Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN BAN ĐẦU VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM DỊCH VỤ VẬN TẢI TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.39 KB, 42 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN BAN ĐẦU VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM DỊCH VỤ VẬN TẢI TRONG DOANH
NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ .
I . KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM DỊCH VỤ VẬN TẢI
TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ .
1. Đặc điểm của nghành kinh doanh dịch vụ vận tải.
Theo đà phát triển của nền kinh tế và sự tiến bộ của văn minh nhân loại, dịch
vụ ở tất cả các lĩnh vực quản lý và công việc càng ngày càng khẳng định rõ vai
trò quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân nói riêng cũng như trong
xã hội nói chung. Cho đến nay có nhiều tác giả đã đưa ra những khái niệm về
dịch vụ. Song nhìn chung, Dịch vụ theo ISO 8402 được hiểu là “ Dịch vụ là
kết quả của hoạt động sinh ra do tiếp xúc giữa bên cung ứng và khách hàng và
các hoạt động nội bộ bên cung ứng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ rất đa dạng bao gồm các hoạt động kinh
doanh bưu điện, vận tải, du lịch, may đo, sửa chữa, dịch vụ khoa học kĩ thuật,
dịch vụ tư vấn, dịch vụ công cộng, vui chơi, giải trí, chụp ảnh, cho thuê đồ
dùng, cắt tóc, giặt là, ...
Căn cứ vào tính chất của hoạt động dịch vụ, người ta chia làm 2 loại dịch vụ:
• Dịch vụ có tính chất sản suất như dịch vụ vận tải, bưu điện, may đo, sửa
chữa,...
• Dịch vụ không có tính chất sản suất như dịch vụ hướng dẫn du lịch, giặt là,
chụp ảnh,...
Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì hoạt động kinh doanh dịch vụ
là hoạt động kinh doanh chính, còn đối với các tổ chức kinh tế khác có hoạt
động chính là sản xuất, kinh doanh mua bán hàng hoá ...thì hoạt động dịch vụ
chỉ mang tính phụ trợ, bổ sung cho hoạt động kinh doanh .
Dịch vụ vận tải nói riêng là ngành sản suất vật chất đặc biệt, sản phẩm vận
tải là quá trình di chuyển hàng hoá, hành khách từ nơi này đến nơi khác và đo
được bằng các chỉ tiêu: tấn.km.hàng hoá vận chuyển và người.km.hành
khách.Chỉ tiêu chung của ngành vận tải là tấn .km tính đổi.
Sản phẩm của hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải tuyệt đại bộ phận không


mang hình thái vật chất, quá trình sản suất tiêu thụ gắn liền với nhau không thể
tách rời. Khách mua sản phẩm dịch vụ vận tải trước khi họ nhìn thấy sản phẩm
đó họ phải trả tiền.Và cũng do tính chất sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là một
nên sản phẩm dịch vụ vận tải không thể tồn kho hoặc lưu kho được, vậy cho
nên cũng không thể tính được chi phí sản phẩm làm dở như trong nghành sản
suất và xây dựng.
Tổ chức hoạt động sản suất kinh doanh dịch vụ vận tải có những đặc điểm
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp vận tải quản lý quá trình hoạt động theo nhiều khâu
khác nhau như giao dịch, hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc vận chuyển
hành khách, thanh toán các hợp đồng, lập kế hoặc điều vận và kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch vận chuyển.
Thứ hai, kế hoạch tác nghiệp cần phải cụ thể hoá cho từng ngày, tuần định kì
ngắn,... Lái xe và phương tiện làm việc chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp. Do
đó quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng được chế độ vật chất rõ
ràng, vận dụng cơ chế khoán hợp lý .
Thứ ba, phương tiện vận tải là TSCĐ chủ yếu và quan trọng không thể thiếu
được trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Các phương tiện này lại bao
gồm nhiều loại có tính năng, tác dụng, hiệu suất và mức tiêu hao nhiên liệu,
năng lượng khác nhau. Điều này có ảnh hưởng lớn đến chi phí và doanh thu
dịch vụ .
Thứ tư, việc khai thác vận chuyển phụ thuộc khá lớn vào cơ sở hạ tầng,
đường sá, cầu phà và điều kiện địa lý khí hậu,...
Sự phát triển của nghành vận tải phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế và nhu cầu ngày càng tăng của con người. Tại nước ta hiện nay, ngành kinh
doanh dịch vụ vận tải đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu đặc điểm của nghành kinh doanh dịch vụ vận tải do đó có ý nghĩa
rất lớn đối với việc tổ chức quản lý hợp lý công tác kế toán, đặc biệt là kế toán
chi phí, tính giá thành cũng như xác định kết quả kinh doanh dịch vụ.
2. Chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải.

2.1 Khái niệm.
Để tiến hành sản suất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có đầy đủ ba yếu tố
cơ bản đó là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự tham gia
của ba yếu tố trên vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có sự khác
nhau hình thành nên các yếu tố tương ứng là : chi phí về tư liệu lao động, chi
phí về đối tượng lao động , và chi phí lao động.Ba yếu tố này cấu thành nên giá
thành sản phẩm mới tạo ra.
Theo chuẩn mực số 01- Chuẩn mực chung ban hành và công bố theo quyết
định số 165/2002/QĐ - BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 của bộ trưởng Bộ Tài
chính thì “ Chi phí bao gồm các chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp và các chi phí
khác”.
Trong đó chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động
kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, như : giá vốn hàng bán, chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lãi tiền vay, và những chi phí
liên quan đến hoạt động cho các bên khác sử dụng tài sản sinh ra lợi tức, tiền
bản quyền,...những chi phí này phát sinh dưới dạng tiền và các khoản tương
đương tiền, hàng tồn kho, khấu hao máy móc, thiết bị.
Chi phí khác bao gồm các chi phí ngoài chi phí sản xuất, kinh doanh phát
sinh trong quá trình hoạt động linh doanh thông thường của doanh nghiệp,
như : chi phí về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, các khoản tiền bị khách hàng
phạt do vi phạm hợp đồng,...
Trên thực tế, muốn công tác quản lý, sử dụng thông tin hạch toán chi phí và
giá thành nói chung cũng như chi phí vận tải và giá thành sản phẩm vận tải nói
riêng có hiệu quả ta phải hiểu được bản chất của chi phí vận tải. Hiện nay vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau về bản chất và nội dung về bản chất và nội dung
của chi phí và giá thành sản phẩm vận tải. Vậy thực chất chi phí vận tải là gì ?
Chi phí vận tải là biểu hiện bằng tiền của những hao phí lao động sống, lao
động vật hoá và các chi phí cần thiết khác chi ra cho quá trình hoạt động dịch
vụ vận tải trrong một thời kì nhất định .

Ngoài ra, trong điều kiện kinh doanh hiện nay, chi phí vận tải còn bao gồm
một phần nhỏ thu nhập thuần tuý của xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kinh phí công đoàn,...
2.2.Phạm vi.
Việc xác định chi phí cho một kì nhất định có ý nghĩa quan trọng trong công
tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải, nhằm giới hạn
những chi phí cấu thành nên giá thành dịch vụ vận tải. Điều đó đặt ra cho
những nhà quản lý nói chung và những người làm công tác kế toán nói riêng
phải xác địng rõ nội dung, phạm vi của chi phí vận tải trong giá thành dịch vụ
vận tải .
Theo thông tư số 76 TC/ TCDN ngày15 tháng 11 năm 1996 của Bộ Tài
Chính về hướng dẫn chế độ quản lý doanh thu, chi phí và giá thành sản phẩm
dịch vụ tại các doanh nghiệp nhà nước thì những khoản chi phí sau đây không
thuộc phạm vi chi phí dịch vụ vận tải :
- Các khoản chi phí đã được tính vào chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất
thường như: chi phí liên doanh, liên kết, chi phí cho thuê TSCĐ ; chi phí mua,
bán trái phiếu, cổ phiéu, tín phiếu, chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ ; giá trị
tài sản tổn thất, thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm lỗi và
tổ chức bảo hiểm, giá trị phế liệu thu hồi và số đã được bù đắp bằng quỹ dự
phòng ; các chi phí khác thuộc chi phí bất thường .
- Các khoản thiệt hại được chính phủ trợ cấp hoặc được ghi giảm nguồn
vốn, được bên gây thiệt hại hoặc cơ quan bảo hiểm bồi thường .
- Các khoản chi phí đi công tác ở nước ngoài vượt định mức do nhà nước
quy định .
- Các khoản chi phí có nguồn bù đắp riêng như chi phí sự nghiệp, chi phí
cho nhà ăn tập thể, chi phí của các tổ chức đảng, Đoàn thanh niên, công đoàn;
các khoản chi phí trợ cấp khó khăn thường xuyên, khó khăn đột xuất ; chi phí
về ăn trưa ; tiền thưởng sáng kiến, thưởng thi đua ; các khoản chi ủng hộ, tài
trợ cho cá nhân, tập thể ngoài doanh nghiệp ; chi phí nghiên cứu thí nghiệm,
chi đầu tư xây dựng cơ bản ; chi phí cho chuyên gia ; chi phí đào tạo không

nằm trong kế hoạch được duyệt ; chi phí cho công việc từ thiện ; các khoản chi
do vi phạm hợp đồng, vi phạm hành chính ...
2.3Phân loại chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải .
Chi phí trong các doanh nghiệp vận tải bao gồm nhiều loại khác nhau, mỗi
loại chi phí có những tính chất khác nhau, mục đích công dụng khác nhau và
yêu cầu quản lý cũng khác nhau. Để quản lý chi phí vận tải một cách chặt chẽ,
tiết kiệm chi phí vận tải, hạ giá thành sản phẩm thì cần thiết phải tiến hành
nghiên cứu cách phân loại chi phí vận tải ô tô. Mỗi cách phân loại có nội dung,
tác dụng, yêu cầu và mục đích quản lý khác nhau. Phân loại chi phí vận tải
đúng đắn, khoa học, phù hợp với điều kiện quản lý kinh tế trong từng giai
đoạn là vấn đề quan trọng cả về lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng
công tác quản lý chi phí và quản lý giá thành sản phẩm vận tải, phát huy được
chức năng kiểm tra, giám sát và tổ chức thông tin cũng như cung cấp thông tin
chính xác cho việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một
số cách phân loại chi phí vận tải.
a. Phân loại chi phí vận tải theo tính chất kinh tế của chi phí.
Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của chi
phívận tải để chi ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí bao gồm những chi
phí có cùng một nội dung kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh
vực hoạt động nào, ở đâu và mục đích hay tác dụng của chi phí như thế nào.
Toàn bộ chi phí vận tải trong kỳ được chia thành các yếu tố chi phí sau:
+ Khấu hao TSCĐ.
+ Nhiên liệu.
+ Tiền lương công nhân viên chức.
+ Khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ.
+ Phụ tùng thay thế.
+ Các chi phí khác.
Cách phân loại này cho biết chi phí gồm những yếu tố gì ? Dung lượng của
từng yếu tố chi phí là bao nhiêu, nó phục vụ cho công tác thống kê, công tác dự
đoán nhu cầu về vốn, là căn cứ để lập các kế hoạch về quỹ tiền lương, kế hoạch

cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ công tác sản xuất kinh doanh. Mặt khác, phân
loại chi phí vận tải ô tô theo tính chất kinh tế của chi phí còn là căn cứ để lập
kế hoạch chi phí và xác định nhiệm vụ giảm giá thành sản phẩm vận tải khi xây
dựng kế hoạch.
b. Phân loại chi phí vận tải theo công dụng kinh tế.
Theo cách phân loại này, chi phí vận tải được phân loại theo các khoản mục
khác nhau. Những chi phí có cùng một mục đích sử dụng được xếp thành một
khoản mục. Hiện nay chi phí vận tải phân loại theo công dụng của chi phí bao
gồm:
+ Tiền lương lái xe, phụ xe.
+ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
của lái và phụ xe.
+ Nhiên liệu
+ Chi phí săm lốp
+ Khấu hao phương tiện vận tải.
+ Chi phí công cụ, dụng cụ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Các khoản chi phí khác.
Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế có ý nghĩa lớn trong quản lý chi phí
theo trọng điểm. Xác định rõ được nguyên nhân tăng giảm của từng khoản mục
chi phí để từ đó có biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thấp giá thành vận tải.
c. Phân loại chi phí vận tải theo mối quan hẹ với doanh thu vận tải.
Theo tiêu chuẩn phân loại này, chi phí vận tải được chia thành 2 loại :
+ Chi phí cố định( bất biến) : Là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải
tăng hay giảm thì số tiền chi phí không thay đổi hoạc tăng hay giảm không
đáng kể. Nhưng số tiền chi phí tính cho 1 đ( hay 1000 đ) doanh thu( tỉ suất chi
phí) thì thay đổi theo chiều ngược lại( giảm hoặc tăng).
+ Chi phí biến đổi( khả biến) : Là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải
tăng hay giảm thì số tiền chi phí cũng tăng hay giảm theo nhưng chi phí cho 1
đ( hay 1000 đ) doanh thu( tỉ suất chi phí) thì hầu như không thay đổi. Thuộc

loại chi phí này gồm có: chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn của lái xe, phụ xe, chi phí săm lốp, nhiên liệu,...
Phân loại chi phí theo cách này có ý nghĩa và tác dụng rất lớn trong việc xác
định điểm hoà vốn, phân tích dự đoán chi phí. Ngoài ra giúp cho những nhà
quản lý, quản lý chi phí của 1 đơn vị sản phẩm tốt hơn và tìm ra các biện pháp
để hạ giá thành sản phẩm.
d. Phân loại chi phí theo phương pháp tập hợp và đối tượng chịu chi phí.
Toàn bộ chi phí vận tải theo cách phân loại này chia thành 2 loại chi phí: Chi
phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
+ Chi phí trực tiếp : Là những chi phí liên quan một cách trực tiếp đến việc
hoàn thành sản phẩm vận tải, nó có thể hạch toán trực tiếp theo từng đối tượng
chịu chi phí như chi phí nhiên liệu, vật liệu...
+ Chi phí gián tiếp: Là những khoản chi phí có liên quan đến nhiều sản
phẩm vận tải. Các chi phí nàykhi phát sinh phải tập hợp lại để cuối kỳ phân bổ
cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu chuẩn phân bổ hợp lý.
Cách phân bổ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp
tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải cho từng đối tượng một cách
khoa học và hợp lý.
Các chi phí gián tiếp trong kinh doanh vận tải hiện nay bao gồm:
+ Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ Tiền lương.
+ Chi phí công cụ, dụng cụ.
+ Chi phí sửa chữa TSCĐ.
+ Chi phí đào tạo bồi dưỡng , quảng cáo,...
+ Các khoản chi phí khác.
e. Phân loại chi phí vận tải theo yếu tố chi phí.
Theo cách phân loại này, chi phí vận tải được chia thành các nội dung sau
đây:
+ Chi phí vật liệu trực tiếp : gồm toàn bộ các chi phí về nhiên vật liệu (xăng,
dầu) dùng trực tiếp cho phương tiện

+ Chi phí nhân công trực tiếp : gồm toàn bộ các chi phí về số tiền công phải
trả cho lái xe, phụ xe, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàncủa lái xe, phụ xe .
+ Chi phí sản xuất chung : gồm các chi phí khác như : khấu hao TSCĐ, tiền
lương của nhân viên quản lý xe , đội sửa chữa, ... các chi phí bằng tiền khác.
Cách phân loại này có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong kế toán tài chính
về chi phí và giá thành dịch vụ vận tải, phù hợp với việc phân loại chi phí trong
kế toán tài chính để sử dụng các tài khoản kế toán hợp lý theo chế độ kế toán
chung.
3. Giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải.
3.1 . Khái niệm giá thành.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, giá thành sản phẩm là một phạm trù
kinh tế, phản ánh mức hao phí lao động để sản xuất ra sản phẩm hoặc hoàn
thành sản phẩm dịch vụ. Nói một cách khác, nếu xét về bản chất, thì giá thành
sản phẩm chính là lượng hao phí lao động kết tinh trong sản phẩm hoàn thành
được biểu hiện bằng tiền.
Giá thành sản phẩm vận tải là toàn bộ chi phí vận tải mà doanh nghiệp bỏ ra
để thực hiện khối lượng sản phẩm vận tải đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm
vận tải là một chỉ tiêu chất lượng, tổng hợp có ý nghĩa quan trọng đối với công
tác quản lý các doanh nghiệp vận tải. Thông qua chỉ tiêu giá thành có thể xác
định được hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân tài, vật lực, trong doanh
nghiệp cũng như đánh giá một cách có cơ sở các biện pháp tổ chức quản lý, kỹ
thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoàn thành các dịch vụ cho
khách hàng. Giá thành vận tải là giới hạn bù đắp chi phí vận tải, là căn cứ để
xác định khả năng bù đắp chi phí trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải.
Sự hoạt động đa dạng của các loại hìnhvận chuyển thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau trên thị trường đã dẫn đến sự cạnh tranh để chiếm ưu thế
giữa các doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp muốn tồn tại và phảt
triển cần phải phấn đấu hạ giá thành và tăng chất lượng phục vụ vận tải.
3.2.Các loại giá thành vận tải.

Để phục vụ cho công tác kế toán cũng như công tác quản lý giá thành sản
phẩm vận tải, cần phải nghiên cứu các loại giá thành. Nhìn trên góc độ kế
hoạch hoá, giá thành dịch vụ vận chuyển bao gồm:
- Giá thành kế hoạch
- Giá thành định mức
- Giá thành thực tế
Mỗi loại giá thành nói trên có ý nghĩa, tác dụng khác nhau trong công tác
quản lý giá thành và quản lý chi phí vận tải.
3.2.1 Giá thành kế hoạch.
Là giá thành được tính toán trước khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch hay dự toán chi phí và sản lượng, công
việc dịch vụ.
Việc xác định giá thành kế hoạch nhằm giới hạn chi phí để thực hiện quá
trình kinh doanh vận tải, là cơ sở để doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành và
phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch trên thực tế.
3.2.2 Giá thành định mức
Là loại gía thành được tính toán trên cơ sở các định mức chi phí, kinh tế kỹ
thuật hiện hành do nhà nước hoặc nghành quy định.
Do đó khi các định mức kinh tế, kỹ thuật và các định mức chi phí thay đổi
thì giá thành định mức cũng thay đổi theo.
Giá thành định mức được coi như là một thước đo chuẩn xác để xác định kết
quả của việc tiết kiệm hay lãng phí chi phí thuộc giá thành sản phẩm dịch vụ
vận tải nói riêng cũng như giá thành dịch vụ nói chung.
Vì vậy, nó giúp cho doanh nghiệp có thể đánh giá được tính đúng đắn, hợp
lý của các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
3.2.3 Giá thành thực tế.
Là giá thành được tính toán sau khi đã hoàn thành quá trình kinh doanh vận
tải trên cơ sở chi phí vận tải thực tế tập hợp trong sổ kế toán và số lượng sản
phẩm đã hoàn thành trong kỳ.

Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật để thực hiện quá trình sản xuât sản phẩm dịch vụ, là cơ sở để xác định kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Giá thành thực tế gồm hai loại:
+ Giá thành sản xuất dịch vụ: Loại giá thành này chỉ bao gồm những chi phí
trực tiếp( nguyên vật liệu trực tiếp, nhân viên trực tiếp) và chi phí sản xuất
chung, không bao gồm chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho dịch vụ đã
hoàn thành.
+ Giá thành toàn bộ dịch vụ vận tải hoàn thành bao gồm giá thành sản xuất
dịch vụ và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho dịch vụ hoàn thành.
3.3 Mối quan hệ giữa chi phí KD DV vận tải và giá thành sản phẩm dịch vụ
vận tải.
Giữa chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải và giá thành sản phẩm dịch vụ vận
tải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra
sản phẩm vận tải. Chi phí biểu hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt
kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là hai mặt thống nhất của một
quá trình, vì vậy chúng giống nhau về chất. Giá thành và chi phí sản xuất kinh
doanh vận tải đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá.
Chi phí kinh doanh vận tải trong kỳ là cơ sở, là căn cứ để tính giá thành của
sản phẩm vận tải đã hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí của doanh nghiệp về
chi phí vận tải có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành hạ hay cao.
Quản lý giá thành vận tải phải gắn liền với quản lý chi phí vận tải để làm sao
tiết kiệm chi phí, phấn đấu thực hiện được khối lượng vận tải lớn hơn, giá
thành thấp hơn. Đó là yêu cầu mang tính chỉ đạo xuyên suốt mà các doanh
nghiệp vận tải ô tô phải thực hiệnđồng bộ nhiều biện pháp tổng hợp.
4. Yêu cầu và nhiệm vụ của công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản
phẩm dịch vụ vận tải trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ.
4.1 Yêu cầu .
Chi phí hoạt động vận tải gắn liền với việc sử dụng tài sản vật tư lao động

trong quá trình tạo ra sản phẩm. Quản lý chi phí hoạt động này thực chất là
quản lý việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các loại tài sản, vật tư lao
động, tiền vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh. Mặt khác chi phí vận tải
là cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải, do đó tiết kiệm chi phí là
một trong những biện pháp để hạ giá thành, điều mà các doânh nghiệp vận tải
rất chú trọng.
Yêu cầu của công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí và giá thành
nói riêng đòi hỏi các doanh nghiệp phải:
- Kế toán đúng đắn chi phí hoạt động vận tải phát sinh, tổ chức việc ghi chép
tính toán và phản ánh từng loại chi phí phát sinh theo từng đối tượng phải chịu
chi phí.
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành, vận dụng một phương pháp tính giá
thành hợp lý phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ đặc
điểm của sản phẩm và yêu cầu quản lý thông tin trong nội bộ doanh nghiệp.
- Giá thành sản phẩm phải được tính theo ba khoản mục chi phí là chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Ngoài ra căn cứ vào yêu cầu của thông tin nội bộ doanh nghiệp mà có thể chi
tiết các khoản mục chi phí một cách cụ thể hơn.
- Số liệu và kết quả tính giá thành phải được thể hiện trên bảng biểu mà qua đó
phải phản ánh được nội dung và phương pháp tính giá thành mà doanh nghiệp
đang áp dụng.
Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải
là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý về dịch vụ vận tải của mỗi
doanh nghiệp vận tải nói riêng và của cả ngành dịch vụ nói chung. Tính đúng,
tính đủ giá thành sản phẩm dịch vụ dựa trên chi phí hoạt động kinh doanh phù
hợp với yêu cầu quản lý và kế toán sẽ là căn cứ giúp doanh nghiệp phản ánh
đúng tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp, xác
định chính xác kết quả kinh doanh góp phần quan trọng và thiết thực trong việc
tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế tài chính chung của nhà nước.
4.2 . Nhiệm vụ của công tác kế toán.

Để đáp ứng nhu cầu quản lý và phát huy vai trò của kế toán, đòi hỏi công tác
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ vận tải phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thánh phù
hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
- Vận dụng các phương pháp tập hợp chi phí và phương pháp tính giá thành
một cách thích hợp, tập hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất
thực tế phát sinh.
- Kiểm ta tình hình các định mức nhiên liệu, vật tư, nhân công, chi phí săm lốp,
sửa chữa phương tiện...
- Phát hiện kịp thời các khoản chi phí ngoài dự toán, các khoản thiệt hại mất
mát hư hỏng trong các doanh nghiệp để đề xuất các biện pháp ngăn trặn kịp
thời.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của công ty theo
từng hoạt động cụ thể. Để từ đó tìm ra các khả năng còn tiềm tàng và đề ra các
biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và hiệu quả.
II . KẾ TOÁN CHI PHÍ KINH DOANH DỊCH VỤ VÀ GIÁ THÀNH DỊCH VỤ VẬN
TẢI TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ.
1.Kế toán chi phí kinh doanh dịch vụ.
1.1 Đối tượng tập hợp và phương pháp tập hợp chi phí.
1.1.1 Đối tượng tập hợp chi phí.
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí vận tải có ý nghĩa thiết thực cả
trong lý luận và thực tiễn đối với việc tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành
sản phẩm vận tải. Đối tượng tập hợp chi phí vận tải phải phù hợp với những
yếu tố sau hay khi xác định đối tượng tập hợp chi phí vận tải phải căn cứ vào:
+ Đặc điểm tổ chức kinh doanh dịch vụ: Trong ngành vận tải kinh doanh
vận chuyển được tiến hành liên tục mức độ hoạt động tuỳ theo thời vụ mà
nhiều hay ít.
+ Đặc điểm sản phẩm dịch vụ: Dịch vụ vận tải tạo ra sản phẩm ở trên
đường, ngay trong quá trình vận chuyển. Khi hoạt động vận chuyển kết thúc thì

sản phẩm cũng được hoàn thành.
+ Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp : tuỳ theo mục đích của
lãnh đạo vủa doanh nghiệp mà chia thành các đối tượng tập hợp chi phí khác
nhau .
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí vận tải sẽ là điều kiện để tính
toán chính xác giá thành sản phẩm vận tải, tạo tiền đề cho việc hạch toán ban
đầu và vận dụng tài khoản kế toán.
Đối tượng tập hợp chi phí vận tải là phạm vi, giới hạn mà các loại chi phí
vận tải cần được tập hợp. Như vậy có thể nói, việc xác định đối tượng tập hợp
chi phí vận tải chính là việc đi xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu
chi phí.

×