Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quan niệm về nhà nước pháp quyền của Ch.S. Montesquieu trong "Bàn về tinh thần pháp luật" và ý nghĩa của nó với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 105 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI </b>


<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN </b>
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


<b>======== *** ======== </b>


<b>NGUYỄN THỊ HOÀN </b>


<b>QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA CH.S.MONTESQUIEU </b>
<i><b>TRONG BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI XÂY </b></i>
<b>DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>



Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của


riêng tôi. Nội dung và các trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và chính


xác. Những kết luận của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất


kỳ cơng trình khác.



<b> Tác giả luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>MỞ ĐẦU </b>



<b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>


Lịch sử tư tưởng Nhà nước pháp quyền là lịch sử hình thành và phát
triển của những tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà
nước nói chung thơng qua hệ thống pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà
nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật
được tơn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tơn giáo của bất kỳ tổ chức


hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ của pháp luật và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật. Với cách tiếp cận như thế, theo chúng tôi, tư tưởng
về Nhà nước pháp quyền ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Và tương
ứng với mỗi kiểu nhà nước đều có một hệ thống pháp luật tương ứng và đạt
mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, không phải bất kỳ nhà nước nào
trong lịch sử có hệ thống pháp luật cũng được gọi là Nhà nước pháp quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

muốn trở thành nhà nước dân chủ, nhà nước văn minh đều phải hướng tới
không phân biệt chế độ chính trị.


<i>Chúng tơi quyết định lựa chọn Quan niệm về nhà nước pháp quyền của </i>
<i>Ch.S. Montesuquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật và ý nghĩa của nó với </i>
<i>việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay </i>
làm đề tài cho luận văn của mình bởi những lý do sau:


<i>Lý do thứ nhất, theo chúng tôi, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng về Nhà </i>
nước pháp quyền nói chung và giai đoạn Khai sáng Pháp nói riêng là thực sự
cần thiết. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đứng trước những thách thức
ngày càng lớn của công cuộc hội nhập và phát triển, có rất nhiều vấn đề thực
tiễn đặt ra cần phải giải quyết. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu cơ sở lý
luận về nhà nước pháp quyền trong lịch sử triết học sẽ góp một phần nào đó
cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Bên cạnh
đó, chúng tơi cũng nhận thấy việc trở lại nghiên cứu những tư tưởng giai đoạn
Khai sáng Pháp với những quan điểm về nhà nước, xã hội công dân, về con
người…là một trong những hướng nghiên cứu khơng chỉ có ý nghĩa lý luận
và cịn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Pháp nói riêng. Montesquieu viết khá nhiều tác phẩm cho tới những năm cuối
<i>đời, trong đó Bàn về tinh thần pháp luật được xem là “viên ngọc sáng trong </i>
kho tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều khoa học xã


<i>hội của nhân loại” [40, 5]. Với tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, </i>
Montesquieu thể hiện không chỉ là nhà luật học với tư duy sắc sảo, mà còn để
lại một dấu ấn sâu sắc trong tư duy nhân loại với tư cách là một triết gia pháp
<i>quyền. Trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu đã đưa ra </i>
những kiến giải hết sức sâu sắc về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền.
Mặc dù khái niệm “Nhà nước pháp quyền” chưa một lần được gọi tên trong
<i>các văn bản của ông nhưng ở Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu đã </i>
trình bày những quan niệm tiến bộ về những cơ sở của nhà nước pháp quyền.
Cho tới nay gần ba thế kỷ đã trôi đi nhưng thời gian không làm phai mờ sức
<i>sống mãnh liệt của tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Sức hấp dẫn của tác </i>
phẩm vẫn thu hút sự quan tâm của những nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước. Những quan niệm bước đầu về Nhà nước pháp quyền của Montesquieu
<i>trong Bàn về tinh thần pháp luật không chỉ có ý nghĩa trên phương diện lý </i>
luận mà cịn có giá trị hiện thời sâu sắc với xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay.


<b>2. Tình hình nghiên cứu của đề tài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>pháp luật của dịch giả Hoàng Thanh Đạm với lối văn hiện đại, dễ hiểu hơn. </i>
Năm 2004, được sự đồng ý của Hoàng Thanh Đạm, nhà xuất bản Lý luận
<i>chính trị đã xuất bản tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu </i>
<i>trên cơ sở bổ sung từ cuốn Tinh thần pháp luật năm 1996. </i>


Xung quanh đề tài luận văn, chúng tôi khảo sát nguồn tư liệu trên hai
<i>phương diện: Thứ nhất là loại nghiên cứu liên quan trực tiếp tới quan niệm </i>
<i>nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp </i>
<i>luật. Thứ hai là loại nghiên cứu liên quan tới nhà nước pháp quyền xã hội chủ </i>
<b>nghĩa ở Việt Nam. </b>


Ở loại nghiên cứu thứ nhất, các nghiên cứu liên quan tới quan niệm về


<i>nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật, </i>
chúng tôi xin kể tên các cơng trình nghiên cứu như sau :


<i>Cơng trình nghiên cứu Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc </i>
<i>tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước của Nguyễn Thị Hồi được Nhà xuất </i>
bản Tư Pháp Hà Nội phát hành năm 2005. Đây là cơng trình tương đối đầy đủ
và hiện thiện về tư tưởng phân quyền và việc áp dụng nó trong tổ chức và
hoạt động của một số bộ máy nhà nước mang tính tiêu biểu hiện nay. Trong
cơng trình nghiên cứu này, Nguyễn Thị Hồi đã đi khảo sát những tư tưởng
phân quyền qua các nhà tư tưởng như Aristote, Locke, Montesquieu,
Rousseau…Từ phương diện lý thuyết, tác giả đi phân tích sự tác động trở lại
của các tư tưởng phân quyền đó phục vụ thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước
qua sự áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Sự mạnh dạn nghiên cứu những tư
tưởng phân quyền của tác giả đã giúp chúng tơi có điều kiện hiểu sâu sắc hơn
về Montesquieu trên khía cạnh lý thuyết phân quyền của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

về các quan niệm triết học pháp quyền của Montesquieu. Đồng thời, tác giả
trẻ Lê Tuấn Huy còn đưa ra nhiều phân tích về nhà nước pháp quyền, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở những nghiên cứu
triết học pháp quyền của Montesquieu. Chính vì vậy, cơng trình này có giá trị
lớn với chúng tôi không chỉ ở các khía cạnh các quan niệm triết học pháp
quyền của Montesquieu mà còn ở ý nghĩa hiện thời của chúng với quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


<i>Lịch sử triết học Pháp là cơng trình của tác giả Jean Wahl (do tập thể </i>
tác giả Nguyễn Hải Bằng, Đào Ngọc Phong, Trần Nhựt Tân dịch), Nhà xuất
<i>bản Văn hóa thơng tin, năm 2006 và cơng trình Lý luận giáo dục châu Âu của </i>
tác giả Nguyễn Mạnh Tường, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1994 cũng
là hai công trình nghiên cứu tương đối kỹ về lịch sử triết học Pháp. Tác giả
của các cơng trình nghiên cứu này đã cho người đọc thấy cái nhìn bao quát


theo chiều dài lịch sử triết học Pháp qua một số triết gia tiêu biểu, trong đó có
<i>Montesquieu. Riêng tác phẩm Lý luận giáo dục châu Âu, tác giả Nguyễn </i>
Mạnh Tường tập trung vào các lý thuyết giáo dục từ thế kỷ XVI tới thế kỷ
XVIII ở châu Âu, tuy nhiên tác giả không những đưa ra những khái quát cơ
bản về tình hình kinh tế xã hội châu Âu trong giai đoạn này mà cịn trình bày
khá kỹ lịch sử phát sinh và đấu tranh của giai cấp tư sản. Chính điều đó đã
giúp cho chúng tơi thêm những cơ sở lý luận khi nghiên cứu bối cảnh lịch sử
và tiền đề lý luận cho các quan niệm pháp quyền của Montesquieu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nghiên cứu tác phẩm cụ thể trong giai đoạn Khai sáng Pháp, Nguyễn
<i>Thị Châu Loan có luận văn Tư tưởng cơ bản của triết học chính trị Rútxo </i>
<i>trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, </i>
năm 2007. Luận văn đi sâu vào phân tích các tư tưởng chính trị của Rútxô
<i>thông qua nghiên cứu tác phẩm nổi tiếng của ông Bàn về khế ước xã hội. </i>
Cơng trình đã đưa lại cái nhìn tương đối tồn diện về triết học chính trị Rútxơ,
đồng thời cũng cung cấp cho chúng tôi những kinh nghiệm nghiên cứu bước
đầu về việc phân tích một tác phẩm cụ thể của thời kỳ Khai sáng Pháp.


Khi nói tới những nghiên cứu về Montesquieu chúng ta không thể
không kể tới nỗ lực to lớn dịch giả Hồng Thanh Đạm khi ơng cho ra mắt bạn
<i>đọc bản dịch tiếng Việt tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Không chỉ có </i>
vậy, dịch giả cịn cung cấp những tư liệu lịch sử rất quan trọng về thân thế sự
nghiệp cũng như phụ lục tóm tắt các tác phẩm của Montesquieu. Đây là tác
phẩm gốc rễ để luận văn nghiên cứu những nội dung cụ thể của tác phẩm.


Bên cạnh đó, trên các tạp chí Triết học, Luật học, Thông tin xã
<i>hội…cũng có một số bài viết liên quan tới đề tài luận văn như: Học thuyết </i>
<i>phân quyền của Montesquieu và việc áp dụng ở một số nước Tư bản phát triển </i>
<i>của Bùi Việt Hương, Thông tin chính trị số 1, năm 2005; Xã hội cơng dân và </i>
<i>xã hội dân sự: từ Arixtot đến Hêghen của Trần Tuấn Phong trên tạp chí Triết </i>


<i>học ; Học thuyết phân chia quyền lực- một cách tư duy về quyền lực nhà nước </i>
của tác giả Bùi Ngọc Sơn, Khoa Luật, Đại học quốc gia…Tuy vậy, có thể nói
việc đi sâu nghiên cứu triết học chính trị của Montesquieu nói chung và quan
<i>niệm về Nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh </i>
<i>thần pháp luật vẫn là mảnh trống cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng rõ. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Từ góc nhìn văn hóa, tác giả Bùi Ngọc Sơn với cơng trình nghiên cứu
<i>Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, Nhà xuất </i>
bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2004 cũng là một nguồn tài liệu quý giá với luận
văn. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Bùi Ngọc Sơn đã phân tích khá kỹ
bối cảnh văn hóa của sự hình thành lý thuyết về Nhà nước pháp quyền, trong
đó có bối cảnh văn hóa châu Âu thế kỷ mà Montesquieu sinh sống. Đồng thời,
tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản góp phần xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa hiện nay.


Trong số các cơng trình thuộc loại này, có thể kể tên tới Xây dựng Nhà
<i>nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đào Trí Úc, Nhà xuất bản </i>
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005. Đây là cơng trình nghiên cứu khá công
phu về Nhà nước pháp quyền. Tác giả đã đi sâu phân tích khái niệm Nhà nước
pháp quyền trên bình diện rộng trong lịch sử tư tưởng phương Tây, phương
Đông, các học thuyết tư sản cũng như các quan niệm Mác-Lênin về Nhà nước
và pháp luật. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Với những điều đó, cơng
trình đã đưa lại cái nhìn khá toàn diện về Nhà nước pháp quyền, đồng thời
cũng đã cung cấp cho chúng tôi những kiến giải nhất định về việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


<i>Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ </i>
<i>nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tác giả Trần Hậu Thành, Nhà </i>
xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội năm 2005 là một cơng trình khá sâu sắc về


nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trên cả khía cạnh
lý luận và thực tiễn xây dựng. Đồng thời, trong nghiên cứu của mình, tác giả
Trần Hậu Thành cũng đưa ra một số quan niệm hiện nay về nhà nước pháp
quyền và thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền hiện
nay trên thế giới. Đây cũng là tư liệu khá gần gũi của luận văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Nguyễn Đăng Dung, nhà xuất bản Đại học quốc gia năm 2006; Thể chế tư </i>
<i>pháp trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Đăng Dung, nhà xuất bản Tư </i>
<i>pháp năm 2004; Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của </i>
Hoàng Thị Kim Quế, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005…
cũng là những tài liệu tham khảo quý báu cho luận văn chúng tôi không chỉ
trên khía cạnh lý luận về nhà nước, nhà nước pháp quyền mà còn cả thực tiễn
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.


Do những điều kiện hạn chế về ngoại ngữ, chúng tôi chưa trực tiếp
<i>nghiên cứu được nhiều tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật cũng như các tài </i>
liệu liên quan bằng tiếng nước ngoài. Luận văn chủ yếu dựa trên tư liệu đã
được dịch ra tiếng Việt và những nghiên cứu ở trên làm tư liệu tham khảo.
Chính vì thế, những ý kiến đánh giá trong luận văn không tránh khỏi những
hạn chế.


<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn </b>
<i><b>3.1. Mục đích nghiên cứu </b></i>


Mục đích của luận văn là làm rõ quan niệm cơ bản về nhà nước pháp
<i>quyền của Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, từ đó làm </i>
rõ ý nghĩa của những quan niệm đó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


<i><b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>



Để thực hiện mục đích này, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ
sau đây :


- Phân tích bối cảnh lịch sử, những tiền đề lý luận hình thành quan
<i>niệm nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần </i>
<i>pháp luật. </i>


- Làm rõ quan niệm cơ bản về nhà nước pháp quyền của Montesquieu
<i>trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận nghiên cứu của luận văn </b>
<i><b>4.1. Cơ sở lý luận </b></i>


Luận văn này được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa vào phương pháp luận mác xít nghiên
cứu lịch sử triết học.


<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu </b></i>


Luận văn sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật trong
nghiên cứu, trong đó phối hợp các phương pháp như lơgic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa các quan niệm về nhà
<i>nước pháp quyền của Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật. </i>


<b>5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu </b>
<i><b>5.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>


Luận văn tập trung phân tích quan niệm về nhà nước pháp quyền của
<i>Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. </i>



<i><b>5.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>


Nghiên cứu về triết học chính trị của Montesquieu nói chung và nghiên
cứu các quan niệm về nhà nước pháp quyền của Montesquieu nói riêng là một
vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi đầu tư cơng sức của nhiều nhà khoa học. Vì
thế, trong một đề tài nghiên cứu bước đầu, luận văn chỉ tập trung vào những
nội dung quan niệm cơ bản về nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong
<i>tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Và ở đây những tư tưởng về nhà nước </i>
pháp quyền của Montesquieu chủ yếu được xem xét từ góc độ triết học.


<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn </b>
<i><b>6.1. Ý nghĩa lý luận </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i><b>6.2. Ý nghĩa thực tiễn </b></i>


Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong nghiên cứu
học tập về lịch sử triết học phương Tây nói chung và các học thuyết triết học
chính trị giai đoạn Khai sáng Pháp nói riêng.


<b>7. Kết cấu của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>CHƢƠNG 1 </b>


<b>Ch.S. MONTESQUIEU VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ </b>
<b>RA ĐỜI QUAN NIỆM NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN CỦA ÔNG </b>


<b>1.1. Thân thế và sự nghiệp của Ch.S. Montesquieu </b>


Montesquieu sinh ngày 18/01/1689 trong một gia đình dịng dõi q tộc


lâu đời tại Bcđơ ở Tây Nam nước Pháp. Cha ơng là một q tộc bị sa sút,
khơng giàu có nhưng sống nhờ hoa lợi bên vợ. Mẹ ông xuất thân từ một dòng
dõi quý tộc họ Penel người Anh. Mẹ của ông là một phụ nữ thông minh, rất
sùng đạo và có thiên hướng bí ẩn. Bà mất năm Montesquieu mới lên 7 tuổi.
Người có ảnh hưởng tới Montesquieu nhiều hơn cả là người chú ruột của ông
- Giăng đơ Sơcongđơ - người đã từng là Chủ tịch Nghị viện Bcđơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

thực trực tiếp hiện diện trong đời sống cộng đồng của Montesquieu trong thời
gian đó, đã là chất liệu thực tiễn quý báu nữa cho công việc của tư tưởng gia
này” [22, 85]. Montesquieu say sưa tìm hiểu và tỏ ra khá thích thú với nền
quân chủ lập hiến ở Anh lúc bấy giờ. Điều khá thú vị là “tại Nghị viện Anh,
người ta cho phép ơng có mặt trong các cuộc tranh luận giữa Chính phủ và
phe đối lập kéo dài tới 12 giờ. Các tư tương về phân quyền của ông chín muồi
ở Anh” [50, 688,689]. Năm 1731, ông trở lại lâu đài Brét tại Pháp và hoạt
động nghiên cứu lý luận cho tới cuối đời. Montesquieu mất vào ngày
10/2/1755 khi ông ở tuổi 66.


Nghiên cứu về cuộc đời Montesquieu, có nhiều ý kiến cho rằng: so với
các nhà triết trước đó cũng như với các nhà triết gia đương thời thì cuộc đời
Montesquieu tương đối “thành đạt và suôn sẻ”, bản thân ông cũng không trở
thành đối tượng đàn áp của nhà nước chuyên chế. Về điều này chúng tôi đồng
ý với quan niệm của tác giả Lê Tuấn Huy khi cho rằng có lẽ tất cả những điều
may mắn đó “chỉ nói lên được một điều, là điều kiện xuất thân của ông, mà
không thể hiện những gì mà triết gia đầu tiên của thế hệ Khai sáng thứ nhất
này đã đóng góp cho Khai sáng, với xuất phát điểm không chỉ là tinh thần phê
phán đối với xã hội chuyên chế, mà còn là thái độ khai sáng cơng nhiên và có
ý thức” [22,89]. Trong suốt hơn 60 năm của cuộc đời mình, Montesquieu đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị khơng chỉ trên lĩnh vực triết học, luật học mà
cả trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và văn chương.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

thịt của nhân dân, ơng vua đó tuy “khơng có mỏ vàng như vua Tây Ban Nha
láng giềng nhưng lại có của cải nhiều hơn, bởi vì của cải của ông được khai
thác trong các hư danh của thần dân, là một thứ kho vô tận hơn cả mỏ vàng”
[55, 161]. Chi tiết thú vị trong tác phẩm chính là thân phận người thái giám -
người bị xã hội chuyên chế phương Đông tước đoạt quyền cơng dân của mình
theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thơng qua nhân vật này, Montesquieu đã đề
cập tới những con người “mà trước quyền lực và phong tục, định kiến cổ hủ,
thực tế đã bị làm cho kém đi, bị tước bỏ những quyền tự nhiên của mình, ln
lo sợ bị trừng phạt, khơng giám phản kháng” [22, 86]. Mặc dù dưới hình thức
văn chương với hình ảnh ẩn dụ độc đáo nhưng theo chúng tôi, ở tác phẩm
này Montesquieu đã bước đầu gián tiếp đề cập tới quyền tự nhiên của con
người dù chưa nhiều. Ông đã thể hiện sự phê phán gay gắt nhà nước chuyên
chế phong kiến tồn tại lâu đời ở cả phương Đông và phương Tây. Nhà nước
đó khơng chỉ là lực cản đối với sự phát triển của xã hội mà còn là chế độ tước
đoạt quyền công dân của con người bằng những tư tưởng bảo thủ và phản
động. Riêng về điều này chúng tôi đánh giá cao tinh thần cách mạng ở
Montesquieu, bởi lẽ, không phải bất kỳ nhà quý tộc nào cũng có đủ bản lĩnh
đứng lên phê phán chính chế độ sản sinh ra họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

một trong ba tác phẩm thành công trong sự nghiệp của Montesquieu. Tác phẩm
không chỉ có giá trị về lịch sử tư tưởng mà cịn có giá trị về triết học.


<i>Bàn về tinh thần pháp luật được Montesquieu cho xuất bản năm 1748. </i>
Ông đã dành thời gian hai mươi năm của cuộc đời mình để viết tác phẩm này.
Từ trước khi cuốn sách này được xuất bản, tình trạng sức khoẻ của
Montesquieu bị suy giảm nghiêm trọng, ông làm việc nhiều tới nỗi gần như
hai mắt bị lồ. Và cũng bởi vì sự khổ cơng nghiên cứu miệt mài ấy mà sau
<i>này Bàn về tinh thần pháp luật được xem là cơng trình khoa học kết tinh tồn </i>
bộ tài năng trí tuệ và con người Montesquieu. Trong tác phẩm này,
Montesquieu không nghiên cứu luật pháp như một nhà luật học thuần tuý mà


<i>nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần cốt lõi của pháp luật. Montesquieu muốn </i>
khám phá quy luật bên trong những hỗn độn các luật pháp của mọi thời đại.
Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện thái độ phê phán gay gắt của Montesquieu
với nền chuyên chính tồn tại ở Pháp lúc bấy giờ. Chính thái độ khách quan,
khoa học ấy của Montesquieu mà ngay khi ra đời, tác phẩm bị cơng kích dữ
dội từ phía quan phương và bị liệt vào “danh mục sách cấm”. Tuy nhiên, cuốn
sách vẫn lọt qua sự kiểm soát gắt gao của giáo hội để tới với độc giả. Năm
<i>1750, Montesquieu viết tác phẩm luận chiến “Bảo vệ tinh thần pháp luật” để </i>
khẳng định lập trường kiên định của mình với tác phẩm đã xuất bản. Nhiều
học giả đã tìm tới lâu đài “để mong được nói chuyện với Montesquieu hoặc
dù chỉ là nhìn thấy ơng” [50, 690]. Một số nhà khoa học đã công khai bảo vệ
<i>mãnh liệt cuốn Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu, trong đó có giáo </i>
sư La- Bơmen. Sau đó vị giáo sư này bị bắt giam với tội danh khả nghi về
chính trị. Năm 1754 Montesquieu hăng hái tới Pari để xin giúp cho vị giáo sư
bất hạnh, sử dụng các mối liên hệ có thế lực của mình và giải thốt được cho
ơng ta. Trong thời gian đó, ơng cũng phải chịu sự hành hạ thân xác khủng
khiếp do bệnh tật ngày một trầm trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ixmêni (1754). Trước khi qua đời Montesquieu còn để lại nhiều di cảo trong
<i>đó có tập “Những tư tưởng của tơi”. </i>


Montesquieu là người tiên phong trong phong trào Khai sáng Pháp thế
kỷ XVIII. Tuy không phải là một người đứng đầu, một nhà lãnh đạo nhưng
ông lại là “con người đầu tiên khởi phát cả một cuộc vận động văn hoá và tư
duy. Montesquieu đã lần lần đầu tiên chính thức sử dụng khái niệm “khai
sáng” để nói đến một chương trình học thuật, để rồi sau đó trở thành tên gọi
của cả một giai đoạn triết học và của cả một thời đại” [22, 93].


<b>1.2. Bối cảnh lịch sử và những tiền đề tƣ tƣởng ra đời quan niệm </b>
<b>nhà nƣớc pháp quyền của Ch.S. Montesquieu </b>



<i><b>1.2.1. Bối cảnh lịch sử </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

phận người dân Pháp lúc bấy giờ vẫn canh tác theo phương thức sản xuất
phong kiến lạc hậu.


Do ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp diễn ra sôi nổi ở eo biển
Măng sơ, công nghiệp Pháp đến nửa cuối thế kỷ XVIII đã có sự phát triển. Ở
một số nơi, người ta đã xây dựng nhà máy đường, xưởng đóng tàu, xưởng dệt,
mỏ khai thác kim loại tương đối lớn. Ngoài ra, việc mua bán với nước ngoài
cũng ngày một mở rộng “dọc theo biên giới từ phía bắc xuống đến tây nam,
người ta thấy nhiều trung tâm kinh tế quan trọng: Ruăng và Havrơ, nơi tập
trung công nghiệp vải sợi; hải cảng Năngtơ và Boođô trông ra Đại Tây
Dương, nơi buôn bán hương liệu sầm uất với các đảo phương Đông: phố
Lyông sản xuất hàng tơ lụa và nhung nổi tiếng châu Âu. Về phía đơng giáp
giới nước Đức có Anhat và Lôren, trù phú nguyên liệu với những lò luyện
kim lớn.” [41, 64]. Tình hình thương nghiệp cũng khá phát triển. Pháp mở
rộng buôn bán với nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ và phương Đông. Buôn
bán nô lệ da đen đã đem lại lãi xuất lớn cho ngành thương nghiệp Pháp. Tuy
nhiên, chế độ phong kiến áp dụng quy chế khắt khe như thuế nặng, sự kiểm
soát chặt chẽ, sản xuất theo khuôn mẫu bắt buộc đã ngăn cản sự phát triển của
công thương nghiệp. Và nhìn chung, nửa cuối thế kỷ XVIII những yếu tố tư
bản chủ nghĩa đã nảy sinh và phát triển khá rõ trong lòng chế độ chuyên chế
Pháp. Song với tính chất bảo thủ trì trệ, nhà nước qn chủ phong kiến đã tìm
mọi biện pháp để ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Và do đó, việc
xố bỏ sợi dây ràng buộc của phong kiến với sự phát triển của lực lượng sản
xuất đang đi lên đã trở thành một yêu cầu khách quan và tất yếu của lịch sử
nước Pháp khi đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

giai cấp này có liên hệ chặt chẽ về dòng họ, tuy chiếm một số ít trong xã hội


nhưng bản thân họ lại giữ vị trí thống trị nước Pháp phong kiến. Đẳng cấp thứ
ba bao gồm tư sản, nông dân, thợ thủ công, họ là những người chiếm số đông
trong xã hội nhưng lại khơng có chút quyền lực chính trị nào. Sự phân biệt ba
đẳng cấp trong xã hội Pháp lúc đó được quy định theo cơng thức: tăng lữ phục
vụ nhà vua bằng lời cầu nguyện, quý tộc bằng lưỡi kiếm, đẳng cấp thứ ba
phục vụ tăng lữ và quý tộc bằng của cải.


Cùng với sự phát triển của công thương nghiệp, bước sang thế kỷ
XVIII, giai cấp tư sản ngày càng có thế lực hơn về kinh tế. Họ nắm trong tay
nhiều xí nghiệp, nhà máy, các ngành nội - ngoại thương, thậm chí cả một số
ruộng đất nhất định. Bọn quý tộc thiếu tiền ăn chơi phải vay nợ các nhà tư
sản. Triều đình phong kiến Pháp nhanh chóng trở thành con nợ của các nhà tư
sản mới. Nói về điều này, C.Mác viết: “Tính chất tiêu cực phổ biến của giới
quý tộc Pháp và của giới thầy tu Pháp là điều kiện có tính chất tích cực phổ
biến của giai cấp gần nhất và đối lập với chúng nhất: giai cấp tư sản” [34, 1].
Giai cấp tư sản vừa giàu có lại có tri thức nên họ nhanh chóng trở thành
những người đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ trong xã hội. Họ
mong muốn tham gia chính quyền, xố bỏ sự ngặt nghèo các luật lệ của nhà
nước chuyên chế để phát triển công thương nghiệp. Những mong muốn đó
của giai cấp tư sản hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân
trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Vì thế, giai cấp tư sản Pháp nhanh chóng được
đa số dân chúng ủng hộ làm cách mạng chống lại chế độ phong kiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

nhân dân những món tiền lớn gấp bội. Cách lựa chọn như vậy làm cho nhà
nước trở thành một gánh nặng đối với nhân dân vì tính quan liêu, tham nhũng
và bất cơng của nó” [41, 60- 61] ngay trong lịng xã hội Pháp lúc đó diễn ra
cuộc khủng hoảng sâu sắc giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Nó
đặt ra nhu cầu bức thiết cần phải thay thế chế độ phong kiến đã lỗi thời, thối
nát bằng một chế độ khác tiến bộ hơn. Có thể thấy khá rõ tình hình xã hội
Pháp lúc đó tồn tại những mâu thuẫn mà tính chất của chúng phức tạp hơn so


với các nước khác cùng thời ở châu Âu. Hầu hết các nhà Khai sáng Pháp như
Motesquieu, Vonte, Rousseau đều sinh thời trong điều kiện lịch sử này. Và
chính yếu tố thời đại đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của các triết gia
Khai sáng này. Cuộc đại cách mạng năm 1789 là tiếng chuông cáo chung với
chế độ phong kiến Pháp và mở ra một thời đại mới trong lịch sử nước Pháp.
Đây là cuộc cách mạng tư sản sâu sắc và toàn diện nhất trong lịch sử nhân
loại chống lại chế độ phong kiến. Thắng lợi của cuộc cách mạng đó phải kể
tới vai trị tích cực của giai cấp tư sản - những người đại diện cho phương
thức sản xuất mới tiến bộ khi ấy. Đồng thời, người ta cũng không quên ơn
những nhà triết học Khai sáng. Chính những tư tưởng của họ đã trở thành tiền
đề lý luận mở đường cho cuộc cách mạng tư sản năm 1789 đi tới thắng lợi,
đập tan xiềng xích của chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở Pháp.


<i><b>1.2.2. Tiền đề tư tưởng </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Nghiên cứu về lịch sử tư tưởng, chúng ta thấy ngay từ thời Hy Lạp cổ
đại người ta đã quan tâm đến vai trò của pháp luật cũng như mối quan hệ
công dân và nhà nước trong việc thiết lập một xã hội có trật tự, kỷ cương. Có
thể khẳng định rằng, chính những tư tưởng đó đã đặt cơ sở nền tảng cho các
quan niệm triết học pháp quyền về sau này. Hay nói theo cách của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong các tác phẩm của mình đều khẳng định: “Khơng có cái cơ
sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì khơng có châu Âu hiện đại”
[36, 254]. Trong khn khổ luận văn của mình, chúng tơi khơng có điều kiện
tìm hiểu hết tư tưởng pháp quyền thời kỳ này mà chỉ tập trung vào hai triết
giai tiểu biểu là Socrates và Aristotle dưới góc độ là tiền đề lý luận cho các
<i>quan niệm về nhà nước pháp quyền của Montesquieu trong tác phẩm “Bàn về </i>
<i>tinh thần pháp luật”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

thực sự tham gia khế ước với nhà nước và có nhiệm vụ phải tôn trọng các trật
tự cũng như các quy định của nó. Và quả thực “Sự trung thành tuyệt đối của


công dân đối với nhà nước - thành thị và luật pháp của mình là xuất phát điểm
trong tồn bộ quan điểm chính trị - xã hội của Socrates” [20; 120].


Điểm độc đáo trong quan niệm của Socrates theo chúng tơi cịn ở chỗ
ông đã đưa ra tiêu chuẩn của người cầm quyền nhà nước là phải có tri thức.
Socrates cho rằng người làm vua phải là những người biết cai trị. Quan điểm
này đã gián tiếp khẳng định tư tưởng của Socrates về sự cần thiết phải có tri
thức để cai quản xã hội, dù ở bất kỳ thể chế chính trị nào. Mặc dù những tư
tưởng của Socrates về nhà nước pháp quyền còn ở mức sơ khai nhưng đóng
góp của ơng cho các nhà tư tưởng chính trị về sau chính là ở chỗ Socrates đã
khẳng định tính tất yếu của pháp luật trong xây dựng một xã hội có kỷ cương,
đồng thời ông cũng phác thảo một số tiêu chí đúng đắn khi xây dựng nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

đồng nhất với công lý. Trong quan niệm của ông các khuynh hướng đạo đức
phải có khuynh hướng phục vụ cho pháp luật.


Khác với người thầy Platôn của mình, Aristotle xem xét cá nhân từ góc
độ nhà nước chứ khơng phải là nhà nước dưới góc độ cá nhân. Về điều này,
tác giả Lê Tuấn Huy cho rằng: “Aristotle xem khả năng phụng sự lợi ích
chung là tiêu chuẩn xác định nhà nước kiểu mẫu” [22, 70]. Xuất phát từ điều
này, theo Aristotle, có hai tiêu chí để phân biệt các hình thức nhà nước. Hai
tiêu chí đó là: căn cứ vào số lượng người cầm quyền và căn cứ vào mục đích
thực hiện của nhà nước. Dựa theo tiêu chí đầu ơng phân biệt quyền lực của
một người, của một số người và của nhiều người. Theo tiêu chí thứ hai ơng
phân chia thành hình thức nhà nước đúng và hình thức nhà nước sai. Dưới
hình thức nhà nước đúng thì quyền lực phù hợp với lợi ích chung. Theo
Aristotle trong lịch sử có ba hình thức nhà nước đúng là: Chế độ quân chủ,
chế độ quý tộc và chế độ cộng hồ. Cịn dưới hình thức nhà nước sai thì
quyền lực khơng phù hợp với lợi ích chung mà nó thuộc về một số ít người
trong xã hội. Ba hình thức nhà nước sai trong lịch sử theo ơng đó là: Nền bạo


chính - là hình thức nhà nước bảo vệ lợi ích của một người; nhà nước tập
đồn là hình thức nhà nước bảo vệ lợi ích của số ít; và chế độ dân chủ - hình
thức nhà nước bảo vệ lợi ích của số đơng. Aristotle có khuynh hướng nghiêng
về nhà nước quân chủ. Ông xếp chế độ dân chủ là hình thức sai vì theo ông
trong chế độ dân chủ đa số quyền lực thuộc số đông dốt nát, nghèo khổ và xu
nịnh. Aristotle là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng ở phương Tây khi đưa
ra phân tách bộ máy nhà nước thành ba bộ phận: cơ quan tư vấn pháp lý cho
hoạt động nhà nước, tồ thị chính và cơ quan xét xử. Tương ứng với ba cơ
quan này hiện nay trong bộ máy chính trị ở các nước hiện đại là: Lập pháp,
hành pháp và tư pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

ngoài tới nhà nước. Theo Aristotle “các thể chế chính trị tốt nhất khơng thể nảy
sinh thiếu những điều kiện bên ngồi thích hợp” [57, 73]. Và do đó Aristotle rất
coi trọng các yếu tố khí hậu, vị trí nhà nước, phạm vi lãnh thổ tới sự tồn tại nhà
nước. Những tư tưởng này có ảnh hưởng khá nhiều tới quan niệm địa khí hậu
<i>của Montesquieu trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”.</i>


Giai đoạn Phục hưng diễn ra ở châu Âu từ thế kỷ XV-XVI. Đây là một
giai đoạn đặc thù của văn hóa Tây Âu chủ nghĩa nhân văn Phục hưng có ảnh
hưởng tới nhiều nước trên thế giới. Đồng thời đây cũng là giai đoạn lịch sản
sinh ra nhiều nhà tư tưởng có tên tuổi như: M. Phichino (1433-1499), L.Valla
(1407-1457), Nicolai (1401-1464), N. Machiavelli (1469-1527), Montaigne
(1533- 1592)…Các nhà triết học trong giai đoạn này chủ yếu tập trung khai
thác yếu tố cá nhân con người và cuộc sống hiện thực của con người. Họ kiên
quyết bác bỏ sự chi phối của thần quyền tới đời sống của con người. Đặc biệt
ở giai đoạn này các nhà triết học cũng bước đầu phác họa các thiết chế trong
đời sống xã hội của con người. Có thể nhận thấy khá rõ những đặc điểm đó
tập trung khá nhiều trong các tác phẩm của N. Machiavelli và Montaigne.


N. Machiavelli (1469- 1527) là nhà văn, chính khách và là một triết gia


<i>người Italia. Với hai tác phẩm nổi tiếng là “Quân vương” và “Những suy </i>
<i>ngẫm về tuần đầu tiên của Tít Livi” Machivelli xứng đáng được mệnh danh là </i>
“Ơng tổ của chính trị học hiện đại”. Quan điểm chính trị của Machivelli tập
trung trên khá nhiều khía cạnh. Trên bình diện lịch sử tư tưởng cho quan điểm
pháp quyền của Montesquieu chúng tơi tập trung phân tích quan niệm của
Machiavelli trên ba khía cạnh cơ bản sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

không nên đánh giá lĩnh vực chính trị bằng thước đo của đạo đức hay của tôn
giáo. Machiavelli đã cố gắng tách biệt chính trị khỏi ràng buộc của ln lý tơn
giáo và nghiên cứu chính trị với tư cách là đối tượng đặc thù không chịu chi
phối của các lĩnh vực khác. Theo ông, đạo đức và tôn giáo nghiên cứu trách
nhiệm của công dân với nhau trong xã hội cịn đối tượng của chính trị là vấn
đề quyền lực, và do đó, có sự khác nhau căn bản giữa chúng. Lập trường của
<i>Machiavelli nói như cách của các tác giả cuốn Đại cương triết học lịch sử </i>
<i>phương Tây được biểu thị ngắn gọn bằng cụm từ “chính trị vị chính trị”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

của tôn giáo là an ủi tinh thần con người và muốn giải quyết mối quan hệ giữa
chúng cần thì “phải hiểu rõ hai lợi ích ấy” [40, 193]. Cả hai triết gia này đều có
quan điểm chung khi cho rằng chính trị và tơn giáo là hai lĩnh vực tách biệt
nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Và theo họ, người chính khách giỏi là
phải kết hợp hài hịa hai lĩnh vực đó chứ khơng phải là thù địch chúng với nhau.


<i>Thứ hai, Machiavelli trình bày lý luận về người cầm quyền trên bình </i>
diện hiện thực. Theo ơng, cơ sở của vai trò người đứng đầu dựa vào quyền lực
và chính quyền lực sẽ giúp họ có trong tay của cải, đặc quyền chính trị.
Machivelli khuyên nhà cầm quyền cần tính đến các đặc điểm tâm lý, các
nguyên tắc đạo đức, thậm chí cả ưu khuyết điểm của người khác để tăng thêm
sức mạnh quyền lực. Và nguyên tắc của nhà cầm quyền là không được xâm
phạm các quyền về tài sản cũng như nhân cách công dân, bởi lẽ, theo ơng vi
phạm điều đó sẽ khiến cho thần dân căm phẫn “có thể lật đổ thủ lĩnh”. Người


cầm quyền “ổn định” theo Machivelli là “ở sự kết hợp khéo léo giữa những
phương tiện ban thưởng và trừng phạt” [20, 314]. Về điểm này, Machiavelli
có quan niệm gần với quan niệm của triết gia Trung Quốc Hàn Phi Tử.
Machivelli xây dựng hình ảnh lý tưởng về người đứng đầu dựa trên mối quan
hệ qua lại giữa nhà cầm quyền và thần dân. Machiavelli cho rằng người cầm
quyền phải hội tụ trong mình phẩm chất của con sư tử (sức mạnh, sự trung
thực) và phẩm chất của con cáo (thần bí hóa, dối trá). Đồng thời ơng cũng
khẳng định luôn rằng: những phẩm chất này không tự nhiên nhà cầm quyền
<i>có được mà cần phải có q trình rèn luyện mới. Theo các tác giả cuốn Đại </i>
<i>cương lịch sử triết học phương Tây thì Machivelli đã xây dựng lý luận về </i>
người cầm quyền được dựa trên bốn điểm:


Quyền lực của thủ lĩnh bắt nguồn từ sự ủng hộ của những người bảo vệ
ông ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Thủ lĩnh cần phải có ý chí cứng rắn.


Thủ lĩnh bao giờ cũng là tấm gương về sự thông thái và công bằng đối
với người ủng hộ mình.


Có thể nói rằng, lý luận về xây dựng người cầm quyền là một sự đóng
góp quan trọng của Machivelli. Trong lịch sử triết học vấn đề này trước ơng
đã có người đề cập tới song có lẽ chỉ tới Machivelli, lý luận về người cầm
quyền đó mới trở thành đề tài nghiên cứu thực sự của khoa học chính trị. Và
cơng lao đóng góp nền móng này thuộc về triết gia người Italia -N.
Machivelli.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

có thể cam chịu mất mát quyền lực hoặc danh dự, chịu mất tự do, nhưng
không bao giờ chấp nhận mất của” [20, 309]. Và rõ ràng, trong khuôn khổ của
thời đại mình Machiavelli đã nhận ra những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội


có cơ sở từ nguyên nhân kinh tế. Theo chúng tôi, đây là điểm độc đáo, tiến bộ
trong quan điểm chính trị của Machiavelli có ảnh hưởng lớn tới các nhà Khai
sáng cũng như các nhà tư tưởng cận đại, trong đó có Montesquieu.


Trên cơ sở nhấn mạnh vai trò của cơ sở kinh tế, Machiavelli đã trình
bày quan điểm của ơng về nguồn gốc nhà nước. Ơng cho rằng nhà nước là do
con người lập ra chứ không phải do Chúa hay lực lượng thần thánh nào. Nhà
nước ra đời và tồn tại xuất phát từ nhu cầu của con người vì lợi ích chung. Vì
thế, theo Machiavelli thực chất chính trị là “lĩnh vực hoạt động thông qua
những giải pháp mang tính chiến lược” [20, 310]. Và chính trị theo ơng là các
hoạt động có mục đích rõ ràng của con người, trong đó họ cố gắng thực hiện
lợi ích và nhu cầu của mình. Mục đích của nhà nước là bảo đảm cho con
người được tự do sử dụng tài sản và an toàn sinh sống. Tới đây chúng ta hoàn
tồn có thể khẳng định rằng Machiavelli là nhà triết học vơ thần dũng cảm.
Ơng đã đứng trên quan điểm duy vật khi lý giải nguồn gốc và mục đích của sự
tồn tại nhà nước bác bỏ quan niệm của tôn giáo đang ngự trị trong giai đoạn
lịch sử đó. Machiavelli đã phân tách nhà nước trong lịch sử thành hai hình
thức: Hình thức nhà nước tồi bao gồm nền bạo chính, chế độ đầu sỏ và hình
thức vơ chính phủ. Tương ứng với ba hình thức đó là ba hình thức tốt: chế độ
quân chủ, quý tộc và dân chủ. Machiavelli kiên trì theo tư tưởng của quý tộc về
sự cầm quyền hỗn hợp và ông ra sức khẳng định nó trong lịch sử, ơng được
đánh giá là “nhà khoa học trong giai đoạn ban đầu và rất tự giác” [ 2, 207].


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

yếu là những tư tưởng nhân văn, đề cao giá trị con người và thái độ phê phán
thuyết kinh viện và thần học. Ơng cho rằng con người có quyền được hưởng
các giá trị vật chất và tinh thần. Khi nghiên cứu về con người Montaigne còn
đưa ra quan điểm khá độc đáo khi cho rằng “Lợi ích của người này là thiệt hại
của người khác” [32, 462]. Montaigne là người đứng trên lập trường của chủ
nghĩa duy nghiệm. Ông khẳng định tất cả mọi thứ tồn tại trên thế giới đều bắt
đầu từ kinh nghiệm và kinh nghiệm này phải thường xuyên cần có sự nghi


ngờ. Nhưng sự nghi ngờ của ơng khơng mang tính bi quan mà mang tính chất
nghi ngờ khoa học. Đây cũng là điểm có ảnh hưởng khá lớn tới tư tưởng của
Montesquieu sau này. Bên cạnh đó, Montaigne cũng đưa ra quan niệm về
hạnh phúc, sống theo bản tính tự nhiên và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong tư
tưởng đạo đức học. Trong điều kiện của nước Pháp khi ấy thì việc đề cao cá
nhân con người là những tư tưởng nhân đạo tiến bộ. Điều quan trọng nhất với
con người, theo Montaigne, là con người phải “biết sống”. Con người phải
biết phục tùng các quy tắc xã hội, phù hợp với xã hội và trí tuệ con người. Rõ
ràng, Montaigne, mặc dù đề cao cái tôi của con người nhưng vẫn chú ý tới
việc chấp hành các quy tắc xã hội của các cá nhân. Hơn nữa những tư tưởng
của của Montaigne có tính chất tiến bộ ở chỗ nó thể hiện sự chống lại lý
thuyết phong kiến và nhà thờ về nguồn gốc và bản chất thần bí của nhà nước.
Có thể nói, Montaigne là người đặt nền móng bước đầu cho các quan niệm về
pháp quyền tự nhiên và chủ nghĩa nhân văn đề cao vai trò của con người trong
xã hội. Những tư tưởng của ơng có ảnh hưởng lớn tới các quan niệm pháp
quyền của các nhà triết học Khai sáng cận đại sau này, trong đó có
Montesquieu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

với những tiến bộ về khoa học - kỹ thuật đã tạo điều kiện cho quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa hình thành. Cùng với sự phát triển của kinh tế tư bản
chủ nghĩa, đời sống chính trị các nước phương Tây có nhiều biến động mạnh
mẽ. Nói như G.L.Lepnit thì giai đoạn này “một trật tự mới của các sự vật đã
bắt đầu”. Đây cũng là giai đoạn gắn liền với tên tuổi của B. Spinoza, T.
Hobbes, J. Locke- những triết gia có ảnh hưởng sâu đậm tới những quan niệm
pháp quyền của Montesquieu.


B. Spinoza (1632-1677) là triết gia tiểu biểu người Hà Lan. Cuộc đời
và nhân cách của ông được ví như triết gia Socrat thời Hy Lạp cổ đại bởi lẽ
“Ngồi Socrat ra, khó có thể tìm được một triết gia nào hơn Barrush Spinoza
vì nhân cách của ông. Giống như Socrat, Spinoza không bận tâm về quyền lực


và của cải. Giống như Socrat, ông bị tố cáo là vô thần và bị săn lùng vì niềm
tin khơng chính thống của ơng. Và cũng giống như Socrats, ông say mê triết
học như một lối sống, chứ không như một bộ môn chuyên ngành” [1; 328].
Theo chúng tôi, ảnh hưởng của B. Spinoza tới Montesquieu trên hai khía
cạnh: lý thuyết pháp quyền tự nhiên và quan niệm về tự do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

không phải do Chúa tạo ra mà do sự thỏa thuận của con người với nhau để
phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình. Tiếp thu quan điểm của
<i>Spinoza, Montesquieu dành cả chương 2 quyển I trong tác phẩm Bàn về tinh </i>
<i>thần pháp luật để bàn về luật tự nhiên. Montesquieu khẳng định rằng “trước </i>
khi có những luật quy định nói trên thì đã có những luật của thiên nhiên tạo ra
sự tồn tại của chúng ta” [40; 40].


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

chống đối và con người không thể chịu được với các luật lệ kết tội tín ngưỡng
của họ. Trên cơ sở đó, Spinoza coi hình thức tốt nhất là chế độ dân chủ. Ơng cho
rằng trong hình thức chính thể này lợi ích chung, sự ngự trị và tự do được bảo
đảm hơn, các thành viên bình đẳng như trước đây trong trạng thái tự nhiên.


Lý thuyết pháp quyền tự nhiên và những quan niệm về tự do của
Spinoza thể hiện lập trường tư tưởng của giai cấp tư sản mới lên, đấu tranh
chống lại tính chất phi lý của chế độ phong kiến. Họ mong muốn thiết lập một
trật tự xã hội mới tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, học thuyết chính trị của Spinoza
còn chứa đựng nội dung nhân văn sâu sắc, vì con người và xã hội lồi người.
Spinoza được coi là một trong những triết gia cận đại đầu tiên và có ảnh
hưởng lớn tới các triết gia cùng thời và sau ơng, trong đó có Montesquieu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Xuất phát từ bản tính trên của con người, Hobbes đi tới khẳng định
khơng có trạng thái hịa bình và tương trợ trong xã hội con người nếu thiếu một
nhà nước mạnh. Theo ông, để đảm bảo trạng thái hịa bình thì con người cần đi
tới ký kết khế ước xã hội. Và khế ước xã hội này chỉ được ký kết khi nhân dân


chuyển giao quyền tự nhiên của mình cho nhà nước và phục tùng tuyệt đối
mệnh lệnh của người cầm quyền. Học thuyết của Hobbes có tính chất tiến bộ ở
chỗ nó đấu tranh chống lại các lý thuyết dưới chế độ phong kiến về nguồn gốc
và bản chất thần bí của nhà nước. Quan niệm của ông cũng giống như Spinoza
đều phản ánh nguyện vọng của giai cấp tư sản đang lên, đối lập với các tư
tưởng có tính chất bảo thủ của thần học và chủ nghĩa kinh viện Trung cổ.
Những tư tưởng này không thể không ảnh hưởng tới Montesquieu.


J. Locke (1632- 1704) là một trong những nhà triết học chính trị lớn có
<i>ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp hơn cả tới Montesquieu. Tác phẩm Khảo luận </i>
<i>thứ hai về chính quyền của ơng được xuất bản cách đây hơn 300 năm, song </i>
giá trị của nó khơng bị thời gian phủ lấp. Từ những tư tưởng của Locke mà ba
cuộc cách mạng lớn của thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII: Cách mạng tư sản Anh,
cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã “Bắt rễ của chúng trong pháp quyền tự
<i>nhiên” [18, 503]. Trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền Locke đã </i>
phê phán gay gắt các quan điểm về nguồn gốc thần thánh của vua chúa, đồng
thời ông cũng đưa ra các quan điểm về trạng thái tự nhiên, về quyền lực chính
trị, về khế ước xã hội, về chủ quyền nhân dân…những tư tưởng đó vẫn chứa
đựng giá trị thực tiễn sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

thức của con người bắt nguồn từ kinh nghiệm. Nếu như Hobbes lý giải bản
tính tự nhiên của con người là tính ác thì quan điểm của Locke có phần ngược
lại. Locke cho rằng bản chất con người là tính thiện nhưng do mơi trường tác
động có thể dẫn tới bị hư hỏng. Cùng xuất phát từ trạng thái tự nhiên của con
người nhưng Hobbes thiên về cảnh báo lồi người cịn Locke thiên về khẳng
định nhân tính con người. Locke cho rằng trong trạng thái tự nhiên con người
có thể sống hồn tồn phù hợp với nhân tính của mình. Locke khẳng định cái
đầu tiên mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là tính bình đẳng. Bình đẳng tự nhiên
trong quan niệm của ông chứa đựng một thực tế hết sức quan trọng với xã hội
dân chủ đó là: Chính quyền hay pháp luật cũng chỉ là phương tiện hỗ trợ chứ


không phải mục đích tự thân. Quan niệm về bình đẳng tự nhiên của Locke
phản ánh phương diện xã hội của con người ở chỗ ông đã chỉ cho một thực tế
rằng: Con người có thể bất bình đẳng về tự nhiên nhưng khơng thể bất bình
đẳng về xã hội. Những quan niệm này của Locke đã trở thành tiền đề quan
trọng cho cách mạng tư sản.


Trong trạng thái tự nhiên, Locke tiếp tục khẳng định sự tự do khơng
giới hạn của con người. Ơng cho rằng con người có được tự do vơ hạn vì con
người chỉ chịu sự chi phối những giá trị mà họ tự nguyện chấp nhận. Tuy
nhiên Locke cũng khẳng định rất rõ tự do vô hạn của con người không đồng
nhất với việc con người muốn làm gì thì làm. Đây là tự do đối lập với sự độc
đoán chuyên quyền, bạo lực và cả sự vô pháp luật. Quan điểm về tự do này
của Locke được Montesquieu phát triển hơn khi ơng trình bày về tự do và tự
<i>do chính trị trong Bàn về tinh thần pháp luật. Montesquieu cho rằng “Tự do là </i>
quyền được làm tất cả những gì mà luật pháp cho phép” [40, 105]. Khi nói tới
tự do vơ hạn Locke muốn ẩn ý tới những giới hạn của quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước khi can thiệp vào tự do con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

thuộc về bản thân con người hay những gì do bản thân con người tạo ra.
Locke viết: “Mặc dù những vật thể tự nhiên được đem lại cho mọi người cho
mọi người cùng nhau sử dụng, nhưng vốn là chủ nhân đối với bản thân và là
chủ sở hữu đối với cá nhân mình, đối với những hành vi và lao động của
mình, với tư cách như vậy, con người có một cơ sở vĩ đại cho sở hữu ở trong
chính mình” [Dẫn theo 20, 397]. Với quan điểm này, Locke cảnh báo quyền
lực nhà nước phải tôn trọng nhân phẩm và tài sản của con người. Khơng dừng
lại ở đó, Locke tiếp tục khẳng định trọng trạng thái tự nhiên, phẩm chất thứ tư
của con người là quyền lực tuyệt đối trong việc bảo vệ sự bình đẳng, tự do, sở
hữu tự nhiên của mình chống lại bất kỳ sự xâm phạm nào.


Có thể nói, những quan điểm nêu trên về nhân quyền được Locke xây


dựng như là tiền đề để ông đi vào luận chứng các nguyên tắc quyền lực của
nhà nước. Locke khẳng định những quan điểm nêu trên của ông trong trạng
thái tự nhiên là lý tưởng vì con người đã bước vào trạng thái cơng dân từ lâu
rồi. Trong trạng thái cơng dân, tính cộng đồng, xã hội cùng tồn tại với tính tự
nhiên. Do đó theo Locke xây dựng quyền lực nhà nước phải tính tới mối quan
hệ nguyên tắc tự nhiên và xã hội. Tức là khi xây dựng luật pháp cần phải chú
ý tới ranh giới một bên là quyền lực nhà nước và một bên là quyền tự do của
con người. Locke cho rằng cần thiết lập khế ước xã hội như là phương thức
chuyển tiếp sang xã hội công dân. Thực chất khế ước xã hội là sự thỏa thuận
giữa công dân với nhau trong xã hội để hợp nhất cộng đồng nhằm mục đích
“để sống chung cho thuận tiện, hạnh phúc và hịa bình, để sử dụng sở hữu của
mình một cách thanh bình và có được sự an tồn lớn hơn so với những người
không là thành viên của xã hội” [Dẫn theo 20, 399].


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

nhân về mặt triết học. Và chủ nghĩa cá nhân đã trở thành nhân tố chi phối
cách thức tính chất nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Locke
được coi là người khởi thảo một cách chính thức học thuyết tam quyền phân
lập với ba quyền lực nhà nước được gọi tên: Lập pháp, hành pháp và tư pháp
cơ quan ngoại giao, chưa có tư pháp.


Trong ba quyền này, Locke đề cao vai trò của quyền lập pháp, song ơng
khẳng định nó khơng phải là quyền vô hạn mà bị giới hạn bởi những điều kiện
nhất định. Quan niệm về tam quyền phân lập của Locke được Montesquieu sau
này tiếp tục nghiên cứu, phát triển và hoàn bị thêm nội hàm khái niệm này.


Trong học thuyết chính trị của mình, Locke cũng chú ý tới vai trò của
nhân dân như là một yếu tố hạn chế sự làm quyền của nhà nước. Ông coi nhân
dân là chủ thể tối cao của quyền lực trong xã hội. Locke đã dành cả chương
<i>XIX trong Khảo luận thứ hai về chính quyền để bàn về sự giải thể chính </i>
quyền nhà nước. Ơng khẳng định trong mọi trường hợp thì “nhân dân sẽ là


người phán xét” [33, 311], thậm chí ngay cả khi quân vương hay cơ quan lập
pháp có hành động sai trái. Trong trường hợp chính phủ khơng cịn cịn phát
huy được tác dụng Locke cho rằng “Nhân dân có quyền hành động với tư
cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục cơng việc lập pháp hoặc dựng lên
một hình thức chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ đó nhưng phải đặt
vào tay những con người mới, theo những gì họ cho là tốt đẹp” [33, 314].


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b>CHƢƠNG 2 </b>


<i><b>“BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT” - NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN </b></i>
<b>VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN CỦA Ch.S. MONTESQUIEU </b>
<i><b>2.1. Tổng quan về tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật </b></i>


<i><b>2.1.1. Kết cấu tác phẩm </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i>Tinh thần pháp luật ở đây cần phải hiểu đó là bản chất của hệ thống </i>
pháp luật. Và bản chất của hệ thống pháp luật đó chính là cái hồn, cái cốt lõi
của tác phẩm mà Montesquieu muốn luận bàn. Trong mở đầu của chương 1,
<i>Montesquieu có đưa ra cách hiểu về Luật nói chung. Theo ông, Luật theo </i>
nghĩa rộng nhất là “những quan hệ tất yếu trong bản chất sự vật”. Với nghĩa
đầy đủ như thế Montesquieu cho rằng mọi vật đều có luật, thế giới thần linh,
thế giới vật chất, những trí tuệ siêu việt đến các lồi vật và lồi người đều có
<i>luật của mình. Nhưng cần lưu ý, Luật ở đây Montesquieu dùng khơng đồng </i>
<i>nhất với luật pháp nói chung. Bởi lẽ, Luật ở đây là quan hệ trong tương quan </i>
với bản chất sự vật. Và pháp luật chỉ là một thành tố trong Luật nói chung mà
thơi. Nhưng Montesquieu cũng giải thích ln rằng: ơng khơng đi vào nghiên
cứu Luật nói chung, Montesquieu chỉ tập trung vào cái tinh thần của pháp
luật. Đó là cái bản chất, cái cốt lõi bên trong của hệ thống pháp luật mà ông
muốn luận bàn trong nghiên cứu của mình. Xuất phát từ điều này
Montesquieu triển khai khảo sát ba chính thể trong lịch sử và các nguyên tắc


cơ bản của các chính thể đó. Đồng thời ơng cũng phân tích mối tương quan
giữa luật pháp với các nhân tố khác như: khí hậu, phong tục, đất đai, tôn
giáo…và các nhà nước trong lịch sử để thấy trọn vẹn tinh thần của pháp luật.


<i>Bàn về tinh thần pháp luật là cơng trình tâm huyết nghiên cứu hai mươi </i>
năm của Montesquieu, tác phẩm gồm 31 quyển với hơn 600 chương. Bản dịch
<i>Bàn về tinh thần pháp luật của Hoàng Thanh Đạm tương đối đầy đủ, bổ sung </i>
thêm bản dịch của người tiền bối Trịnh Xuân Ngạn. Cấu trúc tác phẩm được
chia thành sáu phần:


<i>Phần thứ nhất: Từ quyển I tới quyển VIII: Montesquieu bàn về pháp luật, </i>
nguyên nhân của sự nảy sinh, hình thành pháp luật và tương quan với các chính thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

với ba chính thể mà ông khảo sát trong lịch sử. Trong phần này, Montesquieu
bàn nhiều hơn cả về lý thuyết tam quyền phân lập và việc phân định ba quyền
đó áp dụng ở Anh quốc.


<i>Phần thứ ba: Từ quyển XIV tới quyển XIX: Montesquieu phân tích </i>
các nguyên nhân với tính cách vật chất – khách quan (tính chất của khí hậu,
đất đai) hay tinh thần (tập quán hay phong tục của mỗi nước) ảnh hưởng tới
luật pháp.


<i>Phần thứ tư: Từ quyển XX tới quyển XXIII: Montesquieu tiếp tục </i>
nghiên cứu nguyên nhân với tích cách kinh tế và nhân khẩu ảnh hưởng tới
pháp luật.


<i>Phần thứ năm: Từ quyển XXIV tới quyển XXVI: Montesquieu trình </i>
bày những nguyên nhân tâm linh có ảnh hưởng tới pháp luật. Ơng phân tích
khá sâu sắc mối quan hệ giữa tôn giáo và pháp luật. Đồng thời trong phần
này, Montesquieu cũng xem xét mối quan hệ giữa luật pháp và các đối tượng


mà luật pháp quy định.


<i>Phần thứ sáu: Từ quyển XXVIII tới hết quyển XXXI: Montesquieu </i>
khảo cứu về lịch sử minh chứng cho tinh thần pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

phụ của pháp luật như khí hậu, phong tục, tơn giáo…các quyển sau là sự khảo
cứu tư liệu lịch sử chứng minh cho tinh thần pháp luật. Trong toàn bộ tác
phẩm, Montesquieu luôn quán triệt quan điểm toàn diện và tư duy duy lý chặt
chẽ, lôgic rất đặc trưng cho tư duy văn hóa Pháp nói riêng và châu Âu nói
<i>chung. Bàn về tinh thần pháp luật là thành quả nghiên cứu trong suốt hai </i>
mươi năm của Montesquieu và có lẽ sẽ là vội vàng đưa ra đánh giá nếu chỉ
một vài lần đọc tác phẩm.


<i><b>2.1.2. Nội dung cơ bản của tác phẩm </b></i>


<i>Ngay trong Lời tựa Montesquieu đã tóm tắt nội dung tác phẩm và lưu ý </i>
những điểm chủ yếu về mặt phương pháp tác phẩm. Ông đã khảo cứu và suy
xét kỹ lưỡng hệ vấn đề chính của luật pháp ở châu Âu do đó khi nghiên cứu
tác phẩm Montesquieu đã đề nghị nghiên cứu trong “tính tồn vẹn của tư duy
và tính chỉnh thể” của tác phẩm. Để có thể nắm được ý đồ của tác phẩm và
toàn bộ cuốn sách chứ khơng phải là các tiểu tiết của nó. Nội dung bao qt
tồn bộ tác phẩm được ơng khái quát như sau:


1. Lịch sử các quốc gia dân tộc không chỉ là những lịch sử cá biệt, tồn
tại trong tính đơn nhất của nó mà nó cịn là một q trình liên tục - có sự kế
thừa tiếp biến và phát triển. Do đó tìm ra điểm chung và khái quát nó thành
<i>các nguyên tắc, xem xét sự việc “bản chất của sự vật" [40, 37] đó là tinh </i>
<i>thần mà ơng đã nghiên cứu tác phẩm. </i>


2. Từ sự xem xét đó không tránh khỏi việc chúng ta phải bỏ qua một số


tiểu tiết để nắm lấy cái chính yếu, cái bản chất từ khía cạnh chính trị đối với
quốc gia dân tộc - đó là quyền lực chính trị tối cao, biểu hiện thông qua hiến
pháp của quốc gia trong quan hệ với thể chế chính trị - pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

luật cho sự cai trị của mình, thế nhưng sự cai trị khơng chỉ dựa trên sự ngu dốt
hay cưỡng chế mà cần đòi hỏi tính tự nguyện, sự tự ý thức của người bị cai trị
vì thế trong mối tương quan này nhà cai trị và người bị cai trị đều cần được
soi sáng tức là nắm được tinh thần pháp luật và quan hệ của chúng xét từ mối
tương tác giữa thể chế chính trị - pháp luật với cơng dân.


4. Với điểm tựa đó Montesquieu tin rằng con người là một thực thể có
lý tính thơng qua giáo dục chúng ta có thể làm thay đổi định kiến của họ từ đó
giáo dục và tự giáo dục làm thay đổi bản chất và đưa con người tới một xã hội
tốt đẹp hơn mà ở đó họ ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình.


Theo Montesquieu trong khi khảo cứu về tinh thần pháp luật, yếu tố đầu
tiên mà chúng ta lưu ý là quan hệ pháp luật và thể chế chính trị. Theo tác giả nên
xuất phát từ đạo đức để khảo cứu vấn đề này, cố nhiên ở đây khơng đạo đức hố
nền chính trị mà chỉ xem đó là một chiều cạnh mà thơi. Montesquieu xét về lập
trường chính trị ngả về thể chế cộng hồ đặc biệt là Cộng hoà dân chủ - Liên
bang mà theo ơng nơi đó là "Tình u Tổ quốc và tình yêu đối với sự bình đẳng"
[40, 35] - sự hiện tồn của nó là yếu tố quan trọng nhất cấu thành phẩm hạnh
chính trị của người cai trị và cơng dân trong thể chế đó.


Montesquieu cho rằng: "Phẩm hạnh chính trị là động cơ thúc đẩy hoạt
động của chính thể cộng hoà cũng như danh diện là động cơ thúc đẩy chế độ
qn chủ. Vì thế tơi gọi phẩm hạnh chính trị là tình u Tổ quốc và tình u sự
bình đẳng" [40, 35]. Do đó, mọi chính thể đều phải được xét từ phẩm hạnh chính
trị, từ tính phổ quát của phẩm hạnh chính trị xác định trong các chính thể đó.



<b>2.2. Quan niệm về ngu n gốc ản chất và nguyên t c của nhà nƣớc </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

xã hội loài người. Và trình độ đầu tiên đó là trạng thái tự nhiên của con người.
Trong trạng thái tự nhiên này, con người sống chủ yếu bằng cảm giác và kinh
nghiệm. Montesquieu viện dẫn hình ảnh người nguyên thủy làm dẫn chứng cho
điều này, ơng nói: “Hãy tìm một người nguyên thủy trong rừng: cái gì cũng làm
cho anh ta sợ hãi và chạy trốn. Trong trạng thái đó, mỗi người đều thấy mình
thấp kém và hầu như ai cũng như mình” [40, 41]. Và cũng trong trạng thái tự
nhiên này, con người vận động và phát triển theo các quy luật tự nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Montesquieu đã đi từ con người cá thể (quy luật một và hai) tới sự kết hợp hai
cá thể (quy luật ba) và nhu cầu sinh sống thành xã hội (quy luật tư). Đó là
những cơ sở cho sự thiết lập gia đình, xã hội và nhà nước trong lịch sử. Ở
đây, Montesquieu khẳng định rất rõ là: Tình cảm đầu tiên của con người
không phải là mong muốn thống trị. Mong muốn thống trị chỉ xuất hiện khi
con người có sự thay đổi về trí tuệ và tài năng, muốn giành giật lợi ích của
người khác. Chúng ta có thể thấy khá rõ trong quan niệm này Montesqueieu
đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của các nhà triết học đương thời về trạng thái tự
nhiên. Và theo đó, luật tự nhiên và quyền tự nhiên đã trở thành một trong
những xu hướng nghiên cứu chính trong luật học và triết học chính trị thế kỷ
XVI- XVII. Do đó chúng ta cũng dễ nhận thấy sự tương đồng trong quan
niệm của Montesqueiu, Rousseau và Hobbes, Loke.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

quốc tế. Ơng viết: “Cơng pháp quốc tế tất nhiên phải dựa trên nguyên tắc: mỗi
một dân tộc trong hịa bình phải làm điều tốt nhất, trong chiến tranh phải cố
gắng hết sức mình làm ít điều xấu cho lợi ích thực tế của loài người” [40, 43].
Quan điểm này của Montesquieu khá tiến bộ khi ông bàn tới thiết chế duy trì
mối quan hệ con người với con người trong xã hội cũng như việc thiết lập các
quy tắc ứng xử giữa các dân tộc với nhau.



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Montesquieu đã viết: “Nếu như vô số những điều sách này viết ra, có điều nào
làm cho bạn đọc khó chịu, trái với mong đợi của tơi, thì ít ra cũng không phải
là tôi viết với ác ý. Tơi khơng hề có ý bài xích. Platon đã từng cảm ơn Trời
được sinh vào thời Socrate, thì tôi cũng xin cảm ơn Trời được sống dưới thời
chính phủ này” [40, 31].


Khi nghiên cứu về nhà nước, các nhà triết học chính trị cũng đánh giá
cao những đóng góp của Montesquieu trong việc phân biệt hai khái niệm cơ
<i>bản để nghiên cứu về các hình thức nhà nước. Hai khái niệm đó là: Bản chất </i>
<i>của nhà nước và Nguyên t c của nhà nước. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Từ sự phân tích về nguồn gốc nhà nước và hai cơng cụ của hình thức
nhà nước (Bản chất và Nguyên tắc của nhà nước), Montesquieu bắt tay vào
việc khảo cứu tỉ mỉ các hình thức nhà nước cụ thể trong lịch sử. Từ lịch sử đã
hiện tồn, Montesquieu cho rằng đã có ba loại chính thể hay ba phương thức
cai trị: dân chủ, quân chủ và chuyên chế. Ông định nghĩa: “Chính thể dân chủ
là chính thể mà dân chúng hay một bộ phận dân chúng có quyền lực tối cao.
Chính thể qn chủ thì chì một người cai trị, nhưng cai trị bằng luật pháp hẳn
hoi. Trong chính thể chun chế thì trái lại, chỉ một người cai trị, mà khơng
có luật lệ gì hết, chỉ theo ý chí và sở thích của hắn ta mà thôi” [40, 46]. Sự
phân chia và định nghĩa đó về cơ bản khơng khác mấy so với các triết gia về
lịch sử chính trị như: Aristote, Poliby… Điểm mới trong quan niệm về chính
thể đó là sự tương quan của nó với pháp luật, tinh thần pháp luật là như thế
nào Đây chính là điều mà Montesquieu đã làm nổi bật.


Trong các thể chế đó sự phân định các thể chế ban đầu xuất phát từ số
lượng người nắm quyền, dần dần nó được chuyển hóa thành chế độ cai trị
khác nhau. Khảo cứu nền chính trị cộng hoà, mức độ tham gia của dân chúng
sẽ tạo nên thể chế cộng hoà dân chủ (toàn thể dân chúng), hoặc Cộng hoà quý
tộc (một bộ phận dân chúng - quý tộc) và chính thể chuyên chế (một kẻ cai trị


duy nhất). Từ khía cạnh pháp luật Montesqueiu viết: “Luật quy định đầu
phiếu là luật cơ bản của chính thể dân chủ” [40, 47], cùng với nó: “Luật về
cách bầu cử cũng là một luật cơ bản trong nền dân chủ” [40, 51]. Với hệ
<i>thống pháp luật đó chính thể cộng hồ dân chủ là chính thể mà ở đó: “Dân </i>
chúng có quyền lực tối cao. Phải tự mình làm lấy những điều có thể làm tốt
được, cịn những điều mà dân khơng thể làm tốt thì phải giao cho các vị bộ
trưởng thừa hành” [40, 48]. Montesquieu xác lập nền dân chủ từ sự tham gia
tối đa của quần chúng vào việc cai trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

nằm trong tay nhà vua, các chức vụ còn lại chỉ là “Tai mắt” của sự chuyên
chế mà thôi.


Sự vận hành của thể chế quý tộc thì gắn liền với viện Nguyên lão, nơi
đó các nhà quý tộc định ra pháp luật để cai trị dân chúng. Sự phân tích trên
cho thấy thể chế chính trị và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau,
Montesquieu đã cho thấy rằng:


<i>Một là: Khơng có thể chế nào là tuyệt đối. </i>


<i>Hai là: Sự cân bằng hay nói chính xác là sự phân chia và phối hợp </i>
quyền lực của Nhà nước và vai trò của dân chúng thông qua hệ thống pháp
luật là đối tượng được khảo cứu. Qua đó cho ta biết chính thể đó thuộc loại nào.


Rộng hơn nữa, Montesquieu đi tìm nguyên tắc của các chính thể đó.
Với chính thể dân chủ: “Người dân chấp hành luật pháp với ý thức mình làm
cho mình, tự gánh lấy gánh nặng của mình” [40, 56], vì thế nguyên tắc cơ bản
của thể chế dân chủ - sự tham gia rộng rãi của quần chúng trên cơ sở ý thức
<i>về pháp luật (quyền và nghĩa vụ của mình). </i>


Chính thể qn chủ thì gắn liền với nguyên tắc về sự danh diện. Chính


thể chuyên chế - nguyên tắc cơ bản: sự sợ hãi. Montesquieu cũng lưu ý không
nên tuyệt đối các nguyên tắc cấu thành chính thể mà các ngun tắc này có
tính tương đối và khi nghiên cứu phải khảo sát từ sự biểu hiện xem như tính
chất của chính thể đó. Để đạt được điều này cần tới giáo dục và tất yếu có luật
giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

trong chính thể chuyên chế là sự sợ hãi” [40, 59]. Các nền giáo dục tương
thích với điều đó phải hướng tới các nguyên tắc. Montesquieu có tư tưởng rất
hay khi nói giáo dục luật pháp trong gia đình ở nước cộng hòa như sau:
“Muốn cho trẻ em có tình u luật pháp và tổ quốc thì điều chắc chắn là ơng
bố trong gia đình đó phải có tình u ấy đã” [40, 66].


Trong chính thể qn chủ theo ơng: “Ở các nước qn chủ không phải
là từ nhà trường dạy trẻ người ta đã tiếp thu được sự giáo dục chính yếu. Chỉ
đến khi bước vào đời, người ta mới tiếp thu giáo dục: đó là nhà trường của
danh diện, ơng thầy học tổng qt dìu dắt chúng ta khắp nơi” [40, 60]. Đó là
sự khái quát tinh tế về nền giáo dục của chính thể quân chủ. Tính chất của nền
giáo dục này đem lại ý niệm về sự cao quý, sự thật thà và lễ độ như những
quy tắc cơ bản của nền đạo đức xã hội. Theo ý kiến của một số nhà nghiên
cứu, Montesquieu đã cường điệu hoá nền giáo dục phong kiến.


Trong chính thể chuyên chế: “Giáo dục là một công cụ nô dịch” [40,
64]. Nó là nền giáo dục hạ thấp trái tim, nơi “Sự phục tùng tuyệt đối đòi hỏi
sự ngu dốt của người thừa hành và sự ngu dốt của người chỉ huy” [40, 64].
Thực tế là sự cai trị độc đoán tất yếu dẫn tới “Phải tước bỏ tất cả để đưa vào
đầu óc người ta một cái gì, và bắt đầu bằng cách biến một thần dân xấu thành
nô lệ tốt” [40, 64].


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

đẩy cho chính thể phát triển và ngược lại tạo thêm sức mạnh cho các nguyên
tắc” [40, 67].



Các nguyên tắc của ba thể chế là những nền tảng để nhà lập pháp định
hình pháp luật trong sự tương thích với nó. Với chính thể dân chủ cần tới đạo
đức chính trị cụ thể là thể chế cộng hồ dân chủ là lịng u dân chủ và lịng
u sự bình đẳng. Montesquieu đã nhận thấy dân chủ bình đẳng có mối quan
hệ mật thiết với nhau, song giữa chúng có sự chế ước nhất định vì thế: “Khơng
thể trao cho mọi người những cơng việc như nhau, nhưng phải coi mọi người là
ngang nhau khi trao công việc” [40, 69]. Rõ ràng ông đã nhận thấy nguy cơ khi
sự bất bình đẳng được pháp luật thừa nhận cũng như chiều ngược lại - sự bình
đẳng thái quá. Montesquieu viết rằng: “Mọi sự bình đẳng trong chính thể dân
chủ đều phải tương đối hợp với bản chất của nền dân chủ” [40, 71].


Với chính thể quân chủ và chính thể chuyên chế Montesquieu đưa ra
hình ảnh ẩn dụ khá thú vị: “Những người dã man ở xứ Louisiane muốn ăn quả
thì chặt cây từ gốc cho cây đổ xuống để hái quả. Chính thể chuyên chế là như
thế đó!” [40, 74]. Vì thế pháp luật trong chính thể chuyên chế mang tính đặc
thù - sự sợ hãi là nguyên tắc cơ bản, pháp luật bị thu hẹp ở mức tối thiểu, nếu
có nó ln bị chế ước bởi quyền lực tập trung của một người. Để người dân
sống trong đó khơng chống lại sự hà khắc đó, người ta cần đến tơn giáo như
một sự mỵ dân. Ông nhận xét: “Một sự sợ hãi góp thêm vào sự sợ hãi có sẵn”
[40, 75-76].


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

chính thể này. Do đó sự tham gia của người dân vào chính thể được xem là
nhân tố cơ bản để nhận diện chính thể này. Ơng viết: “Chính thể càng gần dân
chủ thì cách phán xử càng cố định” [40, 78].


Với chính thể chun chế thì Montesquieu cho rằng “Chẳng có luật nào
cả” [40, 78]. Tính đặc thù của chính thể chuyên chế: hạn chế quyền của dân
chúng tập trung quyền lực vào trong tay một người, pháp luật là quyền của
người nắm quyền lực cao nhất, do vậy nó mang tính hình thức, về thực chất


nó chỉ mang tính trừng phạt và tạo nên sự sợ hãi là chủ yếu. Với chính thể
quân chủ các yếu tố đó được biểu hiện rõ ràng trong giai đoạn hiện tồn của
chế độ phong kiến, biểu hiện qua sự hoạt động của viện nguyên lão.


Khảo sát tổng quát Montesquieu đã đặt vấn đề cần lưu ý với các nhà
ban hành luật pháp như sau:


- Khi ban hành và áp dụng pháp luật cần chú ý tới tính ổn định
của pháp luật.


- Phải cân đối giữa trừng phạt và xét xử trong hệ thống luật dân sự và
luật hình sự. Đảm bảo tính ổn định tức là không phải đe doạ với công dân mà
để công dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của họ.


- Ông đề nghị pháp luật nên chú ý đến hạn chế sự xa hoa và những điều
kiện liên quan đến phụ nữ. Vì theo ơng: “Xa hoa ln tỷ lệ với tình trạng bất
bình đẳng về tài sản. Nếu trong một nước tài sản được công bố công bằng
không có sự xa hoa. Xa hoa là dựa trên những tiện nghi sắm được bằng lao
động của người khác” [40, 85]. Có thể nói Montesquieu là một nhà cấp tiến
trong quan niệm về giải phóng phụ nữ, khi ơng nói: “Đàn bà cầm đầu cả quốc
gia thì chẳng có gì trái với lý trí tự nhiên cả” [40, 87].


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

mà còn trong trường hợp người ta hiểu bình đẳng một cách cực đoan, và mỗi
người đều muốn ngang bằng với các vị mà họ đã bầu làm người điều khiển xã
hội” [40, 88]- thì nguy cơ xa đoạ ở chính thể xuất hiện. Nó dẫn tới khả năng
phá vỡ tính dân chủ đưa xã hội về trạng thái vơ chính phủ và sự tự do tuyệt
đối. Đồng thời chính thể dân chủ cũng sẽ dẫn tới sự xa đoạ khi nó duy trì q
lâu sự bất bình đẳng thái quá. Với chính thể chuyên chế, sự xa đoạ xuất phát
từ bản chất của nó. Montesquieu cho rằng cái xấu xuất phát từ bản chất thì
khơng thể sửa chữa được vì thế chính thể chun chế ln tồn tại trong sự xa


đoạ. Với chính thể quân chủ sự xa đọa xuất hiện khi: “Nhà quý tộc biến thành
nhà độc tài” [40, 91]. Và hệ quả là: “Nguyên tắc của nền quân chủ bị nó xa
đọa khi mà các ơng lớn khơng được nhân dân kính trọng nữa, và người ta phải
dùng đến những công cụ tồi tệ của chính quyền độc tài để bắt dân kính trọng”
[40, 93]. Ở chính thể chuyên chế, sự xa đoạ không những do bản chất của
chính thể này mà nó cịn biểu hiện từ ngay quá trình thực hiện thể chế này dù
đơi lúc nó có dịu bớt. Có thể nhận thấy khá rõ khi phân tích ba hình thức
chính thể trong lịch sử, Montesquieu dành nhiều thiện cảm hơn cả cho thể chể
cộng hịa mặc dù đơi lúc ơng vẫn còn bộc lộ tư tưởng thỏa hiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

luật phải phù hợp với chúng. Thêm vào đó, Montesquieu coi sự biến dạng, tha
hóa của các nguyên tắc pháp luật như là nguyên nhân căn bản của sự thay đổi
các thể chế nhà nước trong lịch sử, chứ Montesquieu chưa nhận thấy các
nguyên nhân: sự phát triển kinh tế, đấu tranh giai cấp, lợi ích của các tập đồn
đứng đằng sau việc hình thành các chính thể…Bên cạnh đó, Montesquieu có
xu hướng bác bỏ hình thức chính trị bằng con đường bạo lực, ông nghiêng
những cải cách ôn hịa nhưng ơng cũng khẳng định rất rõ lập trường về quyền
lực chính trị. Theo Montesquieu, trong các thể chế nhà nước, quyền lực vô
hạn không thể hợp pháp và ông cũng thừa nhận sự phản kháng chống lại nền
chuyên chế nhằm thiết lập quyền tự do tự nhiên của con người. Đây là điểm
khá tiến bộ trong tư tưởng của Montesquieu khi mà người ta vẫn xếp
Montesquieu - Đệ nhất Khai sáng Pháp thuộc tầng lớp quý tộc áo choàng.


<b>2.3. ý thuyết Tam quyền phân lập </b>


Nhiều nghiên cứu về Montesquieu đều khẳng định rằng: lý thuyết phân
quyền về nhà nước là một trong những đóng góp quan trọng nhất của
Montesquieu với triết học chính trị. Vấn đề này được ơng trình bày trong
quyển XI với tiêu đề “Các luật tạo ra tự do chính trị trong mối quan hệ với
Hiến pháp”. Qua đây ông muốn khảo sát một nền cai trị vừa phải, một chỉnh


thể hợp lý thì nên như thế nào. Với mục đích chống lại sự lạm dụng quyền lực
nhà nước, Montesquieu đưa ra một phương án cần phải phân chia quyền
phạm vi quyền lực để chúng có thể kiềm chế đối trọng lẫn nhau. Theo
Montesquieu chỉ như vậy thì con người mới tránh khỏi sự lạm dụng quyền
lực, vi phạm pháp luật và tôn trọng pháp luật. Bởi lẽ ông cho rằng “Nếu một
người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng
nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì mất hết cả” [40, 106].


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Ông đã lấy tự do và tự do công dân như là cơ sở để luận chứng cho lý thuyết
phân quyền của mình. Montesquieu với tư cách là nhà luật học đã đưa ra quan
niệm về niệm về tự do còn tồn tại tới ngày nay như sau: “Tự do là được làm
tất cả những điều mà luật pháp cho phép” [40, 105]. Và rõ ràng ngay trọng
định nghĩa về tự do này, Montesquieu vẫn coi pháp luật như là hệ quy chiếu
của tự do công dân. Hay nói cách khác tự do trong quan niệm của
Montesquieu “khơng tồn tại ở đâu khác bên ngồi địa hạt chính trị, nhà nước.
Nhà nước và các cá nhân xã hội là hai chủ thể chính trị. Chính trong mối quan
hệ giữa hai chủ thể chính trị này, phạm trù tự do, bình đẳng được biểu hiện
rõ.” [16, 43]. Trên cơ khái niệm tự do ở trên, Montesquieu đã đưa ra quan
niệm về tự do chính trị. Theo ơng “Tự do chính trị của cơng dân là sự n tâm
của mỗi người nghĩ rằng mình được an định. Muốn đảm bảo tự do chính trị
như vậy thì Chính phủ phải làm thế nào để một công dân này không phải sợ
một công dân khác” [40, 106].


Kế thừa các nhà tư tưởng đi trước, Montesquieu cho rằng “Trong một
quốc gia đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi pháp, những điều
hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”
[40, 105]. Montesquieu giải thích bên dưới đó là quyền hành pháp và quyền
tư pháp. Ông xem xét từng nhánh quyền lực và mối quan hệ giữa chúng để
khảo sát những tiêu chí của một nền cai trị vừa phải, một chính thể hợp lý
nhất cho mọi người. Theo tác giả luận văn, nội hàm các quyền này được


Montesquieu hiểu như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

“Một bên là đại biểu quý tộc, bên kia là đại biểu dân chúng. Mỗi bên có nghị
viện thảo luận riêng theo quan điểm và quyền lợi của mình” [40, 112]. Hai cơ
cấu này có quyền đình chỉ các dự định của nhau, và nhờ đó pháp luật được hai
bên biểu quyết sẽ có lợi cho mọi người. Đối với cơ quan lập pháp, ông quan
niệm chỉ nên làm ra luật và xem xét người ta làm như thế nào. Về điều này, tư
tưởng của Montesqueiu có điểm tương đồng với quan niệm ngày nay của chúng
ta về chức năng lập pháp và giám sát của Quốc hội.


<i>Quyền hành pháp là quyền chăm sóc an ninh, đối nội, đối ngoại, lãnh </i>
đạo dân chung sinh sống trong thời bình cũng như thời chiến trong khn khổ
pháp luật. Theo Montesquieu vì quyền này cần tới hành động nhất thời nên
quyền này không thể trao cho các thành viên của Quốc hội mà nên giao cho
một người thì tốt hơn. Ơng cho rằng “Quyền hành pháp thì phải nằm trong tay
một vị vua chúa” [40, 113]. Và để cho cơ quan hành pháp không áp bức dân
chúng thì theo Montesquieu “Quân đội trong tay cơ quan hành pháp phải
mang tính nhân dân, cùng lòng với dân như là ở Rome xưa dưới thời Marius”
[40, 118]. Và nếu như quyền lập pháp thể hiện ý chí chung của quốc gia thì
quyền hành pháp có nhiệm vụ thực hiện ý chí chung đó. Nếu như Rousseau
sau này ủng hộ một chính thể cộng hồ như một hình mẫu thể chế lý tưởng thì
Montesquieu ủng hộ mơ hình qn chủ lập hiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

người ta chỉ sợ cơ chế cai trị chứ không sợ các quan cai trị” [40, 108]. Rõ
ràng ở đây vấn đề được Montesquieu đặc biệt quan tâm là xây dựng pháp luật
(cơ chế cai trị) như thế nào. Ông cũng lưu ý sự công bằng là yếu tố quan trọng
trong quyền tư pháp nên “Các thẩm phán cũng cần ngang địa vị như bị cáo
hoặc đồng đẳng với bi cáo, để người bị cáo không nghĩ rằng mình đang nằm
trong tay những kẻ sẵn sàng làm hại mình” [40, 109]. Với các vụ án lớn,
người bị cáo tranh chấp với luật pháp theo Montesqueiu “cần được chọn thẩm


phán cho mình, hoặc ít ra là có quyền từ chối người thẩm phán đã được chỉ
định mà bị cáo khơng thích” [40, 108].


Có thể nói Montesquieu đã bổ sung những nội hàm về quyền tư pháp
khá tiến bộ so với những người đi trước và đương thời. Mặc dù có ý định hạn
chế quyền lực của quý tộc song trong tư tưởng của Montesquieu đôi lúc vẫn
chưa hồn tồn thốt khỏi sự thảo hiệp, ưu đãi nhất định đối với quý tộc khi
cho rằng: Không nên để dân chúng xét xử các ông lớn mà “chỉ nên đưa ra
trước bộ phận của cơ quan lập pháp chỉ gồm các nhà quý tộc mà thôi” [40,
<i>114]. Nhận xét về quyền tư pháp trong Bàn về tinh thần pháp luật, nhiều nhà </i>
nghiên cứu cho rằng: Sự bổ sung thêm quyền tư pháp chính là điểm mới của
Montesquieu làm cho học thuyết phân quyền của ơng hồn hảo hơn so với các
bậc tiền bối như J. Locke, T. Hosbbes.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57></div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Nhận xét về cơ chế vận động của ba quyền lực này, Montesquieu viết:
“Cả ba quyền lực này do ràng buộc lẫn nhau mà dường như nghỉ ngơi hay bất
động. Tuy nhiên, vì tính tất yếu của mọi sự vật là vận động nên cả ba quyền
lực vẫn buộc phải đi tới, mà đi tới một cách nhịp nhàng” [40, 117]. Như vậy,
đối với Montesquieu vấn đề không chỉ là phân biệt các quyền tách bạch giao
cho các cá nhân, cơ quan khác nhau thực hiện mà còn dùng quyền này để hạn
chế quyền kia song về nguyên tắc vẫn phải đảm bảo sự vận động nhịp nhàng
của bộ máy nhà nước. Montesquieu đã coi cơ chế kìm chế đối trọng giữa ba
quyền lực nhà nước này là một phương án nhằm bảo vệ quyền tự do của công
dân. Nhận xét về sự phân chia quyền lực nhà nước của Montesquieu trong
<i>Bàn về tinh thần pháp luật hầu hết giới nghiên cứu triết học chính trị đều </i>
khẳng định rằng: Tư tưởng của Montesquieu đều nhằm mục đích nhằm bảo về
tự do cho con người, chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước của bất kể
nhánh quyền lực nào. Và tự do công dân theo Montesquieu hồn tồn có thể
đạt được bằng con đường phân chia quyền lực thành lập pháp, hành pháp và
tư pháp theo cơ chế kìm chế đối trọng nhau. Tác giả luận văn đồng thuận với


nhận xét của Đồn Trọng Truyến khi ơng cho rằng: “Montesquieu là người đề
ra nguyên tắc phân lập một cách triệt để nhất, hồn chỉnh nhất. Ơng đưa tự sự
phân biệt chức năng một cách trừu tượng lên thành một sự phân lập các quyền
từ trong cơ cấu và nội tại của quyền lực” [59, 22]. Và ở đây hoàn tồn có thể
nhận thấy rằng: Tư tưởng phân quyền nhà nước không phải tới Montesquieu
mới đặt ra, song có nói chỉ tới Montesquieu, tính triệt để và hồn thiện mới
thực sự rõ nét hơn cả.


<b>2.4. Nhà nƣớc pháp quyền nhƣ là cơ sở đảm ảo quyền công dân </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Montesquieu cho rằng: “trong quan hệ với hiến pháp thì tự do chính trị
bao gồm sự phân phối ba quyền lực, nhưng trong quan hệ với cơng dân thì tự
do chính trị phải được xem xét dưới một ý niệm khác, tức là về mặt an ninh
hay trong quan niệm về an ninh” [40, 126]. Ở đây, Montesquieu đã thấy được
nguy cơ của tính hình thức trong việc cụ thể hố tự do chính trị, người cơng
dân khơng chỉ bị chế ước từ hiến pháp - luật hiến định cơ bản mà “tự do chính
trị trong quan hệ với công dân là do phong tục, tập quán, do những sự việc
hàng ngày mà nảy sinh, có một số luật dân sự tạo thêm sự thuận lợi cho nó”
[40, 127]. Trong quan niệm về tự do chính trị với cơng dân, tự do chính trị chỉ
liên quan tới các “hành động đã được thể hiện ra”, không phải là cái trong ý
nghĩ. Công dân chỉ được an ninh khi pháp luật đảm bảo sự đúng đắn giữa việc
ban hành luật với sự thực hành luật. Giải quyết vấn đề này pháp luật là cơng
cụ điều chỉnh cân bằng lợi ích của Nhà nước và cơng dân. Montesquieu giải
thích theo nghĩa triết học chữ “Tự do” hiểu là “được thực hiện ý chí của mình,
hoặc ít ra là được nói lên quan niệm về thực hiện ý chí ấy” [40, 127] và “tự do
công dân phụ thuộc chủ yếu vào luật hình sự” [40, 127]. Rõ ràng, tự do ở đây
“không phải là muốn làm gì thì làm” mà là làm “những gì pháp luật cho
phép”. Quan niệm về tự do công dân của Montesquieu ln gắn bó mật thiệt
với mối quan hệ với nhà nước và luật pháp. Montesquieu khẳng định một
cách chắc chắn rằng: Một công dân tự do là một công dân được đảm bảo an


ninh bằng pháp luật, nếu khơng thì “tự do khơng cịn nữa”. Để chứng minh
cho luận điểm này, Montesquieu viện dẫn hình ảnh ví von về một cơng dân bị
treo cổ trong nhà nước có luật pháp tốt đẹp và vị quan tòa nước Thổ Nhĩ Kỳ
khi đó. Montesquieu cho rằng người cơng dân đó cảm thấy tự do hơn vị quan
tòa Thổ Nhĩ Kỳ trong nhà nước khơng có trật tự pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

các cơng dân trong hoạt động của mình đã tạo ra các giá trị về mặt hữu hình
đó là thu nhập. Thu nhập đảm bảo đời sống của các cơng dân đồng thời nó là
một phần duy trì sự tồn tại của nhà nước. Do đó pháp luật cũng phải tham gia
vào việc điều chỉnh lĩnh vực này vì đó là một phần đóng góp của mỗi người
dân vừa đảm bảo an ninh quốc gia vừa để chính các cơng dân được hưởng nền
an ninh này một cách thoải mái nhất. Thu nhập quốc gia được thực hiện qua
việc đóng thuế cho Nhà nước. Nó duy trì hoạt động của Nhà nước và đảm bảo
chính quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân đối với Nhà nước và thông qua đó
các cơng dân được Nhà nước đảm bảo quyền và các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên,
Montesquieu cũng khuyến cáo ngay với các nhà luật pháp rằng “phải vận
dụng trí thơng minh và tính thận trọng để tính tốn, điều chỉnh giữa hai phần:
phần lấy của dân và phần để lại cho dân. Không phải là tính tốn cái gì mà
dân có thể đóng góp, mà là cần tính tốn dân phải đóng góp cái gì. Nếu tính
cái dân có thể đóng góp thì phải tính khả năng đóng góp thường xun ở mức
ít nhất” [40, 135]. Và mức đóng góp trong một quốc gia theo ông cần “vừa
phải” và “sức nặng đóng góp được cân bằng với mức hưởng thụ tự do”.
Montesquieu cũng bác bỏ quan niệm vốn ăn sâu thành quy luật chung về mức
đóng góp cao tỷ lệ với mức hưởng thụ tự do của nhân dân. Thực chất của
quan niệm này ở Montesquieu chính là việc sử dụng sức dân một cách hợp lý,
và “phải hạn chế đóng góp chừng nào nhà nước còn tăng mức yêu cầu thần
dân phải phục vụ” [40, 135]. Mục đích của điều này nhằm đảm bảo cân bằng
giữa quyền lợi với nghĩa vụ công dân. Qua đây có thể thấy, quả thực
Montesquieu đã “xây dựng một lý luận hiện thực hóa sự tự do thành một
quyền căn bản của con người” [22, 109].



</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

lợi mà còn yêu cả nghĩa vụ” [40, 68]. Bình đẳng trong quan niệm của
Montesquieu là sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Khác
với quan niệm của Hobbes, Montesquieu cho rằng ngay trong trạng thái tự
nhiên mọi người sinh ra đều bình đẳng và “họ chỉ trở thành bình đẳng nhờ có
luật pháp” [40, 91]. Quan niệm của Montesquieu về bình đẳng trong trạng
thái tự nhiên có nhiều điểm tương đồng bậc tiền bối Locke và người đi sau
Rousseau, nhưng ông khác họ ở một điểm: Nếu như Locke và Rousseau cho
rằng con người muốn đạt tới sự bình đẳng thì cần ký kết một khế ước ngầm
với nhau thì ngược lại, Montesquieu quan niệm sự bình đẳng đạt được dựa
trên hiện thực của luật pháp. Con người trong xã hội chỉ có được sự bình đẳng
chân chính nếu tơn trọng pháp luật. Đó là tư tưởng khá tiến bộ và đúng đắn
của Montesquieu trong quan niệm về sự bình đẳng của cơng dân.


Trong tác phẩm Montesquieu cũng phân biệt khá rõ bình đẳng chân
chính với bình đẳng cực đoan. Theo ơng sự khác biệt đó ở chỗ: “Bình đẳng
chân chính khơng phải là làm cho mọi người đều chỉ huy hay không ai bị chỉ
huy, mà là chỉ huy những người bình đẳng với mình và phục tùng con người
bình đẳng với mình.” [40, 91]. Và rõ ràng ở đây, bình đẳng chân chính với “tư
cách cơng dân” hồn tồn khác với kiểu bình đẳng “ai cũng là thẩm phán, ai
cũng làm thầy, làm chủ”. Đến đây, dường như phạm trù bình đẳng chân chính
và phạm trù tự do trong quan niệm của nhà Khai sáng Đệ nhất lại gặp nhau ở
điểm giao ở chỗ: Cả tự do và bình đẳng đều nằm trong sự liên hệ chặt chẽ với
Nhà nước và Pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Montesquieu chủ trương giảm thiểu sự bất bình đẳng một cách cải lương qua
con đường kêu gọi mặt đạo đức. Bởi lẽ, Montesquieu đã khẳng định chắc
chắn trong tác phẩm của mình rằng: người công dân chỉ có thể bình đẳng
“nhờ luật pháp”. Và luật pháp ở đây là công cụ hữu hiệu để duy trì sự bình
đẳng, tự do cho các công dân trong nhà nước dân chủ. Hơn nữa, Montesquieu


cũng nhấn mạnh khá rõ quan điểm nền dân chủ trong đó sự bình đẳng với tư
cách cơng dân, nền dân chủ do những con người bình đẳng làm chủ. Sự bình
đẳng, dân chủ đó hồn tồn đối lập với sự vơ chính phủ. Montesquieu cũng là
người đề cao quyền tự do dân chủ của dân chúng, ơng nói: “dân chúng có
quyền lực tối cao phải tự mình làm lấy điều có thể làm tốt được” [40, 48]. Và
theo ơng, dân chúng là người rất giỏi khi lựa chọn người để giao một phần
quyền lực của mình. Bởi vì dân chúng “học nơi quảng trường một cách sâu
sắc mà ông vua không thể học trong cung điện”. Cái dân chúng có được là
thực tiễn và thông qua thực tiễn theo Montesquieu họ biết quan nọ không
nhận hối lộ, xử án cương quyết nên có thể được bầu làm thẩm phán. Dân
chúng cũng biết được công dân kia giàu sang do đâu để có thể quyết định bầu
anh ta vào nghị viện hay không. Và “dân chúng có đủ trình độ để cân nhắc nên
bầu nên bầu chọn người này người kia, chứ không phải ai cũng đủ trình độ để tự
tay quản lý công việc” [40, 49].


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

trong mối quan hệ các quyền của công dân với nhà nước là một trong những tiêu
chí quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền mà ngày nay chúng ta
nói tới.


Trong q trình khảo sát các nhân tố có ảnh hưởng tới pháp luật,
Montesquieu luận bàn tới nhiều các yếu tố như: phong tuc, khí hậu, dân số,
tiền tệ, thương mại…trong đó ông tập trung nhiều hơn cả tới tôn giáo. Có thể
nói đây là một trong những nội dung thể hiện khá rõ tư tưởng của
Montesquieu trong việc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của công dân khi ông
luận giải mối quan hệ giữa thần quyền và thế quyền.


Bàn về các tơn giáo nói chung, Montesquieu đã nhấn mạnh tới mục
đích nghiên cứu của ơng là “xem xét các tôn giáo khác nhau trong mối tương
quan về lợi ích mà tơn giáo có thể tạo ra trong trạng thái dân sự, dù đó là tơn
giáo có nguồn gốc trên trời hay các tơn giáo có nguồn gốc dưới đất” [40,


192]. Ở đây, Montesquieu nhấn mạnh tới việc xem xét lợi ích của tơn giáo nói
chung (Thần luật) tác động tới trạng thái dân sự (Thế luật) như thế nào.
Montesquieu đã giải quyết mối quan hệ này như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

có vai trị rất quan trọng với đời sống tinh thần của con người. Từ sự phân tích
trên cho chúng ta thấy, trong việc giải quyết quan hệ giữa thần luật và thế luật
hay chính là quan hệ giữa tơn giáo và luật pháp, Montesquieu đã khẳng định
và nhấn mạnh rất rõ tính đặc thù của từng lĩnh vực. Do đó, theo ơng, “một tơn
giáo chân chính, chỉ cần một chút vô tư cũng đủ thấy rằng tôi không bao giờ
có ý định buộc lợi ích của tơn giáo phải nhường bước cho lợi ích của chính
trị, mà là liên kết hai lợi ích này. Muốn thế thì phải hiểu rõ hai lợi ích ấy” [40,
193]. Theo tác giả luận văn, quan điểm này của Montesqiueu cho tới nay vẫn
còn nguyên giá trị, bởi lẽ, tơn giáo và chính trị là hai lĩnh vực có nét đặc thù
riêng cũng như lợi ích riêng. Và, giải quyết mối quan hệ giữa chúng, cần phải
xem xét và tơn trọng những lợi ích riêng của chúng, khơng thể bắt lợi ích cái
tơn giáo phải nhường bước cho lợi ích của chính trị hay cho pháp luật được.
Đồng thời, cũng khơng thể có trường hợp ngược lại, lợi ích của luật pháp phải
nhường bước cho lợi ích của tơn giáo. Sở dĩ có điều này là do có sự khác nhau
giữa tơn giáo và chính trị ở chỗ: “sức mạnh chủ yếu của tôn giáo nảy sinh từ
chỗ con người ta tin vào tôn giáo. Sức mạnh chủ yếu của pháp luật người đời
nảy sinh từ chỗ người ta sợ pháp luật” [40, 211].


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

như sư tử chịu làm theo bàn tay vuốt ve hay lời nói vuốt ve của người dạy thú.
Montesquieu cũng nhắc nhở với chúng ta rằng: “Kẻ nào sợ tôn giáo và ghét
tơn giáo thì giống như con thú dữ đang cắn phá dây xích, toan vồ lấy người
qua mặt nó. Kẻ nào khơng có tơn giáo thì giống như con dã thú kia chỉ cảm
thấy tự do khi được chồm lên vồ lấy con mồi” [40, 194]. Với cách ví von hóm
hỉnh này, ơng muốn khằng định rất rõ vai trị lớn của tơn giáo trong việc chế
ngự bản năng của con người.



Montesquieu địi hỏi phải phân biệt giữa việc có tơn giáo và lạm dụng
tôn giáo. Một mặt, ông khẳng định vai trị của tơn giáo trong đời sống cộng
đồng con người, mặt khác, ông cũng cho rằng, cần phải nghiêm khắc đối với
sự lạm dụng tôn giáo. Montesquieu đã cảnh báo rất rõ rằng: “Khi người ta
đem tôn giáo đến cho một dân tộc bằng bàn tay của một kẻ chinh phục thì
điều đó là điều đau khổ cho bản chất người” [40, 196]. Rõ ràng là với quan
niệm này, Montesquieu không đứng trên quan điểm dung hoà như một số
người đã khẳng định. Ơng đã hồn tồn đứng trên quan điểm khách quan khi
xem xét vấn đề tôn giáo.


<i>Thứ hai, trong tác phẩm của mình, Montesquieu cũng khẳng định giữa </i>
thần luật và thể luật có mối quan hệ tương tác mật thiết với nhau. Mối quan hệ
tương tác ấy thể hiện:


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Auguste cấm thanh niên một nam một nữ cùng tham gia lễ hội vào ban đêm nếu
khơng có người thân đứng tuổi cùng đi. Hay việc Auguste tổ chức lễ tế thần ở
đồi Lupercaless thì khơng cho phép thanh niên nam nữ trần truồng tham gia cuộc
chạy đua. Những quy định tưởng chừng như khắt khe của luật dân sự đó lại góp
phần rất lớn vào việc hạn chế những tiêu cực của tơn giáo, nói như cách của
Montesquieu, “các luật dân sự đôi khi uốn nắn lỗi lầm của tôn giáo”.


+ Mối tương tác giữa pháp luật và tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ: Tôn
giáo tham gia vào việc hạn chế sai lầm của thể chế chính trị. Nói như
<i>Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, “các luật của tôn </i>
giáo uốn nắn điều bất tiện trong thể chế chính trị” [40, 199]. Ơng giải thích
rằng, tơn giáo có thể ủng hộ nhà nước khi luật chính trị bất lực. Với những
nước hay xảy ra nội chiến, theo Montesquieu, tôn giáo làm được nhiều
chuyện, nếu nó thiết lập lại hồ bình trong bộ phận của quốc gia đó.
Montesquieu đưa ra hai dẫn chứng về người Eleens ở Hy lạp với tư cách là
kẻ truyền giáo của thần Apollon được hưởng nền hồ bình vĩnh cửu; hay


thành phố Meaco của Nhật Bản ln duy trì được bình n vì đó là thành phố
của Thần. Montesquie cũng cho rằng, với những nuớc thường nổ ra chiến
tranh, khi luật pháp khơng có biện pháp gì để ngăn ngừa chiến tranh, thì lúc
đó tơn giáo có vai trị rất lớn, bởi lẽ tơn giáo có thể tun bố những thời điểm
hồ bình hay đình chiến để dân chúng sinh sống. Ơng lấy ví dụ ở các bộ lạc Ả
Rập có quy định một năm có bốn tháng mọi người khơng ai được làm chuyện
thù hằn nhau hay gây rối nhỏ nhặt nhất đều bị coi là vi phạm tơn giáo. Hay ví
dụ khác ở Pháp, tôn giáo tổ chức đình chiến vào một mùa nào đó. Có thể
thấy, trong tác phẩm của mình, Montesquieu đưa ra khá nhiều dẫn chứng từ
sự khảo cứu tư liệu lịch sử của mình nhằm khẳng định vai trị lớn của tôn giáo
trong việc hỗ trợ luật pháp ổn định chính trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

thành bởi các nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc đầu tiên Montesquieu cho
rằng, nhà làm luật cần phải phân biệt sự khác nhau giữa luật của tôn giáo
(Luật của trời) và luật của người (thế luật). Trong quyển XXVI, ông viết:
“Không nên dùng luật của trời để xác lập cái gì cần phải xác lập bằng luật của
người. Cũng không nên dùng luật của người để điều chỉnh cái gì cần phải điều
chỉnh bằng luật của trời” [40, 210]. Các luật đó, theo ông, khác nhau về nguồn
gốc, đối tượng và tính chất. Luật của con người phụ thuộc và phát sinh bởi ý
chí của con người, trong khi các luật của tơn giáo hay luật của Trời mang tính
vĩnh hằng. Ông viết: “Luật của người đời được xác lập trên cái thiện. Luật của
tơn giáo thì xác lập trên cái ưu việt. Cái thiện có thể là nhiều thứ nên có thể
thay đổi mục tiêu. Cái ưu việt thì chỉ có một nên khơng thay đổi” [40, 211].
Trong xã hội dân sự, cai trị không phải là nhất thành bất biến mà ln có sự
biến đổi, do đó cần phải có “dây cương” để kiểm soát sự biến đổi- nơi mà các
đạo luật của tơn giáo vừa cố định, vừa làm được điều đó. Trên thực tế, chúng
ta thấy sức mạnh của tôn giáo là lòng tin, còn sức mạnh của pháp luật là sự
chế ước mang tính cưỡng chế, do đó pháp luật phải lưu ý điều chỉnh sự cân
bằng giữa pháp luật và tơn giáo. Montesquieu cịn khảo cứu sự tác động của
luật tôn giáo và luật dân sự đối với hơn nhân và gia đình. Ơng đưa ra một


nhận xét khái quát như sau: “mục tiêu lớn của hơn nhân là xố bỏ những hồ
nghi về quan hệ nam nữ bất hợp pháp, do đó hơn nhân mang đậm tính cách
tơn giáo, các điều luật dân sự cũng tham gia vào để làm cho cuộc hơn nhân có
đủ tính hợp lệ” [40, 213].


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

quan điểm của Montesquieu hồn tồn có cơ sở, xét trong giai đoạn hiện nay
với những vấn đề nhạy cảm, như tôn giáo, chính trị, thì việc tìm cách phát huy
lợi ích riêng và tác động tương hỗ giữa chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
với nhiều quốc gia trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Trong khi bàn luận về quyền công dân, Montesquieu đặc biệt chú ý tới
“Tinh thần của các nhà lập pháp” trong việc soạn thảo luật. Tinh thần ấy
chính là việc đảm bảo tính minh bạch, khách quan, cơng bằng của pháp luật
thông qua những con người xây dựng pháp luật. Theo tác giả luận văn, những
lưu ý trong chương 16 quyển XXIX có thể xem là đóng góp lớn nhất vừa
mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn của Montesquieu. Trong giới hạn
luận văn này xin trích dẫn ngắn gọn một số quan điểm của Montesquieu lưu ý
cách soạn thảo với các nhà làm luật như sau:


- “Phong cách thảo luật phải ngắn gọn, rõ ràng”
- “Phong cách thảo luật phải giản dị”.


- “Điều cốt yếu của lời lẽ của luật pháp phải gợi lên trong đầu người
đời những ý nghĩ như luật nói”.


- “Khi pháp luật phải ghi một điều phạt thì cần hết sức tránh ghi
thành giá tiền”.


- “Khi luật đã xác định ý nghĩa của một sự việc thì chớ nên dùng những
từ ngữ mơ hồ”.



- “Luật không cần phải mềm mỏng tế nhị” nhưng “Lý lẽ phải đơn giản”
để thực hiện một cách dễ dàng.


- “Chớ thay đổi một điều luật khi chưa đủ các lý do cần thiết”.


- “Nhiều đạo luật vô bổ làm yếu mất các đạo luật hữu ích. Những đạo
luật để làm cho người ta lẩn tránh làm yếu cả pháp chế nói chung”.


- “Luật thì cần có hiệu quả khơng để người ta vi phạm vì thoả thuận
những điều cá biệt”.


- “Cần quan tâm để pháp luật được nhận thức đúng với ý nghĩa sự vật
chứ đừng trái ngược với bản chất của sự vật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Những lưu ý Montesquieu trình bày ở trên có ý nghĩa rất lớn với các nhà
<i>lập pháp. Bởi lẽ, thực tế đã cho thấy: “Luật pháp luôn luôn gặp sự đam mê và </i>
cả thành kiến của nhà lập pháp, có khi nó đi qua và tắt ngấm, có khi nó lưu lại
và hồ nhập với người lập pháp” [40, 236]. Luật pháp được xây dựng do con
người và mục đích vì con người. Nhận thức về điều đó, Montesquieu đã yêu
cầu người làm luật phải đảm bảo tính khách quan, cơng bằng và minh bạch
của pháp luật. Đến đây chúng ta có thể nhận thấy điểm khác nhau khá căn bản
giữa Montesquieu với các nhà triết học Khai sáng khác như T.Hobbes, J.
Locke, J. J. Rousseau ở chỗ: Montesquieu đã yêu cầu xác lập tính thành văn
của pháp luật, tức là pháp luật không chỉ là khế ước ngầm giữa con người với
nhau nữa mà nó được quy định bằng các văn bản pháp luật. Thông qua các
văn bản pháp luật đó cơng dân thực thi quyền và nghĩa vụ của mình trong xã
hội. Chúng tôi đánh giá cao điều này ở Montesquieu


Sở dĩ tác giả luận văn đưa nội dung này vào tiểu tiết Nhà nước pháp


quyền như là cơ sở đảm bảo quyền công dân, bởi lẽ, qua sự phân tích ở trên
có thể nhận thấy Montesquieu đặc biệt quan tâm tới lợi ích của cơng dân. Khi
nhà lập pháp xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo những yêu cầu mà
Montesquieu nói ở trên thì khơng những pháp luật đảm bảo tính minh bạch
mà cịn thể hiện tính hiệu quả thiết thực. Luật pháp càng minh bạch, cơng
bằng bao nhiêu thì cơng dân càng có lợi bấy nhiêu. Nếu luật pháp nằm trong
sự “đam mê và cả thành kiến” của người lập pháp thì sự thiệt thòi lớn nhất là
cho đại đa số cơng dân của quốc gia đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

điểm: Một công dân tự do là công dân sống và làm theo pháp luật. Khi pháp
luật đảm bảo tính minh bạch, khách quan, cơng bằng thì cũng đồng nghĩa đảm
bảo tự do, bình đẳng, dân chủ cho cơng dân. Thông qua sự luận bàn ở trên,
Montesquieu cũng khẳng định rất rõ vai trò của nhà nước, pháp luật trong
việc đảm bảo quyền công dân trong xã hội. Đồng thời Montesquieu cũng đặt
ra yêu cầu với các nhà làm luật rằng: Luật pháp phải lấy con người làm trung
tâm và mục đích phải vì con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<b>CHƢƠNG 3 </b>


<i><b>Ý NGHĨA QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN TRONG BÀN VỀ </b></i>
<i><b>TINH THẦN PHÁP LUẬT CỦA Ch.S. MONTESQUIEU VỚI VIỆC </b></i>
<b>XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY </b>


<b>3.1. Một số đánh giá quan niệm về nhà nƣớc pháp quyền của Ch.S. </b>
<i><b>Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật </b></i>


Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích quan niệm về nhà nước pháp quyền
<i>của Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật ở trên, chúng tôi xin đưa ra </i>
một số nhận xét ở những khía cạnh như sau:



</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

duy trì các hoạt động trong xã hội của nhà nước. Tinh thần của pháp luật hay
chính là bản chất của hệ thống luật pháp đã trở thành điểm khởi đầu và cũng
<i>là điểm kết thúc trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Trong khi nhấn </i>
mạnh vai trò của pháp luật, theo tác giả luận văn, Montesquieu có thiên
hướng khẳng định tính minh bạch, rõ ràng của hệ thống pháp luật. Điều này
khá rõ khi Montesquieu đặt vấn đề về cách soạn thảo luật pháp. Ở đây chúng
ta thấy có nét khác nhau trong quan điểm về luật pháp giữa Montesquieu với
T. Hobbes, J. Locke và J. Rousseau sau này ở chỗ: Montesquieu có xu hướng
đề cao tính khách quan, minh bạch, rõ ràng của pháp luật trên hệ thống văn
bản hay thường gọi là các luật thành văn chứ không phải là sự thỏa thuận của
những khế ước xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

pháp quyền, về một nền dân chủ được cụ thể hóa và bảo đảm bằng pháp luật.
Bên cạnh đó, những luận giải của Montesquieu về sự tương quan của pháp
luật với việc sử dụng tiền tệ, đất đai, dân số…đặc biệt là tư tưởng về khoan
dung tôn giáo ở Montesquieu là những cơ sở đảm bảo pháp lý của quyền công
dân. Những quan niệm này phần nào có nét tương đồng với khái niệm “xã hội
công dân” mà hiện nay chúng ta sử dụng. Có thể khẳng định rằng: “Những sự
trình bày và luận giải của ơng đã khiến người ta nhận diện rõ ràng, bằng cả lý
tính và tình cảm, bản chất phi nhân văn của nền độc tài, từ đó mà khơi dậy lý
tưởng dân chủ, lòng nhiệt thành nơi mọi người về một xã hội mới, để góp
phần làm nên cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789” [22, 133]. Riêng ở điểm
này chúng tôi đánh giá cao tinh thần cách mạng cấp tiến của nam tước
Montesquieu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

nhà nước. Theo Montesquieu, việc kiểm sốt đó được thực hiện bằng cách tự
thân của quyền lực nhà nước hay nói cách khác Montesquieu dùng quyền lực
để kiểm soát quyền lực. Montesquieu nhận thức khá rõ tới nguy cơ lạm quyền
trong nhà nước, ông cho rằng ngay cả khi quyền lực được tập trung về một
mối, kể cả một người hay một tổ chức thì nguy cơ lạm quyền vẫn cịn. Do đó,


để thanh toán sự lạm quyền, bảo đảm quyền tự do cho con người, Montesquieu
cho rằng phải phân chia quyền lực nhà nước. Montesquieu viết: “Khi mà quyền
lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện
Nguyên lão thì khơng cịn tự do nữa…Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền
hành pháp thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người
hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm
luôn cả ba thứ quyền lực trên thì tất cả sẽ mất hết.” [40, 106].


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

Trong tác phẩm, Montesquieu phân chia quyền lập pháp thành hai cơ
cấu: đại biểu cho quý tộc và đại biểu cho dân chúng, mỗi bên có thẩm quyền
riêng của mình. Hai thiết chế này có quyền ngăn chặn và giám sát lẫn nhau
trong việc thực thi pháp luật. Do bản chất quyền hành pháp luôn cần tới
những hành động nhất thời nên Montesquieu cho rằng nên giao cho một
người thì dễ hơn nhiều người cùng nắm quyền. Quyền tư pháp là quyền trừng
phạt người phạm tội và phân xử khi tranh tụng giữa các cá nhân nên thẩm
phán phải được lựa chọn từ nhân dân và xử án chỉ theo pháp luật. Phạm vi
giới hạn của nhánh lập pháp và hành pháp được quy định rõ ràng. Lập pháp
thì đề ra luật, hành pháp khơng có quyền thơng qua luật nhưng nó có quyền
ngăn chặn những đạo luật có hại cho quốc gia. Trong mối quan hệ với lập
pháp, hành pháp phải vận dụng chức năng ngăn cản để tham gia lập pháp, nếu
không nó sẽ bị mất ưu quyền. Ngược lại, nếu quyền lập pháp khơng tham gia
vào hành pháp thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

một phương án cho nguy cơ chống lạm quyền trong nhà nước. Lý thuyết phân
quyền của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc tới những quan niệm sau này
về tổ chức nhà nước cũng như thực hiện tổ chức nhà nước của các nước tư
bản. Đa số các Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều khẳng định
nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực
nhà nước.



Bên cạnh những điểm tích cực nói ở trên, quan niệm về nhà nước pháp
<i>quyền trong Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu còn chứa đựng một </i>
số hạn chế cơ bản như sau:


<i>Hạn chế thứ nhất, Montesquieu chưa nhận thức được vai trò của sự </i>
phát triển kinh tế - xã hội đối với lịch sử nói chung cũng như đối với sự ra
đời, phát triển và hoàn thiện của nhà nước, pháp luật. Montesquieu chưa thấy
được sự hình thành xã hội phải trên cơ sở những điều kiện lịch sử- vật chất
nhất định của nó, tức là chưa thấy được vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng
với kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội. Ông chưa thấy sự phát triển
của kinh tế như là nguyên nhân sâu sa của sự ra đời nhà nước. Điểm hạn chế
của Montesquieu là ở chỗ coi các chính thể như là cái gì đã có sẵn, thực tế. Từ
đó ơng cho rằng các nguyên tắc pháp luật phải phù hợp với chúng. Thêm vào
đó, Montesquieu coi sự biến dạng, tha hóa của các nguyên tắc pháp luật như là
nguyên nhân căn bản của sự thay đổi các thể chế nhà nước trong lịch sử, chứ
Montesquieu chưa nhận thấy các nguyên nhân: sự phát triển kinh tế, đấu tranh
giai cấp, lợi ích của các tập đồn đứng đằng sau việc hình thành các chính thể.
Những điều này đã dẫn ông tới quan niệm duy tâm về lịch sử nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

vấn đề mà chưa đi vào sâu bản chất. Montesquieu chưa thấy được vấn đề mâu
thuẫn giai cấp và sự phân chia giai cấp trong xã hội là nguồn gốc trực tiếp dẫn
tới sự ra đời của nhà nước, pháp luật và bản chất giai cấp là đặc trưng căn bản
của nhà nước. Ở điểm này, Montesquieu đã không vượt qua được những hạn
chế của lịch sử và lập trường giai cấp của bản thân để đi tới quan niệm về tính
giai cấp của nhà nước mặc dù trong thời đại ông mâu thuẫn giai cấp đã hết
sức sâu sắc. Montesquieu cũng chưa tìm thấy nguyên nhân kinh tế là nguyên
nhân sâu xa của tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Chính điều này đã dẫn
tới những hạn chế nhất định trong việc khắc phục bất bình đẳng xã hội trong
quan niệm của ông. Đây là yếu tố làm xuất hiện nhiều ý kiến khi cho rằng
Montesquieu có xu hướng bác bỏ hình thức chính trị bằng con đường bạo lực,


ơng nghiêng những cải cách ơn hịa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<i><b>3.2. Quan niệm về nhà nƣớc pháp quyền trong Bàn về tinh thần </b></i>
<i><b>pháp luật của Ch.S. Montesquieu với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền </b></i>
<b>XHCN ở Việt Nam hiện nay </b>


Ở nước ta, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đã được thể hiện ở
Hồ Chí Minh khi người lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước cách mạng.
Người khẳng định rất rõ chủ trương xây dựng nhà nước ta là nhà nước dân
chủ, một chế độ dân chủ thực sự. Nhà nước đó hoạt động theo phương châm
“bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân. Chính
quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra…Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân” [39, 698]. Trong quan hệ với nhân dân,
Người khẳng định Chính phủ ta là “đầy tớ của nhân dân”, do đó “việc gì có
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”
[38, 56-57]. Trong tư tưởng của Người, nhà nước dân chủ là nhà nước lấy dân
làm gốc, hoạt động vì lợi ích của nhân dân và Chính phủ chịu sự kiểm sốt
của nhân dân. Hồ Chí Minh đã xuất phát từ một chân lý hồn tồn khơng ai có
thể chối bỏ được rằng: người ta sinh ra ai cũng có quyền bình đẳng, tạo hóa
đã cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc.
Những tư tưởng trên của Người trong bản Tuyên ngôn độc lập tiếp thu ảnh
hưởng của các nhà Khai sáng Pháp khởi thảo và được các bản tuyên ngôn độc
lập của Mỹ, Pháp và nhiều nước ghi nhận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả
công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân
biệt giàu nghèo, tôn giáo, dịng giống..” [38, 8]. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặt những cơ sở nền móng hết sức quan trọng cho việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta.



Tiếp thu những tư tưởng của Người, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng
định quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quá trình phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền của Đảng ta được thể hiện
chủ yếu qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và qua các cuộc hội
nghị. Trước những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ
dùng các khái niệm “Nhà nước chun chính vơ sản”, “Nhà nước xã hội chủ
nghĩa”, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN chưa được chính thức
đặt ra. Bởi lẽ, trong bối cảnh chiến tranh, chúng ta tập trung giải quyết các vấn
đề của chun chính vơ sản.


Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Đảng ta chỉ mới bắt đầu định
hình từ sau đổi mới - Đại hội VI (1986), đây là Đại hội đổi mới về chất của
Đảng Cộng sản Việt Nam về mọi mặt, trong đó có cả quan điểm về Nhà nước
<i>XHCN. Đảng ta khẳng định: Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ </i>
bằng đạo lý, phải quan tâm xây dựng pháp luật; từng bước bổ sung và hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

năng định ra luật pháp và tổ chức quản lí mọi mặt đời sống xã hội bằng luật
pháp” [29, 14]. Đảng ta xác định: “Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính theo
phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản
lí xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và họat động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng
phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, và họat động có
chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật quản lí”
[10, 91]. Đảng cũng khẳng định: Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân cơng rành mạch ba quyền đó. Đây là
lần đầu tiên các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được định danh
đúng với nó trong văn kiện của Đảng. Đây có thể được xem là những dấu hiệu


đầu tiên trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng ta.


Tuy nhiên, phải đến Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm
kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên khái niệm “nhà nước pháp quyền” đã được
nêu lên. Đảng ta khẳng định chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam quản lý xã hội bằng pháp luật” [10, 25]. Từ đó, Đảng ta nhận thức rất rõ
rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân loại; xét
về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy nhất; mà dựa
trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn tại nhà
nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đến đây, sự nhận thức về nhà nước pháp quyền đã đạt đến trình độ tự giác
trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định rằng,
cần phải tăng cường pháp chế, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức” [11, 45].


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền vào điều kiện Việt Nam. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
và trở thành một quan điểm chỉ đạo xây dựng Nhà nước ta. Đó chính là sự
tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong điều
kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng,
phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của
nhân dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một


số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
và cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.


Tại Đại hội X (2006), trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi
mới, Đảng ta đã khẳng định những yếu tố hợp thành xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, trong đó có yếu tố xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản” là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.” [13, 126].


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

vì dân ở Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật -
phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. Trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối
với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân.


Nghiên cứu về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ta có khá nhiều ý kiến khác nhau. Trong giới hạn luận văn chúng tôi
không đi sâu vào việc phân tích nội hàm khái niệm này, tác giả luận văn đồng
thuận với quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Hậu Thành về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân như sau: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân được tổ chức và hoạt động theo chế độ phân
quyền. Nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc mọi quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản


Việt Nam; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ; sự thống trị của
pháp luật trong mọi đời sống xã hội; tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật;
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, tính pháp quyền trong mối quan hệ cá
nhân, nhà nước và xã hội; tôn trọng và đảm bảo trên thực tế các quyền tự do
cơ bản; có một hệ thống pháp luật hồn thiện và đồng bộ; đảm bảo tính độc
lập của các cơ quan xét xử; một nền hành chính mạnh, có hiệu lực tập trung
thống nhất, hoạt động trên cơ sở pháp luật và tự đặt mình dưới luật; một hệ
thống giáo dục pháp luật phát triển, thực hiện tận tâm các cam kết và nghĩa vụ
pháp lý đã ký kết hoặc công nhận ” [58, 263].


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i>Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội </i>
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều 2 của Hiến pháp 1992
sửa đổi bổ sung ghi khá rõ tư tưởng trên: Nhân dân người nắm quyền lực, là
nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Quan điểm trên đã chỉ rõ tính đặc thù mang
bản chất của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp cơng nhân này gắn bó chặt
chẽ với bản chất dân chủ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Và dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


<i>Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ </i>
chức và thực thi theo nguyên tắc tập quyền có sự phân cơng phân nhiệm.
Quyền lực của nhân dân được trao cho Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại
diện cao nhất có thẩm quyền quyết định những việc hệ trọng của đất nước.
Song ngun tắc tập quyền khơng có nghĩa là cơ quan đại diện cao nhất làm
tất cả các chức năng của nhà nước mà có sự phân cơng, phân nhiệm trong bộ
máy nhà nước. Sự phân công ở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thể hiện ở chỗ: Cơ quan lập pháp được giao cho Quốc hội; Cơ quan
hành pháp thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan tư pháp
được giao cho Tịa án, Viện kiểm sốt và các cơ quan bổ trợ tư pháp. Sự phân
công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước góp phần đảm bảo


tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng thể hiện tính khoa học trong
việc thực thi quyền lực. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không chấp nhận tam quyền phân lập trong bộ máy nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<i>Thứ tư, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ </i>
nghĩa Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước. Sự
lãnh đạo của Đảng cho Nhà nước từ quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách
đến mọi hoạt động đối nội, đối ngoại. Đảng cộng sản Việt Nam mang bản chất
của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Nhà nước. Với bản chất của giai cấp công
nhân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới sự lãnh
đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Ở các nhà nước pháp quyền tư sản,
cơ chế đa nguyên được thực thi. Cơ chế này một mặt đảm bảo tính cân bằng,
đối trọng song về cơ bản cơ chế đó chỉ là những hình thức khác nhau, tổ chức
khác nhau của một thực thể xuyên suốt phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản.


Có thể nói, những nét đặc thù phân tích ở trên về nhà nước pháp quyền
mới chỉ là lý thuyết, là chủ trương. Trên thực tế hiện nay, chúng ta chưa có
nhà nước pháp quyền mà mới chỉ đang chủ trương hướng tới xây dựng nhà
nước pháp quyền. Như vậy, bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khác với nhà nước pháp quyền tư sản.


Như chúng tôi đã phân tích ở phần trên, khi nghiên cứu ý nghĩa trong
quan niệm về nhà nước pháp quyền của Montesquieu chúng ta lưu ý hai điểm:
<i>Thứ nhất, khái niệm nhà nước pháp quyền ra đời sau khi tác phẩm của </i>
<i>Montesquieu xuất bản hơn một thế kỷ; Thứ hai, ở đây chúng tôi nghiên ý </i>
nghĩa trên ba phương diện: Tư duy triết học pháp quyền, tiếp biến văn hóa và
giá trị thực tiễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

những khái niệm và học thuyết nhằm mục đích thấu hiểu bản chất của pháp


luật, nguồn gốc của tư duy pháp quyền và vai trị của nó trong xã hội. Trong
dịng chảy đó đã hình thành những xu hướng lớn: Lý thuyết phân tích pháp
quyền; xã hội học về pháp quyền; lý thuyết về công lý và học thuyết về pháp
luật, đạo đức và pháp quyền tự nhiên. Với tư tưởng pháp quyền Montesquieu
đã bao quát ba trong bốn dịng tư tưởng chính đó. Thứ nữa, các nhà nghiên
cứu đánh giá cao tư duy pháp quyền của ông đặc biệt đối với học thuyết pháp
luật thuần túy sau này và sự trở lại của lý thuyết pháp quyền tự nhiên trong
triết học pháp quyền đương đại.


Vậy Montesquieu đã đặt ra những vấn đề gì nhìn từ thực chất của tư
duy triết học pháp quyền Với cách tiếp cận tư duy pháp quyền- triết học- xã
hội học, Montesquieu đã tạo nên một đặc trưng về tư duy của ơng đó là kết
hợp nhuần nhuyễn giữa phân tích và tổng hợp, lịch sử và lơgic…khi phân tích
pháp luật như là tinh thần pháp luật thì cách đặt vấn đề của Montesquieu đã
tạo tiền đề cho tư duy triết học pháp quyền thuần túy. Song, khi tiếp cận
những vấn đề cụ thể ông lại đi vào phân tích cụ thể, lại thể hiện cách tiếp cận
mang tư duy biện chứng: Sự tồn tại song song của tư duy phân tích và tổng
hợp. Vì thế, một số nhà nghiên cứu phân vân trong việc đánh giá
Montesquieu thuộc dòng tư duy siêu hình hay biện chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Chính ở đây, tư duy pháp quyền của Montesquieu có giá trị phổ quát, chứ
không đơn thuần chỉ là học thuyết tam quyền phân lập.


<i>Vấn đề nữa là, khi phân tích tồn bộ tác phẩm Bàn về tinh thần pháp </i>
<i>luật Montesquies đã thấy vấn đề xuyên suốt - pháp luật sinh ra bởi con người, </i>
nhưng sử dụng pháp luật như thế nào để đảm bảo những quyền của con người
<i>lại vấn đề nan giải. Thứ nhất, Montesquieu cho thấy tính phức tạp trong các </i>
chiều cạnh khác nhau của pháp luật: Trong tổng thể, cấu trúc chiều dọc chiều
ngang, cấu trúc và cơ chế vận hành…Điểm tiếp theo là, pháp luật với tư cách
là một phần trong cấu trúc của trật tự pháp luật và sự tham gia của các nhân tố


khách quan và chủ quan vào đó. Ở đây vấn đề con người nhìn từ chiều sâu
của tư duy triết học pháp quyền đã được đặt ra. Theo chúng tôi điều này được
thể hiện rõ nhất ở nội dung Montesquieu yêu cầu các nhà làm luật trong
<i>chương XXIX của tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. </i>


Trong giai đoạn hiện nay khuynh hướng nghiên cứu về tư duy triết học
pháp quyền nhấn mạnh mối quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền về thực chất
giải quyết mối quan hệ giữa việc trao quyền cho nhà nước và sử dụng chính
quyền đó để đảm bảo các quyền của mình. Ở khía cạnh này, việc nhấn mạnh
vai trị của giáo dục khai sáng, vai trò của nhân tố đạo đức, tơn giáo và các
nhân tố ngồi pháp luật tác động lên trật tự xã hội trong quan niệm của
Montesquieu là hết sức đáng lưu ý. Mặc dù ở điểm này Montesquieu rơi vào
quan điểm ơn hịa, cải lương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

nước pháp quyền là ban hành pháp luật nhưng việc thực thi pháp luật phải
làm cơ sở cho chính nhà nước đó. Theo đó, nhà nước cũng hoạt động theo
khuôn khổ của pháp luật, tức là nó phải dựa trên cơ sở hợp hiến và hợp pháp.
<i>Thứ hai, chính pháp luật là cơ sở để hạn chế mức tối đa việc lạm quyền của </i>
nhà nước. Ở điểm này nhà nước pháp quyền gắn với nhà nước dân chủ, gắn
với cơ chế mà thơng qua đó quyền lực nhà nước là một phần cấu thành thiết
chế đảm bảo quyền công dân, quyền con người. Ở Việt Nam, những tư tưởng
của Montesquieu thông qua phong trào Tân thư. Nhưng người tiếp biến các
giá trị và biến nó trở thành giá trị trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khơng những tiếp biến mà còn phát triển
phù hợp với xu thế mới- tiếp biến văn hóa trong thời đại ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

Khi phân tích ý nghĩa của quan niệm triết học pháp quyền của
Montesquieu với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, chúng tôi quán triệt đặc trưng về kế thừa của phủ định
biện chứng theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ở đây, phủ định biện


chứng không phải là thủ tiêu, phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để
dẫn tới sự ra đời của cái mới, q trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó
nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Lênin đã từng
viết: “Không phải sự phủ nhận sạch trơn, không phải sự phủ định khôngg suy
nghĩ, không phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng không
phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng…mà
là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển,
với sự duy trì cái khẳng định” [29, 245]. Chúng tôi coi những quan niệm triết
<i>học pháp quyền của Montesquiue trong Bàn về tinh thần pháp luật là cái quá </i>
khứ không phải biến dị đi mà để lại một dấu vết nào đó trong dịng chảy vơ
hạn của thời gian. Chính vì vậy, nghiên cứu quan niệm về nhà nước pháp
quyền của Montesquieu theo chúng tôi là kế thừa những giá trị tiến bộ về nhà
nước pháp quyền và tránh những hạn chế sai lầm mà Montesquieu đã mắc
phải khi luận bàn về vấn đề này. Theo chúng tơi, tính kế thừa những tư tưởng
của Montesquieu trên những khía cạnh: nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong
đời sống xã hội, thiết lập tính khách quan, minh bạch, công bằng, rõ ràng
trong khi xây dựng luật pháp, về xây dựng luật phải chú ý tới việc giải quyết
hài hòa mối quan hệ luật pháp với tơn giáo…là những giá trị tích cực không
thể phủ nhận được ở nhà triết học Đệ nhất Khai sáng Pháp Montesquieu.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, chúng tơi
cho rằng những giá trị tích cực trên khơng chỉ có ý nghĩa trên phương diện lý
luận mà còn trên cả phương diện thực tiễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90></div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

<i>về pháp quyền và khẳng định cái “tôi” của nhân cách. Thứ hai, sự phân công </i>
của tổ chức bộ máy trong nhà nước hoạt động còn chưa thực sự hiệu quả. Một
số các cơ quan chức năng cịn có sự hoạt động chồng chéo, chưa rõ ràng.
Những điều đó làm nảy sinh thái độ ban phát, quan hệ xin-cho, lạm dụng
<i>quyền lực ở một số bộ phận cơ quan nhà nước. Thứ ba, mặc dù hệ thống luật </i>
pháp ở nước ta trong những năm qua đã có những bước đầu thành công nhất
định song chất lượng luật chưa cao. Một số bộ luật còn chưa thực sự bám sát


<i>thực tế đời sống xã hội. Hạn chế thứ tư theo chúng tôi trên phương diện lý </i>
luận, chúng ta cũng còn nhiều quan niệm chưa thống nhất về xã hội công dân
và nhà nước pháp quyền. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa cũng đã xuất hiện một số vấn đề phức tạp mà lý luận chưa giải
thích được hoặc giải thích chưa thực sự thuyết phục. Có thể thấy, xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng
cũng khơng ít khó khăn. Do đó, trong q trình nghiên cứu và vận dụng
những tư tưởng của Montesquieu nói ở trên chúng ta cũng cần chú ý những
nét đặc thù nhất định ở Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<b>KẾT UẬN </b>



<i>Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật ra đời từ năm 1748, đây là tác </i>
phẩm đánh dấu sự trưởng thành chín muồi tư tưởng chính trị của
Montesquieu. Tác phẩm là sự kế thừa tư tưởng nhân loại, đồng thời nó cũng
là hệ thống lý luận phản ánh thực tiễn xã hội châu Âu và nước Pháp đang
đứng trước nhu cầu cần phải thay đổi thể chế chính trị. Cùng với tác phẩm
<i>Bàn về khế ước xã hội của Rousseau, tác phẩm Bàn về tinh thần pháp của </i>
Montesquieu đã trở thành “một bộ đôi khai sáng về quan điểm pháp lý mở
đường cho tư duy xã hội Pháp đi tới cuộc Đại cách mạng tư sản năm
1789-1792” [40, 5]. Ra đời từ thế kỷ XVIII, cho tới nay có nhiều tư tưởng của
Montesquieu trong tác phẩm bị lịch sử vượt qua như quan điểm về phong tục,
khí hậu, đất đai quyết định tới sự pháp triển của xã hội hay quan điểm ưu tiên
có một lớp người trong cơ chế bầu cử…Thế nhưng, những hạn chế đó khơng
làm lu lờ những giá trị tư tưởng của tác phẩm. Bởi lẽ, với tinh thần của một
nhà Khai sáng, Montesquieu đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về Nhà nước
pháp quyền trên những khía cạnh: Bản chất, nguồn gốc và nguyên tắc của nhà
nước; Phân chia và kiểm soát quyền lực nhà nước; yêu cầu với việc xây dựng
pháp luật phải chú ý tới các vấn đề liên quan tới quyền cơng dân, giải quyết
hài hịa mối quan hệ tơn giáo cũng như các vấn đề có liên quan xây dựng nhà


nước. Montesquieu đã đặc biệt quan tâm tới vai trò của pháp luật trong việc
điều hòa trật tự xã hội và ông cố gắng đi khám phá bản chất của pháp luật
trong những mối liên hệ khác nhau của lịch sử. Có thể nói những tư tưởng về
tự do bình đẳng của nhà Đệ nhất Khai sáng Pháp cho tới ngày nay vẫn còn giá
trị lớn. Mặc dù khái niệm “Nhà nước pháp quyền” chưa một lần được gọi tên
trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, nhưng có thể nói, Montesquieu đã
đặt những nền móng lý luận quan trọng về Nhà nước pháp quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93></div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



1. <i>F. E. Baird (2006), Tuyển tập danh tác Triết học từ Plato đến Derrida, </i>
Nxb Văn hóa thơng tin.


2. <i>C. Brinton (2007), Con người và Tư tưởng Phương Tây, Nguyễn Kiên </i>
<i>Tường dịch Nxb Từ điển Bách Khoa. </i>


3. <i>W. Duart, Câu truyện triết học, Nxb Văn hóa Thơng tin. </i>


4. <i>Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phuơng </i>
<i>Tây hiện đại, Nxb Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh. </i>


5. <i>Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại </i>
học quốc gia Hà Nội.


6. <i>Nguyễn Đăng Dung (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp </i>
<i>quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. </i>


7. <i>Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp </i>
<i>quyền, Nxb Tư pháp. </i>



8. <i>Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng </i>
hợp Tp Hồ Chí Minh.


9. <i>Nguyễn Thanh Dũng (1998), Tư tưởng về Nhà nước, quyền lực nhà </i>
<i>nước trong lịch sử triết học và quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà </i>
<i>nước Việt Nam, luận văn Thạc sỹ triết học, Viện triết học. </i>


<i>10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc </i>
<i>lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc </i>
<i>lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc </i>
<i>lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

<i>14. Phạm Văn Đức (2005), Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp </i>
<i>quyền XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 9. </i>


<i>15. R. G. Garodi (1962), Tự do, Nxb Sự thật. </i>


<i>16. Trần Hương Giang (2008), Quan niệm về tự do và bình đẳng trong </i>
<i>triết học của Ch.S.Montesquieu và J.J.Rousseau, Luận văn Thạc sĩ </i>
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.


<i>17. Nguyễn Thị Hoàn (2009), Quan niệm về thần quyền và thế quyền của </i>
<i>Montesquieu với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam </i>
<i>hiện nay, Tạp chí phát triển nguồn nhân lực, số 2. </i>


<i>18. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước với </i>


<i>việc tổ chức bộ máy Nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp. </i>


19. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và phân viện báo chí và
<i>tuyên truyền, Lịch sử các tư tưởng chính trị (2001, Nxb Chính trị Quốc </i>
gia, Hà Nội.


<i>20. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh (2006), Đại cương </i>
<i>lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh. </i>


<i>21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị học </i>
(2000), Nxb Sự thật Hà Nội.


<i>22. Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây </i>
<i>dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh. </i>


<i>23. Nguyễn Thị Thu Hương (2006), Quan niệm của Montesquieu về xã </i>
<i>hội công dân và nhà nước pháp quyền, Luận văn Thạc sỹ triết học, </i>
Viện triết học.


<i>24. Bùi Việt Hương (2005), Sự phát triển quan niệm về xã hộ cơng dân ở </i>
<i>phương Tây, Tạp chí Chính trị học, số 4. </i>


<i>25. Phạm Minh Lăng (2003), Những chủ đề cơ bản của triết học phương </i>
<i>tây, Nxb Văn hóa thơng tin. Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

<i>27. V. I. Lê nin (1976), tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva. </i>
<i>28. V. I. Lê nin (1976), tập 44, Nxb Tiến bộ Matxcơva. </i>
<i>29. V. I. Lê nin (1981), tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. </i>


<i>30. Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô (1962), Lịch sử Triết học – Triết học </i>


<i>thời kỳ tiền TBCN (Triết học Khai sáng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX), </i>
Nxb Sự thật, Hà Nội.


<i>31. Cao Liên (2003), Phác thảo lịch sử thế giới thế giới, Nxb Thanh niên, </i>
Hà Nội.


<i>32. S. C. Linscott (2005), Mối quan hệ giữa người và người, Nxb Văn hóa </i>
Thơng tin, Hà Nội.


<i>33. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Lê Tuấn Huy dịch, </i>
Nxb Tri thức, Hà Nội.


<i>34. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc </i>
gia, Hà Nội.


<i>35. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc </i>
gia, Hà Nội.


<i>36. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc </i>
gia, Hà Nội.


<i>37. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. </i>
<i>38. Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. </i>
<i>39. Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. </i>
<i>40. Ch.S. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật (Hồng Thanh </i>


Đạm dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.


<i>41. Vũ Dương Ninh, Nguyễn văn Hồng (2003), Lịch sử thế giới cận đại, </i>
NXB Chính trị Quốc gia,Hà Nội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<i>43. Trần Thảo Nguyên (2005), Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Hồ Chí </i>
<i>Minh sự kế thừa sáng tạo những giá trị của Triết học phương Tây, Hội </i>
<i>thảo Khoa học chủ đề: Tư tưởng triết học Việt Nam trong bối cảnh du </i>
<i>nhập các tư tưởng Đông – Tây nửa đầu thế kỷ XX, Đại học Quốc gia </i>
Hà Nội.


<i>44. Nhà nước pháp quyền Lịch sử và hiện đại (1993), Nxb Thông tin, Hà Nội. </i>
<i>45. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. </i>


<i>46. Trần Văn Phòng, Dương Minh Đức (2003), Lịch sử triết học phương </i>
<i>Tây trước Mác, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội. </i>


<i>47. J. J. Roussean (2005), Bàn về khế ước xã hội (Hoàng Thanh Đạm </i>
dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.


<i>48. Bùi Ngọc Sơn (2004), Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh </i>
<i>văn hóa Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. </i>


<i>49. Tô Huy Rứa (2005), Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà </i>
<i>nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, </i>
Tạp chí Cộng sản, số 3.


<i>50. P. S Tarnnôp (2000), 106 nhà thông thái (Đỗ Minh Hợp dịch và hiệu </i>
đính), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<i>51. Lê Minh Tâm (2002), về tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm </i>
<i>Nhà nước pháp quyền, tạp chí Luật học, số 2. </i>


<i>52. Đặng Hữu Toàn (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và vấn đề </i>


<i>thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã hội, số 9. </i>


<i>53. Đào Ngọc Tuấn (1994), Tìm hiểu tư tưởng về Nhà nước pháp quyền và </i>
<i>vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận văn thạc sỹ triết </i>
học, Viện triết học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<i>55. Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn (1983), Văn học phương Tây thế kỷ XVIII, </i>
Nxb Đại học trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.


<i>56. Nguyễn Đình Tường (2005), Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam </i>
<i>về Nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra ở nước ta hiện nay, </i>
Tạp chí triết học, số 11.


<i>57. Lưu Kiến Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Lịch sử các học thuyết chính </i>
<i>trị trên thế giới, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội. </i>


<i>58. Trần Hậu Thành (2005), Lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp </i>
<i>quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Chính trị </i>
Quốc gia, Hà Nội.


<i>59. Đồn Trọng Truyến (1993), Nhà nước và tổ chức hành chính của các </i>
<i>nước tư bản, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. </i>


<i>60. Đào Trí Úc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam, </i>
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<i>61. Lương Mỹ Vân (2006), Tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng </i>
<i>Pháp, Luận văn thạc sỹ triết học, Viện triết học. </i>


<i>62. Nguyễn Khắc Viện, Lê Diên (1989), Về cách mạng Pháp 1789, Nxb </i>


Sự thật, Hà Nội.


<i>63. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. </i>
<i>64. Nguyễn Cửu Việt (1998), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và </i>


<i>Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. </i>


65. <i> Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>66. Đinh Ngọc Vượng (1991), Tam quyền phân lập và bộ máy Nhà nước </i>


<i>tư sản hiện đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

<b>MỤC LỤC </b>



<b>MỞ ĐẦU ... 1 </b>


<b>CHƢƠNG 1. Ch.S. MONTESQUIEU VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI </b>
<b>QUAN NIỆM NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN CỦA ÔNG ... 11 </b>


1.1. Thân thế và sự nghiệp của Ch.S. Montesquieu ... 11


1.2. Bối cảnh lịch sử và những tiền đề tư tưởng ra đời quan niệm nhà nước
pháp quyền của Ch.S. Montesquieu ... 16


1.2.1. Bối cảnh lịch sử ... 16


1.2.2. Tiền đề tư tưởng ... 19


<i><b>CHƢƠNG 2. “BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT” - NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ </b></i>
<b>BẢN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN CỦA Ch.S. MONTESQUIEU ... 36 </b>



<i>2.1. Tổng quan về tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật ... 36 </i>


2.1.1. Kết cấu tác phẩm ... 36


2.1.2. Nội dung cơ bản của tác phẩm ... 39


2.2. Quan niệm về nguồn gốc, bản chất và nguyên tắc của nhà nước ... 40


2.3. Lý thuyết Tam quyền phân lập ... 51


2.4. Nhà nước pháp quyền như là cơ sở đảm bảo quyền công dân ... 56


<b>CHƢƠNG 3. Ý NGHĨA QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN TRONG </b>
<i><b>BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT CỦA Ch.S. MONTESQUIEU VỚI VIỆC </b></i>
<b>XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ... 70 </b>


3.1. Một số đánh giá quan niệm về nhà nước pháp quyền của Ch.S. Montesquieu
<i>trong Bàn về tinh thần pháp luật ... 70 </i>


<i>3.2. Quan niệm về nhà nước pháp quyền trong Bàn về tinh thần pháp luật </i>
của Ch.S. Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam hiện nay ... 77


<b>KẾT UẬN ... 90 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



<i>1. F. E. Baird (2006), Tuyển tập danh tác Triết học từ Plato đến </i>
<i>Derrida, Nxb Văn hóa thơng tin. </i>



<i>2. C. Brinton (2007), Con người và Tư tưởng Phương Tây, Nguyễn </i>
<i>Kiên Tường dịch Nxb Từ điển Bách Khoa. </i>


<i>3. W. Duart, Câu truyện triết học, Nxb Văn hóa Thơng tin. </i>


<i>4. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phuơng </i>
<i>Tây hiện đại, Nxb Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh. </i>


<i>5. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb </i>
Đại học quốc gia Hà Nội.


<i>6. Nguyễn Đăng Dung (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước </i>
<i>pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. </i>


<i>7. Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp </i>
<i>quyền, Nxb Tư pháp. </i>


<i>8. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng </i>
hợp Tp Hồ Chí Minh.


<i>9. Nguyễn Thanh Dũng (1998), Tư tưởng về Nhà nước, quyền lực nhà </i>
<i>nước trong lịch sử triết học và quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà </i>
<i>nước Việt Nam, luận văn Thạc sỹ triết học, Viện triết học. </i>


<i>10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn </i>
<i>quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn </i>
<i>quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

<i>13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn </i>
<i>quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>14. Phạm Văn Đức (2005), Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp </i>
<i>quyền XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 9. </i>


<i>15. R. G. Garodi (1962), Tự do, Nxb Sự thật. </i>


<i>16. Trần Hương Giang (2008), Quan niệm về tự do và bình đẳng trong </i>
<i>triết học của Ch.S.Montesquieu và J.J.Rousseau, Luận văn Thạc sĩ </i>
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.


<i>17. Nguyễn Thị Hoàn (2009), Quan niệm về thần quyền và thế quyền </i>
<i>của Montesquieu với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở </i>
<i>Việt Nam hiện nay, Tạp chí phát triển nguồn nhân lực, số 2. </i>


<i>18. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước </i>
<i>với việc tổ chức bộ máy Nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp. </i>
19. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và phân viện báo chí và


<i>tuyên truyền, Lịch sử các tư tưởng chính trị (2001, Nxb Chính trị </i>
Quốc gia, Hà Nội.


<i>20. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh (2006), Đại </i>
<i>cương lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí </i>
Minh.


<i>21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị </i>
<i>học (2000), Nxb Sự thật Hà Nội. </i>



<i>22. Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây </i>
<i>dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

<i>24. Bùi Việt Hương (2005), Sự phát triển quan niệm về xã hộ cơng dân </i>
<i>ở phương Tây, Tạp chí Chính trị học, số 4. </i>


<i>25. Phạm Minh Lăng (2003), Những chủ đề cơ bản của triết học </i>
<i>phương tây, Nxb Văn hóa thơng tin. Hà Nội. </i>


<i>26. V. I. Lê nin (1976), tập 33, Nxb Tiến bộ Matxcơva. </i>
<i>27. V. I. Lê nin (1976), tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva. </i>
<i>28. V. I. Lê nin (1976), tập 44, Nxb Tiến bộ Matxcơva. </i>
<i>29. V. I. Lê nin (1981), tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. </i>


<i>30. Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô (1962), Lịch sử Triết học – Triết </i>
<i>học thời kỳ tiền TBCN (Triết học Khai sáng từ thế kỷ XVII đến thế </i>
<i>kỷ XIX), Nxb Sự thật, Hà Nội. </i>


<i>31. Cao Liên (2003), Phác thảo lịch sử thế giới thế giới, Nxb Thanh </i>
niên, Hà Nội.


<i>32. S. C. Linscott (2005), Mối quan hệ giữa người và người, Nxb Văn </i>
hóa Thơng tin, Hà Nội.


<i>33. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Lê Tuấn Huy </i>
dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.


<i>34. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc </i>
gia, Hà Nội.



<i>35. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị </i>
Quốc gia, Hà Nội.


<i>36. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị </i>
Quốc gia, Hà Nội.


<i>37. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà </i>
Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

<i>39. Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà </i>
Nội.


<i>40. Ch.S. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật (Hoàng </i>
Thanh Đạm dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.


<i>41. Vũ Dương Ninh, Nguyễn văn Hồng (2003), Lịch sử thế giới cận </i>
<i>đại, NXB Chính trị Quốc gia,Hà Nội. </i>


<i>42. Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử Triết học Tây phương (3 tập), </i>
Nxb Tp Hồ Chí Minh.


<i>43. Trần Thảo Nguyên (2005), Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Hồ </i>
<i>Chí Minh sự kế thừa sáng tạo những giá trị của Triết học phương </i>
<i>Tây, Hội thảo Khoa học chủ đề: Tư tưởng triết học Việt nam trong </i>
<i>bối cảnh du nhập các tư tưởng Đông – Tây nửa đầu thế kỷ XX, Đại </i>
học Quốc gia Hà Nội.


<i>44. Nhà nước pháp quyền Lịch sử và hiện đại (1993), Nxb Thông tin, </i>
Hà Nội.



<i>45. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. </i>


<i>46. Trần Văn Phòng, Dương Minh Đức (2003), Lịch sử triết học </i>
<i>phương Tây trước Mác, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội. </i>
<i>47. J. J. Roussean (2005), Bàn về khế ước xã hội (Hồng Thanh Đạm </i>


dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.


<i>48. Bùi Ngọc Sơn (2004), Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối </i>
<i>cảnh văn hóa Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. </i>


<i>49. Tơ Huy Rứa (2005), Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà </i>
<i>nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, </i>
Tạp chí Cộng sản, số 3.


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

<i>51. Lê Minh Tâm (2002), về tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái </i>
<i>niệm Nhà nước pháp quyền, tạp chí Luật học, số 2. </i>


<i>52. Đặng Hữu Toàn (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và </i>
<i>vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã </i>
hội, số 9.


<i>53. Đào Ngọc Tuấn (1994), Tìm hiểu tư tưởng về Nhà nước pháp quyền </i>
<i>và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam, Luận văn thạc </i>
sỹ triết học, Viện triết học.


<i>54. Nguyễn Mạnh Tường (1994), Lý luận giáo dục châu Âu, Nxb Khoa </i>
học xã hội, Hà Nội.



<i>55. Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn (1983), Văn học phương Tây thế kỷ </i>
<i>XVIII, Nxb Đại học trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. </i>


<i>56. Nguyễn Đình Tường (2005), Quan điểm của Đảng cộng sản Việt </i>
<i>Nam về Nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra ở nước ta </i>
<i>hiện nay, Tạp chí triết học, số 11. </i>


<i>57. Lưu Kiến Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Lịch sử các học thuyết </i>
<i>chính trị trên thế giới, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội. </i>


<i>58. Trần Hậu Thành (2005), Lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước </i>
<i>pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb </i>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<i>59. Đoàn Trọng Truyến (1993), Nhà nước và tổ chức hành chính của </i>
<i>các nước tư bản, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. </i>


<i>60. Đào Trí Úc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt </i>
<i>nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

<i>62. Nguyễn Khắc Viện, Lê Diên (1989), Về cách mạng Pháp 1789, Nxb </i>
Sự thật, Hà Nội.


<i>63. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà </i>
Nội.


<i>64. Nguyễn Cửu Việt (1998), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và </i>
<i>Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>65. Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, </i>


Hà Nội.


<i>66. Đinh Ngọc Vượng (1991), Tam quyền phân lập và bộ máy Nhà </i>
<i>nước tư sản hiện đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. </i>
<i>67. Nguyễn Văn Yểu (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN </i>


<i>Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Tạp chí Cộng </i>
sản, số 7.


</div>

<!--links-->

×