằm trong sự phát triển thờng xuyên, bao hàm và chuyển hoá lẫn nhau, ranh giới
giữa chúng rất mong manh. Tuy nhiên xét về quy mô và nội dung hoạt động, ngời
ta vẫn có thể quy tụ các loại hình khu kinh tế tự do trên thế giới thành ba nhóm
sau đây:
2.1. Nhóm các khu kinh tế tự do mang tính chất thơng mại
Đây là nhóm tập hợp các loại hình khu kinh tế tự do lâu đời nhất trong lịch
sử. Điển hình là khu thơng mại tự do, cảng tự do, kho ngoại quan.
2.1.1. Khu thơng mại tự do
Đây là hình thức khu kinh tế tự do ra đời sớm nhất. Các khu thơng mại tự do
cổ đại đã từng tồn tại từ 2.500 năm trớc tại Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã cổ đại.
Theo định nghĩa truyền thống thống nhất của khái niệm này thì khu thơng mại tự
do là một bộ phận có chủ quyền của quốc gia mà ở đó hàng hoá có nguồn gốc từ
bên ngoài có thể đợc tích trữ, mua bán và không phải nộp thuế. Hay nói cách khác
đó là khu vực mà ngời ta tích luỹ và tiến hành việc thơng mại miễn thuế, khu vực
vẫn thuộc lãnh thổ quốc gia song chế độ tài chính đợc xem nh ngoài lãnh thổ quốc
gia. Hiện nay khu thơng mại tự do vẫn là hình thức khu kinh tế tự do thịnh hành

trên toàn thế giới, là một khu vực địa lý xác định thành lập tại các khu vực cửa
khẩu tạo lên một khu vực đặt ngoài sự giám sát của hải quan. Tại khu vực này cho
phép hàng hoá bên ngoài vào không phải đóng thuế, cho phép tồn trữ, gia cố, lắp
ráp và sau đó đ ợc xuất khẩu miễn thuế. Mục đích của việc thành lập các khu th-
ơng mại tự do là để thu hút ngày càng nhiều hơn hàng hoá nớc ngoài lu thông
trong khu vực này, thúc đẩy việc trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ chuyển khẩu
quá cảnh cũng nh các ngành nghề phục vụ cho sự tồn tại của buôn bán. Trong khu
thơng mại tự do có hai loại hình đặc biệt phát triển là kho ngoại quan và cửa hàng
miễn thuế.
10
2.1.2. Cảng tự do
Cảng tự do đợc hình thành do sự phát triển của ngành hàng hải. Mục đích
của việc thành lập cảng tự do là làm cho khu cảng không còn trở ngại với thơng
mại tự do thuế quan gây ra, làm cho tàu và hàng hoá lu chuyển dễ dàng. Do vậy, lu
lợng hàng hoá tàu bè qua cảng tăng lên dẫn đến tăng thu nhập cho cảng nhờ cung
ứng dịch vụ tàu biển, kho bãi, bốc xếp, lu kho Vì vậy khu cảng tự do đ ợc diễn
đạt một cách hình ảnh "về thực chất là một khu vực đợc rào lại để ngời chủ tàu có
thể hạ gánh hàng nặng xuống nghỉ, lấy sức quyết định việc phải làm tiếp theo. Có
hai loại cảng tự do: tự do hoàn toàn và tự do có hạn chế. Hàng hoá đem vào các
khu cảng tự do hoàn toàn đều không chịu thuế, còn đối với một số cảng tự do khác
thì lại có một số quy định hạn chế hoặc bảo hộ. Một số cảng tự do nổi tiếng trớc
đây có thể kể đến nh Rotecdam (Hà Lan), Hamburg (Đức), Marseille (Pháp),
Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Hội An (Việt Nam) Sau này do sự phát triển
và biến đổi của các luồng di chuyển hàng hóa cùng với các chính sách khác nhau
của các nớc, một số cảng đã trở thành cảng tự do hạn chế hoặc các khu vực phát
triển nhờ vào các ngành sản xuất. Hiện nay các cảng lớn nh Hồng Kông,
Singapore đều tăng cờng gia công chế biến hàng hóa và bán thành phẩm và một số
nơi đã thành những KCX.
Do sự phát triển của khu kinh tế tự do có tính thơng mại, đã có một số loại
hình khác ra đời đó là kho chứa hàng miễn thuế, kho ngoại quan, kho chứa kiêm

đóng gói hàng hóa, khu mậu dịch đối ngoại
2.2. Nhóm các khu kinh tế tự do mang tính chất công nghiệp
Trong nhóm này có 3 loại hình tơng đối phổ biến là KCN tập trung, KCX
và các trung tâm khoa học-công nghệ, trong đó KCN tập trung và KCX là 2 hình
thức thờng đợc sử dụng để thu hút đầu t nớc ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản
xuất công nghiệp, tăng cờng xuất khẩu thu ngoại tệ và đặc biệt đối với các nớc
đang phát triển, chúng phục vụ cho chiến lợc thay thế nhập khẩu và/hoặc CNH h-
ớng về xuất khẩu. Các khu này có thể do Nhà nớc thành lập hoặc có thể đợc thành
lập trên cơ sở sở hữu t nhân.
2.2.1. KCN tập trung
11
KCN tập trung là một vùng lãnh thổ đựơc đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng và
đợc hởng các chế độ u đãi thích hợp để tập trung phát triển ngành sản xuất công
nghiệp theo định hớng của quốc gia thành lập. Tại các nớc đang phát triển, các
KCN tập trung thờng đợc định hớng vào mục tiêu thay thế nhập khẩu bên cạnh
mục tiêu tăng cờng xuất khẩu. Ngoài ra, ở các nớc công nghiệp phát triển, các
KCN tập trung đợc thành lập còn nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển quản lý và
bảo vệ môi sinh. Một phần hàng hoá sản xuất ra tại KCN đợc phép tiêu thụ ở thị
trờng nội địa. Điều này chính là yếu tố thu hút các công ty xuyên quốc gia đầu t
vào đây.
2.2.2. KCX
Khu sân bay Shannon đã đặt nền móng cho các KCX hiện nay. Giờ đây,
KCX đợc hiểu là một vùng lãnh thổ nhất định trong đó các hãng nớc ngoài đầu t
sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu và thu lợi nhuận nhờ một số u tiên, u đãi.
Khái niệm về KCX đã hấp dẫn các nớc phát triển trong những năm 70 và 80 của
thế kỷ trớc, vào lúc mà các nớc này ngày càng thất vọng với chiến lợc thay thế
nhập khẩu. Trong điều kiện nh vậy, các KCX xuất hiện nh một giải pháp trung
gian rất phù hợp, cho phép chuyển mạnh sang chiến lợc CNH hớng về xuất khẩu.
Chúng đảm bảo thu hút đợc t bản nớc ngoài, công nghệ và chất xám, tạo ra những
công việc mới theo hớng phục vụ cho sản xuất đồng thời tránh cho các công ty sở

tại phải cạnh tranh với các công ty nớc ngoài trong thị trờng nội địa. Do vậy, đây
là loại hình khu kinh tế tự do phổ biến nhất và gần nh chỉ tồn tại ở các nớc đang
phát triển trong vài thập kỷ gần đây. Với những định hớng u tiên phải tạo ra sản
phẩm có sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới nên công nghệ sản xuất ở đây thờng
cao hơn công nghệ trong các KCN. KCX cũng có thể là một vùng của KCN đợc
chuyên biệt hoá để sản xuất hàng xuất khẩu. Các KCX nổi tiếng có thể kể đến là
Kaoshung (Đài Loan), Shannon (Ireland), Masan (Hàn Quốc)
2.2.3. Trung tâm khoa học-công nghệ
Trung tâm khoa học-công nghệ phổ biến ở các nớc công nghiệp phát triển
hoặc NICs đợc gọi dới nhiều tên khác nhau nh khu công nghệ cao, trung tâm đổi
mới, công viên khoa học Chúng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ từ những năm 70 và số
12
lợng của chúng tăng lên rất nhanh. ở Anh và Pháp năm 1980 chỉ có 3 trung tâm,
đến 1989 đã có tới XX trung tâm ở Pháp và 36 trung tâm ở Anh. Chơng trình phát
triển trung tâm công nghệ của Nhật Bản đã đợc thảo ra từ những năm 80 và đã
có tới XX trung tâm đợc xây dựng trong cả nớc [21]. Khác với KCN và KCX là
khu sản xuất hàng hóa, trung tâm khoa học-công nghệ tập trung nhiều hơn vào vấn
đề nghiên cứu. Việc thành lập các trung tâm dựa trên các tiền đề cần thiết nh có
nhiều quan điểm đổi mới, có nhiều nguồn vốn kinh doanh, kết cấu hạ tầng đảm
bảo cho công tác nghiên cứu khoa học, sáng chế, thực nghiệm và phát triển công
nghiệp, có các điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt, nghỉ ngơi và nhằm mục đích
nghiên cứu triển khai và cho ra đời các sản phẩm là các công nghệ cao hoặc các
thành phẩm đợc sản xuất theo công nghệ có hàm lợng khoa học cao hơn hẳn các
KCN khác, tạo ra những bớc đột phá trong phát triển công nghệ và công nghiệp
trong nớc. Trung tâm thờng đợc xây dựng trên cơ sở hạt nhân là những viện
nghiên cứu khoa học đầu đàn, các trờng đại học lớn, hệ thống các công xởng và
khu thử nghiệm hỗ trợ. Chúng có thể đợc xây mới hoàn toàn hoặc là kết quả sự
phát triển và co tụ hoạt động của các KCX hay KCN.
2.3. Nhóm các khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp
Đại diện tiêu biểu của nhóm này là các đặc khu kinh tế, các thành phố

mở cửa, các khu kinh tế mở, các tam giác phát triển đang hoạt động ở một số
nớc đang phát triển trên thế giới, song chủ yếu tập trung tại các nền kinh tế chuyển
đổi nh Trung Quốc. Với nội dung hoạt động kinh doanh mang tính tổng hợp từ
công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, nghiên cứu khoa
học đ ợc triển khai trên quy mô lớn trong phạm vi lãnh thổ rộng (hàng trăm km
2
)
và rất đông dân (nh ĐKKT Hải Nam 6,5 triệu dân) [28], các khu kinh tế tự do tổng
hợp này vợt hẳn lên so với các loại hình khác về cả lợng và chất để gần hơn với
khái niệm khu kinh tế tự do theo nghĩa đầy đủ của nó.
Đặc điểm của các khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp là ngoài mục tiêu của
các loại hình khu kinh tế tự do nêu trên, chúng còn thờng đóng vai trò những cửa
ngõ giao lu kinh tế, xã hội của nớc sở tại với thế giới hay những thử nghiệm kinh tế
xã hội mà họ muốn tiến hành trớc khi chính thức đem áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ
13
quốc gia. Cũng vì thế, về địa điểm, hầu hết chúng đợc đặt tại các vùng biên giới, hải
đảo tơng đối cách biệt với những khu vực lãnh thổ nội địa còn lại, đồng thời nằm
trên các tuyến đờng giao thông hay kề cận những trung tâm phát triển kinh tế quốc
tế hoặc khu vực có những lợi thế so sánh nào đó.
Các thành phố mở cửa, khu khai thác kinh tế - kỹ thuật là kết quả sự nhân
rộng theo kiểu "vết dầu loang" các kinh nghiệm thành công của ĐKKT. Tuy nhiên
giữa ĐKKT, khu khai thác kinh tế - kỹ thuật và thành phố mở cửa có sự khác nhau
đợc phân biệt bởi mức độ u đãi, cơ cấu ngành nghề, quản lý Nhà nớc về hải quan
và kiểm tra biên giới.
Trong tơng lai, các ĐKKT kinh tế sẽ phát triển thành các khu kinh tế tổng
hợp, trung tâm quốc tế đa chức năng và điều chỉnh kết cấu ngành, sản phẩm theo
định hớng u tiên phát triển công nghệ cao.
Bên cạnh các mô hình khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp riêng của quốc
gia còn có các khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp đợc hình thành do sự hợp tác
của một số quốc gia. Khái niệm tam giác phát triển hoặc nhị tứ giác phát

triển lần đầu tiên đợc Thủ tớng Singapore Goh Chok Tong đa ra vào tháng 12
năm 1989. Đây thờng là sự kết hợp 3 vùng địa lý kinh tế của 3 nớc láng giềng có
các nguồn tài nguyên và lợi thế so sánh khác nhau để hình thành nên một khu vực
lớn hơn có tiềm năng phát triển kinh tế hơn. Những khác biệt trong lợi thế so sánh
sẽ bổ xung cho nhau hơn là cạnh tranh với nhau. Có thể coi các khu kinh tế tự do
kiểu này là bớc ngắn nhất trong nỗ lực tạo lập các nền kinh tế khu vực có tính liên
kết hơn. Tuy nhiên kiểu khu kinh tế tự do mang tính quốc tế dễ gây ra các vấn đề
về an ninh, chủ quyền quốc gia và sự cân bằng lợi ích cùng sự bình đẳng giữa các
bên.
3. ĐKKT Hình thức đặc thù của khu kinh tế tự do
3.1. Khái niệm
Cho đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về ĐKKT. Chữ đặc trong
từ ĐKKT có nghĩa là cơ chế và chính sách kinh tế đặc biệt. Do đó xét theo nghĩa
rộng, tất cả các khu vực địa lý đợc áp dụng những chính sách kinh tế đặc biệt đều
có thể gọi là ĐKKT. Song xét theo nghĩa hẹp (theo mô hình ĐKKT của Trung
14
Quốc) thì ĐKKT là một loại hình riêng của khu kinh tế tự do, mang tính tổng hợp
đợc tổ chức theo hình thức cao nhất nh một xã hội thu nhỏ. Đó là một khu vực địa
lý riêng biệt đợc áp dụng những chính sách kinh tế đặc bịêt nhằm thu hút vốn đầu
t nớc ngoài, công nghệ, kỹ năng quản lý để phát triển kinh tế với một cơ cấu ngành
nghề đầy đủ của một nền kinh tế quốc dân gồm công nghiệp, nông, lâm, ng
nghiệp, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học
trong đó u tiên phát triển công nghiệp hớng về xuất khẩu nhng cũng không bỏ qua
thị trờng nội địa.
Tính tổ chức cao của ĐKKT còn đợc thể hiện qua mô hình khu trong khu.
Tại ĐKKT có tất cả các loại hình khác nhau của khu kinh tế tự do nh khu thơng mại
tự do, cảng tự do, KCN, KCX, kho chứa hàng miễn thuế Với cách thức tổ chức nh
vậy, sự liên kết hoàn chỉnh giữa các loại hình này, giữa các ngành nghề đã tạo nên
một bức tranh tổng thể thống nhất thúc đẩy sự phát triển của ĐKKT, tạo nên một u
thế vợt trội của ĐKKT so với các khu kinh tế tự do khác.

Theo quy định của Trung Quốc, ĐKKT là khu vực địa lý đợc ngăn cách với
bên ngoài bằng hai hàng rào quản lý. Hàng rào thứ nhất để quản lý quan hệ giữa
ĐKKT với thị trờng thế giới. Hàng rào thứ hai, một hàng rào thực sự theo cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng ngăn cách ĐKKT với thị trờng nội địa thông qua sự kiểm soát
chặt chẽ của lực lợng hải quan. Đối với Trung Quốc, các ĐKKT có mục tiêu rất
cao so với các khu kinh tế tự do khác trên thế giới và chúng đợc coi là cửa khẩu
trong chính sách mở cửa và bốn HĐH kinh tế, là sự thử nghiệm trong chiến lợc
chung chuyển đổi nền kinh tế trên cơ sở mô hình chủ nghĩa t bản Nhà nớc, dùng
thuế làm cơ chế điều tiêt thị trờng có kế hoạch, đồng thời còn là một thí nghiệm
mô thức thống nhất đất nớc bằng hoà bình với Hồng Kông, Macao và Đài Loan.
Đặc trng cho các khu kinh tế tự do tổng hợp, các ĐKKT của Trung Quốc đợc cấp
quy chế tự do linh hoạt hơn các khu kinh tế tự do khác trên thế giới: đợc kinh
doanh tổng hợp đủ loai hình kinh tế dịch vụ, đợc tiêu thụ một phần sản phẩm
trong thị trờng nội địa theo nguyên tắc song hớng vừa hớng nội vừa hớng ngoại;
khuyến khích sử dụng vật liệu trong nớc; ban lãnh đạo đặc khu đợc cấp quyền
hành rộng rãi, độc lập. Quyền hành không chỉ liên quan đến sản xuất mà còn liên
quan đến hải quan, cấp visa đi lại, lu trú của nhà đầu t nớc ngoài. Trách nhiệm của
15
ban lãnh đạo vì thế cao hơn và có sự thống nhất chặt chẽ giữa trách nhiệm-nghĩa
vụ-quyền lợi. Tại các ĐKKT, các chính sách u đãi đợc áp dụng rộng rãi để thu hút
mạnh hơn nữa đầu t của nớc ngoài cả về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Bên cạnh đó, các ĐKKT còn có một hệ thống pháp lý và kết cấu hạ tầng tốt hơn,
hợp lý hơn các vùng khác. Chính những u đãi này đã đem lại thành công lớn cho
các ĐKKT Trung Quốc trong thời gian qua.
Một số nớc nh Nga, ấn Độ đã nghiên cứu và thành lập một số ĐKKT. Đối
với Việt Nam, khái niệm ĐKKT còn khá mới mẻ. Chúng ta chỉ mới thu hút đầu t
nớc ngoài vào các KCN-KCX song hiệu quả mang lại cha cao. Hiện nay, Việt
Nam cũng đang nghiên cứu về khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp và đã thành
lập một khu kinh tế mở nh mô hình ĐKKT của Trung Quốc.
Qua thực tiễn thành lập và hoạt động của ĐKKT, chúng ta có thể rút ra kết

luận chung về ĐKKT nh sau: ĐKKT là một vùng lãnh thổ đặc biệt của quốc gia
có ranh giới địa lý xác định, có dân c sinh sống, ở đó áp dụng những chính sách
đặc biệt, thích hợp cho việc phát triển kinh tế tự do theo cơ chế thị trờng với một
cơ cấu kinh tế tổng hợp giữa các ngành nhằm đạt những mục tiêu nhất định của
quốc gia thành lập.
3.2. Đặc điểm
Cho tới nay các khái niệm về ĐKKT cha thật sự chính xác và có sự thống
nhất. Tuy nhiên, khái niệm về ĐKKT có thể đợc hiểu rõ hơn qua những điểm đặc
trng sau đây:
- Đây là một bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của một quốc gia, thuộc
sở hữu Nhà nớc, có vị trí đặc biệt và đợc thành lập bởi Chính phủ nớc sở tại.
ĐKKT đợc ngăn cách với phần còn lại của lãnh thổ và đợc coi nh một đơn vị hành
chính. Khác với các loại hình khu kinh tế tự do khác có thể đa dạng hoá sở hữu,
các ĐKKT luôn do Nhà nớc kiểm soát phần lớn và chỉ có thể thuộc về sở hữu Nhà
nớc.
- Tại ĐKKT có dân c sinh sống và ĐKKT đợc coi nh một đơn vị hành
chính. Sự quản lý Nhà nớc đợc thực hiện qua chính quyền của đặc khu.
16
- ĐKKT đợc hởng một chính sách đặc biệt u đãi nhằm thoả mãn lợi ích của
nhà đầu t nớc ngoài và đạt mục tiêu của nớc sở tại. ĐKKT là nơi hội tụ và thích
ứng lẫn nhau về lợi ích và một số mục tiêu xác định giữa các chủ đầu t và nớc chủ
nhà, đem lại sự phát triển chung cho ĐKKT.
- Về cơ cấu kinh tế: ĐKKT có một cơ cấu kinh tế đa ngành, hớng ngoại với
sự tổng hợp của các ngành công, nông, lâm, ng nghiệp, thơng mại, tài chính, du
lịch, dịch vụ Sự đồng bộ của cơ cấu kinh tế tạo ra sự phát triển mạnh mẽ cho
ĐKKT.
- ĐKKT là cửa sổ nhìn ra thế giới, là cầu nối giữa thị trờng quốc gia và thế
giới. Đây là khu vực giao lu giữa thị trờng nội địa và thị trờng quốc tế, là nơi kết
hợp hài hoà các nhân tố quốc gia và quốc tế cho mục tiêu phát triển chung.
- ĐKKT là phần đệm giữa nền kinh tế bảo hộ và nền kinh tế tự do. Tại đây,

kinh tế thị trờng giữ vai trò chính, kinh tế kế hoạch có tác dụng bổ trợ.
- ĐKKT là nơi các quốc gia thử nghiệm các chính sách mới trớc khi áp
dụng rộng rãi ở các vùng khác.
- ĐKKT có một tính chất đặc biệt: một mặt cả quốc gia tập trung cho sự
phát triển của ĐKKT, ngợc lại, ĐKKT có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế,
nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, quản lý của quốc gia.
II. Vai trò của ĐKKT
Các khu kinh tế tự do giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế các quốc
gia, đặc biệt là đối với các nớc đang phát triển. Chúng đợc thành lập nhằm giải
quyết những nhiệm vụ kinh tế đối ngoại cũng nh những nhiệm vụ chung của đất n-
ớc. Sự ra đời đủ loại các khu kinh tế tự do là kết quả của những thay đổi quan
trọng diễn ra trong nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới vào những thập kỷ
gần đây.
Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc và đợc hỗ trợ
bởi quá trình quốc tế hoá lực lợng sản xuất và gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia. Đồng thời, việc khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế đang đợc
đẩy mạnh, thể hiện mong muốn của các nớc nhằm thích ứng với các điều kiện
17
mới, khắc phục sự lạc hậu, tạo ra đợc chế độ u tiên đặc biệt cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đến đặc thù dân tộc và khu vực,
đến các điều kiện tự nhiên và xã hội, đến sự phân bố các yếu tố sản xuất và nhiều
tiềm năng khác. Do đó, các khu kinh tế tự do đã tạo ra đợc những điều kiện cần
thiết để thu hút các nguồn đầu t trong đó có đầu t của nớc ngoài, thu hút công
nghệ mới và kỹ năng quản lý hiện đại cho phép phát triển theo chiều sâu và đa
dạng hoá nền kinh tế hớng vào thị trờng quốc gia và quốc tế.
Vai trò của ĐKKT đối với nền kinh tế quốc dân đợc thể hiện qua tác dụng của
nó trong việc thoả mãn mục tiêu của cả nhà đầu t nớc ngoài và nớc chủ nhà. ĐKKT
là nơi hội tụ mục tiêu của nớc chủ nhà và nhà đầu t nớc ngoài.
1. Đối với nớc chủ nhà

- Vai trò đối ngoại
ĐKKT là cửa sổ nhìn ra thế giới, là cầu nối để tiếp thu vốn, khoa học
công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến từ các nhà đầu t nớc ngoài nhằm mở rộng
sản xuất, nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nớc, tăng thu ngoại tệ. Đối với
nhiều nớc, lý do chính dẫn đến việc thành lập khu kinh tế tự do là tăng xuất khẩu
và tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế trên cơ sở giải quyết đợc
sự thiếu hụt các nguồn lực sản xuất nhờ vào đầu t nớc ngoài.
Một ĐKKT đợc thành lập và quản lý tốt, thu hút đợc nhiều nhà đầu t nớc
ngoài sẽ có những khoản thu rất lớn từ việc bán quyền sử dụng đất, cho thuê nhà
xởng, văn phòng trong đặc khu Khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí ban
đầu thành lập đặc khu là một nguồn thu không nhỏ. Mặt khác, với số lợng lớn và
sự tập trung cao của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại ĐKKT cùng sự
mở cửa thông thoáng của chúng với thế giới bên ngoài giúp các nhà kinh doanh
trong nớc dễ dàng tiếp cận với công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý tiên tiến của
thế giới.
ĐKKT giúp nớc chủ nhà rút ngắn thời gian và chi phí để tăng cờng thâm
nhập vào thị trờng thế giới, nhất là những thị trờng có dung lợng lớn, mở rộng sự
hiểu biết thông tin lẫn nhau giữa thị trờng trong và ngoài nớc. ĐKKT là cầu nối
giữa thị trờng trong nớc và thị trờng quốc tế.
18
Các ĐKKT luôn đi đầu trong việc phát triển chính sách kinh tế đối ngoại và
thờng thể hiện xu hớng của chính sách kinh tế đối ngoại.
- Vai trò đối nội
Các ĐKKT đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân. Chúng là các đầu tầu tăng trởng kinh tế, kéo theo sự phát triển của các
vùng lân cận và các vùng khác của đất nớc. Tầm quan trọng của ĐKKT chủ yếu
không phải là ở tổng sản lợng hay thu nhập theo đầu ngời mà ở tốc độ tăng trởng
kinh tế. Tác động của ĐKKT tới các vùng kinh tế khác sẽ theo kiểu vết dầu
loang.
Với một cơ cấu kinh tế tổng hợp đa ngành nh một xã hội thu nhỏ, các

ĐKKT là nơi thử nghiệm các chính sách kinh tế mới trớc khi áp dụng rộng rãi ở
các vùng khác.
Trong bối cảnh kinh tế kém phát triển và lại vào giai đoạn bùng nổ dân số
nên tình trạng thất nghiệp ở các nớc đang phát triển là vấn đề rất căng thẳng. Xây
dựng ĐKKT là một biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm cho ngời lao
động. Hầu hết các ngành sản xuất tại các ĐKKT đều cần rất nhiều lao động phổ
thông, ĐKKT với một cơ cấu kinh tế đa ngành, có quy mô lớn sẽ tạo đợc rất nhiều
việc làm cho ngời lao động.
ĐKKT đợc ví nh một thế giới thu nhỏ phản ánh tiềm năng phát triển kinh tế
của mỗi nớc. Nó là hàn thử biểu cho nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của
ĐKKT gắn liền với bớc thăng trầm của nền kinh tế quốc dân.
2. Đối với nhà đầu t nớc ngoài
Các nhà đầu t nớc ngoài đầu t vào các ĐKKT chủ yếu là các công ty xuyên
quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia đầu t vào ĐKKT vì những lý do sau đây:
- Sau chiến tranh, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới đi đôi
với mức tăng dân số xấp xỉ bằng không đã tạo ra sự khan hiếm về nguồn nhân
công tiền công thấp, điều đó làm tăng chi phí sản xuất ở các nớc phát triển, làm
mất lợi thế so sánh dạng động của các công ty xuyên quốc gia, vì vậy tìm kiếm
19
nguồn lao động rẻ là nhân tố thúc đẩy việc di chuyển các cơ sở sản xuất của các n-
ớc phát triển ra nớc ngoài.
Trong lúc đó sự tiến bộ của công nghệ đã đem lại một nhân tố thuân lợi: sự
xuất hiện của sản xuất trên quy mô lớn dựa trên cơ sở các cấu kiện đã đợc tiêu
chuẩn hoá khiến cho một số quy trình sản xuất nhất định có thể đợc phân bố tại
nhiều nơi trên thế giới. Những phát triển có tính chất hỗ trợ thêm, nhờ tiến bộ về
vận tải và giao thông liên lạc cho phép nguyên liệu có thể đợc vận chuyển tới
những vùng xa xôi với mức chi phí vận chuyển vừa phải và có thể kiểm soát đợc
những hoạt động chế tạo hay lắp ráp đợc thực hiện ở những nơi đó. Nh vậy sự phát
triển của khoa học công nghệ đã làm cho các quá trình sản xuất trở nên có tính
chất xuyên quốc gia với những cấu kiện có trình độ công nghệ cao đợc sản xuất ở

những nớc tiên tiến và đựơc chở sang các nớc đang phát triển để lắp ráp. Sau đó
chúng lại đợc đa đến nơi khác để hoàn thiện và kiểm nghiệm trớc khi đem phân
phối trên khắp thế giới.
Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia đầu t vào ĐKKT là nhằm thu lợi
nhuận. Để có nhiều lợi nhuận trớc hết họ phải tiết kiệm chi phí. Do những biến đổi
về kỹ thuật và lao động nên mục tiêu sử dụng nguồn lao động, nguồn nguyên liệu
và đất đai rẻ để có chi phí thấp nhằm chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trờng
trong nớc và quốc tế, thu đợc nhiều lợi nhuận đã khuyến khích các công ty xuyên
quốc gia di chuyển sản xuất sang các nớc đang phát triển. Đồng thời do chính sách
thu hút đầu t nớc ngoài nên nớc chủ nhà có những u đãi về thuế, quyền thuê đất
cho các chủ đầu t. Các ĐKKT đợc đặt ở những vị trí đặc biệt nằm gần các tuyến đ-
ờng giao thông quốc tế do vậy hàng hóa sản xuất tại đây sẽ nhanh chóng đợc đa
vào lu thông, giảm thiểu chi phí vận chuyển và bảo quản.
- Các chủ đầu t có điều kiện thay đổi công nghệ mới, chuyển các công nghệ
cũ sang các nớc đang phát triển, tránh đợc áp lực về bảo vệ môi trờng tại các nớc
chủ đầu t. Tại các nớc phát triển có yêu cầu rất cao về chống ô nhiễm môi trờng.
Không ít nhà máy đã phải đóng cửa do không đổi mới đợc công nghệ. Còn các n-
ớc đang phát triển thì có thể vì lợi ích trớc mắt mà trong thời gian đầu vẫn có thể
chấp nhận những công nghệ hạng hai này.
20
- Ngoài mục tiêu trớc mắt nêu trên đây, còn có những mục tiêu lâu dài thúc
đẩy các công ty xuyên quốc gia đầu t vào ĐKKT nh tạo cơ sở để thâm nhập thị tr-
ờng, đặc biệt là thị trờng cha đợc khai thác của các nớc đang phát triển. Chẳng hạn
tại Trung Quốc, ĐKKT Thâm Quyến đợc coi nh là một trong những con đờng để
kiếm đợc một chỗ đứng tại Trung Quốc vì lợi ích lâu dài của các nhà đầu t là
thâm nhập vào thị trờng trong nớc của Trung Quốc.
Nh vậy có nhiều nhân tố thúc đẩy các nhà đầu t cân nhắc việc thành lập các
cơ sở sản xuất ở nớc ngoài. Tuy nhiên để thực hiện biện pháp này, các nhà đầu t n-
ớc ngoài thờng tìm kiếm sự đảm bảo là nớc chủ nhà sẽ cung cấp cho họ những ph-
ơng tiện thích hợp và những biện pháp khuyến khích thuận lợi. Thêm nữa, các nhà

đầu t muốn đợc bảo vệ sự ổn định lao động, các thủ tục xuất nhập khẩu đơn giản
và đợc toàn quyền kiểm soát, quản lý và sở hữu các cơ sở của nó. Rất nhiều những
yêu cầu này sau đó đã đợc tổng hợp lại thành biện pháp cả gói về ĐKKT mà nớc
chủ nhà giành cho các nhà đầu t nớc ngoài.
21
22
Chơng II
thành công của Trung Quốc trong
thành lập các ĐKKT
I.Thành lập và quản lý các ĐKKT tại Trung Quốc
1. Quá trình thành lập các ĐKKT
1.1. ĐKKT trong chiến lợc cải cách kinh tế của Trung Quốc
Trớc khi thực hiện cải cách mở cửa kinh tế vào năm 1978, nền kinh tế
Trung Quốc phát triển trên cơ sở lạc hậu, hạn chế các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại với bên ngoài. Là một nớc XHCN xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp,
Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm một con đờng phát triển
phù hợp với thực trạng của đất nớc. Chính sách nửa đóng cửa, nửa mở cửa đôi khi
đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc vào tình
trạng bế tắc. Sản xuất không ổn định, hoạt động thơng mại cầm chừng và cơ sở hạ
tầng rất kém phát triển. Các cuộc đại nhảy vọt đã đem lại sự phiêu lu đầy lãng phí
và rối ren cho toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc. Thêm vào đó những sai lầm của
cuộc đại cách mạng văn hoá vô sản mà thiệt hại của nó đã lên đến 500 tỷ Nhân
Dân Tệ (NDT) đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc vào tình trạng khủng hoảng.
Xét vế đờng lối đối ngoại trớc năm 1978, thuyết ba thế giới của Mao Trạch
Đông coi Mỹ và Liên Xô là thế giới thứ nhất, Nhật Bản và các nớc Tây Âu là thế giới
thứ hai, tự coi mình là thế giới th ba, Trung Quốc đã tự chuốc lấy sự xa lánh của thế
giới và thực sự bị cô lập. Cùng với những xung đột về t tởng chính trị trong nớc, đờng
lối đối ngoại trên đã gây thiệt hại lớn cho Trung Quốc.
Trớc tình hình đó, Đảng Cộng Sản và nhân dân Trung Quốc đã tìm mọi
cách để thoát ra. Do đó, nhu cầu cần có một cuộc cải cách làm thay đổi và chuyển

biến căn bản tình hình và đa Trung Quốc vào quỹ đạo phát triển của thế giới là cần
thiết. Điều đó đòi hỏi phải cải cách thể chế XHCN mà trớc hết là thể chế kinh tế
và thể chế chính trị. Trong lúc nền kinh tế xã hội Trung Quốc đang đứng trên bờ
23
vực sụp đổ thì những thay đổi lớn lao về nhận thức này là ngọn gió tốt lành giúp
Trung Quốc giải quyết đợc những vấn đề sai lầm do quá khứ để lại, mở đờng cho
sức sản xuất phát triển, là động lực mạnh mẽ góp phần đa đất nớc Trung Quốc đi
tới một tơng lai tốt đẹp hơn.
Sau cái chết của Mao Trạch Đông tháng 9 năm 1976, vào tháng 3 năm 1978
với sự trở lại chính trờng của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã có một sự thay đổi
bớc ngoặt trong đờng lối chính sách kinh tế của mình. Hội nghị Trung Ương III
khoá 11 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc diễn ra vào tháng 12 năm đó đã phủ định
đờng lối tả của Mao Trạch Đông trong thời kỳ 3 ngọn cờ hồng (kéo dài tới khi
ông chết vào năm 1976) trên một số mặt, tuyên bố chấm dứt khẩu hiệu lấy đấu
tranh chính trị làm cơng lĩnh, chuyển trọng tâm sang xây dựng kinh tế với khẩu
hiệu: đối ngoại mở cửa, đối nội làm ăn phát triển kinh tế, khép lại một thời kỳ
rối ren về chính trị, sa sút về kinh tế, mở ra giai đoạn mới cho nền kinh tế.
Cải cách trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Trung Quốc gồm hai nội dung
cơ bản: thứ nhất là chiến lợc xuất nhập khẩu mà cụ thể là đổi mới chính sách
ngoại thơng; thứ hai là chiến lợc lợi dụng vốn đầu t bên ngoài mà thực chất là thu
hút vốn đầu t nớc ngoài thông qua các ĐKKT và các thành phố mở với những
chính sách khuyến khích có sức hấp dẫn cao. Vào thời điểm đó có thể coi đây là
một quyết định táo bạo của Chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là đối với các nớc
XHCN.
Việc Trung Quốc bắt đầu mở cửa từ cuối những năm 1970 đợc đánh giá là
một quốc sách đúng đắn, phù hợp với xu hớng vận động của tình hình quốc tế và
trong nớc. Vào thời điểm đó, các nớc t bản đang trong tình trạng khủng hoảng
thừa vốn và kỹ thuật trong khi hầu hết các nớc thế giới thứ ba cha sẵn sàng tiếp
nhận các luồng t bản đó. Việc mở cửa của Trung Quốc nhằm thu hút vốn và kỹ
thuật từ bên ngoài tạo ra sự trùng lặp về lợi ích giữa các nớc phát triển và Trung

Quốc. Vì thế, hiệu quả của chính sách này càng đợc nhân lên. Hơn nữa, một thị tr-
ờng to lớn, tài nguyên giàu có và lao động dồi dào, cha đợc khai thác là một lợi thế
cạnh tranh của Trung Quốc khi mở cửa bớc vào nền kinh tế thế giới.
24
Ngời Trung Quốc có câu chiếc bánh lớn một miếng khó có thể nuốt trôi.
Để một quốc gia rộng lớn khép kín nh Trung Quốc có thể mở cửa một cách hiệu
quả là môt điều vô cùng khó khăn. Không thể mở cửa một cách ồ ạt. Mặt khác,
giữa các vùng địa lý khác nhau của Trung Quốc có trình độ phát triển kinh tế khác
nhau, khả năng tiếp nhận đầu t nớc ngoài khác nhau nên khó có thể áp dụng chính
sách thống nhất, phù hợp với nhu cầu đặc biệt và thích ứng với các đặc trng riêng
của từng vùng. Vì vậy cần có những thử nghiệm chính sách ở phạm vi hẹp để dễ
dàng thay đổi, sửa chữa. Một vấn đề nữa đặt ra cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc
lúc này là sự eo hẹp về nguồn lực trong nớc. Để đạt hiệu quả cao cần tập trung các
nguồn lực cho một vài vùng cụ thể, lấy đó làm cơ sở thúc đẩy các vùng khác phát
triển. Do đó, Chính phủ Trung Quốc quyết định xây dựng một vài vùng phát triển
thử nghiệm - đó chính là các ĐKKT. Nếu bị thất bại, phạm vi ảnh hởng đơng
nhiên đã bị hạn chế ngay từ đầu. Còn nếu thành công thì sẽ nhân rộng ra. Cả thảo
nguyên mênh mông sẽ bùng cháy lên vì một đốm lửa nhỏ. Câu nói nổi tiếng của
Mao Trạch Đông xa kia đã đợc thực tế mới làm sống lại.
Cũng vào thời điểm này, ba con rồng nhỏ xung quanh Trung Quốc đã
chứng minh cho thành công trong phát triển kinh tế dựa trên cơ sở mở cửa nền
kinh tế và thu hút đầu t nớc ngoài. Trung Quốc coi đó thực sự là các trờng đại học
để có thể học tập phơng pháp quản lý kinh doanh tiên tiến. Đặng Tiểu Bình đã
từng nói Trung Quốc mới có một Hồng Kông, phải có nhiều Hồng Kông thì mới
giàu mạnh. ý đồ chiến lợc của Trung Quốc là biến các ĐKKT thành những
Hồng Kông XHCN. Tức là các ĐKKT phải thực sự trở thành những khu vực
phồn vinh về kinh tế, tiến bộ về chính trị và văn minh về xã hội, trở thành các
trung tâm công nghiệp và dịch vụ mang tầm vóc quốc tế nh Hồng Kông nhng về
mặt xã hội lại mang sắc thái XHCN.
Vào tháng 7 năm 1979, Trung Quốc quyết định cắt đất ở một số vùng thuộc

Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu (thuộc tỉnh Quảng Đông) và Hạ Môn (thuộc tỉnh
Phúc Kiến) để thành lập các khu vực đặc biệt nhằm thu hút đầu t nớc ngoài, tăng
cờng xuất khẩu với tên gọi đặc khu xuất khẩu. Ban đầu, các khu vực này đợc
thiết kế theo kiểu các KCX. Loại hình Đặc khu xuất khẩu bị hạn chế ở chức năng
25

×