Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.8 KB, 28 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ KẾ TOÁN KINH
DOANH THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Đặc điểm chủ yếu của hoạt động kinh doanh thương mại.
Thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Thương mại là lĩnh vực trao đổi hàng hoá
thông qua mua và bán hàng hoá bằng tiền trên thị trường. Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thương mại của cá nhân, tập thể, doanh nghiệp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên với nhau bao
gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Như vậy, kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động
chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá nên nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề
của sản xuất, là hậu cần của sản xuất và là khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Hoạt động kinh doanh thương mại có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Đặc điểm về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản của kinh doanh thương mại là lưu chuyển hàng hoá - đó là
sự tổng hợp các hoạt động thuộc các quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá. Quá trình lưu chuyển hàng hoá
chính là thực hiện chức năng chính của kinh doanh thương mại - lưu thông hàng hoá từ nguồn hàng đến lĩnh vực
tiêu dùng.
- Đối tượng kinh doanh thương mại: là các loại hàng hoá phân theo từng ngành hàng như:
+ Hàng vật tư, thiết bị.
+ Hàng công nghệ phẩm tiêu dùng.
+ Hàng lương thực, thực phẩm chế biến.
- Đặc điểm về phương thức lưu chuyển hàng hoá: Lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương mại có thể theo
1 trong 2 phương thức là bán buôn và bán lẻ:
+ Bán buôn là phương thức bán hàng với số lượng lớn cho các mạng lưới bán lẻ, hoặc cho sản xuất, hoặc cho
xuất khẩu để tiếp tục quá trình lưu chuyển hàng hoá.
+ Bán lẻ là hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập
thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ. Khâu bán lẻ là khâu cuối cùng của sự vận động hàng hoá.
- Đặc điểm về sự vận động của hàng hoá: Sự vận động của hàng hoá trong kinh doanh thương mại không giống
nhau vì nó tuỳ thuộc vào nguồn hàng và ngành hàng (hàng lưu chuyển trong nước, hàng xuất nhập khẩu, hàng công
nghệ phẩm, hàng công nghệ cao, hàng nông - lâm sản - thực phẩm). Chi phí thu mua và thời gian lưu chuyển hàng
hoá cũng khác nhau giữa các loại hàng, các nguồn hàng.


Trong thương mại nói chung và hoạt động nội thương nói riêng, cần xuất phát từ đặc điểm quan hệ thương mại
và vị thế kinh doanh với các bạn hàng để tìm được phương thức giao dịch mua, bán thích hợp nhằm đem lại lợi ích
lớn nhất. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoạt động kinh doanh thương mại bị kìm hãm. Nhưng từ khi đẩy
mạnh việc phát triển cơ chế thị trường, kinh doanh thương mại có điều kiện thuận lợi thực hiện đúng chức năng của
mình và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Kinh doanh thương mại phát triển với mức độ cao hơn và
đa dạng hơn.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp thương mại.
Hạch toán kế toán trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại là việc tổ chức hệ thống thông tin (đã kiểm tra) về
tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, tiền vốn; tình hình và kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp thương mại là việc tạo ra mối liên
hệ qua lại theo một trật tự xác định giữa các yếu tố chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá và tổng hợp - cân đối kế
toán trong từng phần hành kế toán cụ thể nhằm thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho quản trị và điều hành doanh
nghiệp.
Khi tổ chức hạch toán kế toán cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc phù hợp: Việc tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại phải phù
hợp với quy mô hoạt động và khối lượng nghiệp vụ phát sinh của từng đơn vị cũng như thích ứng với điều kiện cụ
thể của từng đơn vị về cán bộ, về phương tiện, về kỹ thuật tính toán…
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả: Tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại phải
sao cho vừa gọn, nhẹ, tiết kiệm chi phí, vừa bảo đảm thu thập thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác.
- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm (phân nhiệm): Nguyên tắc này phát sinh từ yêu cầu quản lý an toàn tài sản của
doanh nghiệp, phân công lao động hợp lý. Theo nguyên tắc này, tổ chức hạch toán kế toán đòi hỏi phải tách rời chức
năng duyệt chi, duyệt thu với chức năng thực hiện chi, thực hiện thu của cán bộ kế toán, không để một cán bộ kế
toán kiêm nhiệm cả hai chức năng này.
1.1.3. Nhiệm vụ của kế toán kinh doanh thương mại.
Để cung cấp thông tin cho người quản lý ra quyết định hiện hữu, kế toán kinh doanh thương mại nói chung và kế
toán lưu chuyển hàng hoá nói riêng cần thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ sau:
- Ghi chép số lượng, chất lượng và giá phí chỉ tiêu mua hàng theo chứng từ đã lập trên hệ thống sổ thích hợp.
- Phân bổ chi phí mua hàng cho số hàng đã bán và tồn cuối kỳ.
- Phản ánh kịp thời khối lượng hàng bán, ghi nhận doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu liên quan khác của khối
lượng hàng bán (giá vốn hàng bán, doanh thu thuần)

- Kế toán quản lý chặt chẽ tình hình biến động và dự trữ hàng hoá, phát hiện và xử lý kịp thời hàng hoá ứ đọng.
- Lựa chọn phương pháp và xác định giá vốn hàng xuất bán để đảm bảo độ chính xác của chỉ tiêu lãi gộp hàng
hoá.
- Xác định kết quả bán hàng và thực hiện chế độ báo cáo bán hàng.
- Theo dõi và thanh toán kịp thời công nợ với nhà cung cấp và với khách hàng. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với
Nhà nước.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ
TIÊU THỤ TẠI DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm, nhiệm vụ tổ chức hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định
kết quả tiêu thụ.
1.2.1.1. Khái niệm chung và bản chất của quá trình tiêu thụ hàng hoá.
Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp có chức năng thực hiện việc trao đổi hàng hoá thông qua hoạt động
mua, bán hàng hoá trên thị trường. Hàng hoá trong kinh doanh thương mại là các loại vật tư, thiết bị máy móc, sản
phẩm có hình thái vật chất hay không có hình thái vật chất mà doanh nghiệp mua về với mục đích để bán nhằm thu
lợi nhuận. Quá trình tiêu thụ hàng hoá là khâu có tính chất quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp thương
mại.
Trên góc độ lưu chuyển vốn thì tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng của vòng tuần hoàn vốn trong doanh
nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được chuyển từ hình thái hiện vật là hàng hoá sang hình thái giá trị (tiền tệ), doanh
nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, bù đắp được chi phí và có nguồn tích luỹ để mở rộng kinh doanh. Tiêu thụ hàng hoá
là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Thông qua quá trình tiêu thụ, giá trị và giá trị sử
dụng của hàng hoá được thực hiện.
1.2.1.2. Nhiệm vụ hạch toán nghiệp vụ bán hàng.
Bán hàng là khâu cuối cùng trong hoạt động kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp thương mại. Hoạt động bán
hàng trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá, phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Do có những đặc thù
của nghiệp vụ bán hàng mà hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại có những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ và chính xác tình hình bán hàng của doanh nghiệp trong kỳ cả về giá trị và
số lượng hàng bán trên tổng số và trên từng mặt hàng, từng địa điểm bán hàng, từng phương thức bán hàng.
- Tính toán và phản ánh chính xác tổng số hàng bán ra bao gồm cả doanh thu bán hàng, thuế GTGT đầu ra của
từng nhóm hàng, từng hoá đơn, từng khách hàng, từng đơn vị trực thuộc (theo các cửa hàng, quầy hàng).

- Xác định chính xác giá mua thực tế của lượng hàng đã tiêu thụ, đồng thời phân bổ chi phí thu mua cho hàng
tiêu thụ để xác định kết quả bán hàng.
- Kiểm tra, đôn đốc tình hình thu hồi và quản lý tiền hàng, quản lý khách nợ; theo dõi chi tiết theo từng khách
hàng, lô hàng, số tiền khách hàng nợ, thời hạn thanh toán và tình hình nợ.
- Tập hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản chi phí bán hàng thực tế phát sinh và kết chuyển (hay phân bổ)
chi phí bán hàng cho hàng tiêu thụ, làm căn cứ để xác định kết quả kinh doanh.
- Cung cấp những thông tin cần thiết về tình hình bán hàng, phục vụ cho việc chỉ đạo, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tham mưu cho lãnh đạo về các biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ.
1.2.1.3. Nhiệm vụ hạch toán xác định kết quả kinh doanh.
Hạch toán xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phản ánh chính xác, đầy đủ doanh thu, chi phí. Từ đó xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về kết quả của các hoạt động kinh doanh để làm cơ sở đề ra các quyết định
quản lý.
- Ghi nhận kết quả các hoạt động kinh doanh một cách chi tiết theo từng nghiệp vụ kinh doanh, theo từng đơn vị
trực thuộc, hoặc theo từng ngành hàng, nhóm hàng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh tế nội bộ.
n hoạt động của các doanh nghiệp.
1.2.2. Các phương thức tiêu thụ hàng hoá:
Phương thức tiêu thụ hàng hoá là cách thức đưa hàng tới tay người tiêu dùng, nhà sản xuất, cá nhân , tập thể. Các
doanh nghiệp thương mại có thể bán hàng theo nhiều phương thức khác nhau như bán buôn; bán lẻ hàng hoá; ký
gửi, đại lý. Trong mỗi phương thức bán hàng lại có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (trực tiếp, chuyển
hàng chờ chấp nhận). Để phát triển mối quan hệ mua bán, doanh nghiệp thương mại có thể áp dụng linh hoạt các
phương thức tiêu thụ. Thông thường có các phương thức tiêu thụ hàng hoá sau:
1.2.2.1. Bán buôn hàng hoá.
Bán buôn hàng hoá là phương thức bán hàng cho các đơn vị thương mại bán lẻ, các doanh nghiệp sản xuất để gia
công, chế biến bán ra.
Đặc điểm của bán buôn hàng hoá là:
+ Đối tượng bán hàng hoá là các doanh nghiệp thương mại.
+ Hàng hoá có thể là vật phẩm tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất.
+ Khối lượng hàng hoá bán ra mỗi lần với khối lượng lớn.

+ Thanh toán tiền hàng chủ yếu không dùng tiền mặt mà thông qua hệ thống ngân hàng và bằng các hình thức
thanh toán khác.
+ Hàng hoá bán buôn vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Các hình thức bán buôn hàng hoá.
a. Phương thức bán buôn hàng hoá qua kho: Bán buôn hàng hoá qua kho là phương thức bán buôn hàng hoá
mà trong đó, hàng hoá phải được xuất từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho được thực
hiện dưới hai hình thức:
- Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến
kho của doanh nghiệp thương mại để nhận hàng. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại diện bên
mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán, hàng hoá được xác
định là tiêu thụ.
- Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết
hoặc theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc đi
thuê ngoài, chuyển hàng hoá đến kho của bên mua hoặc một địa điểm nào đó bên mua quy định trong hợp đồng.
Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Chỉ khi nào bên mua kiểm nhận hàng và chấp
nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển giao đó mới được coi là tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu về số hàng đó.
b. Phương thức bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng: Theo phương thức này, doanh nghiệp thương mại sau
khi mua hàng, nhận hàng mua không đưa về nhập kho mà chuyển bán thẳng. Có hai hình thức thực hiện:
- Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: thực chất là hình thức môi giới trung gian trong quan
hệ mua bán, doanh nghiệp chỉ phản ánh tiền hoa hồng môi giới cho việc mua hoặc bán, không được ghi nhận nghiệp
vụ mua hàng cũng như nghiệp vụ bán hàng.
- Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: Trường hợp này, doanh nghiệp cũng phải tổ chức quá trình
tiêu thụ hàng hoá và ghi chép sổ sách kế toán các nghiệp vụ về doanh thu, chi phí, các khoản thanh toán với nhà
cung cấp và khách hàng.
1.2.2.2. Bán lẻ hàng hoá.
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị
kinh tế tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ. Đặc điểm của phương thức bán lẻ hàng hoá là hàng hoá đã
ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện. Bán
lẻ hàng hoá thường bán đơn chiếc, hoặc số lượng nhỏ, giá bán không ổn định.
Phương thức bán lẻ hàng hoá có thể thực hiện dưới các hình thức sau:

a. Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Bán lẻ thu tiền tập trung là hình thức bán hàng mà trong đó tách rời
nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp vụ giao hàng cho người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền
làm nhiệm vụ thu tiền của khách, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách hàng để khách hàng nhận hàng ở quầy hàng
do nhân viên bán hàng giao.
b. Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này, nhân viên bán hàng chịu trách nhiệm vật chất về số
hàng nhận bán tại quầy, trực tiếp thu tiền và giao hàng cho khách hàng tại quầy, đồng thời ghi chép vào thẻ quầy
hàng. Thẻ quầy hàng có thể mở cho từng loại mặt hàng, phản ánh cả về số lượng và giá trị. Cuối ca, cuối ngày nhân
viên bán hàng kiểm kê tiền bán hàng và kiểm kê tồn quầy hàng để xác định lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày
và lập báo cáo bán hàng.
c. Hình thức bán hàng trả góp: Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng thành nhiều lần. Người
mua thanh toán lần đầu tại thời điểm mua hàng, số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và
phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường số tiền trả ở các kỳ tiếp theo bằng nhau, trong đó bao gồm một
phần doanh thu gốc và một phần lãi trả chậm. Về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua thanh
toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho khách hàng và được khách hàng chấp nhận thanh
toán, hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ.
1.2.2.3. Phương thức gửi bán, ký gửi.
Bán hàng đại lý, ký gửi là phương thức bán hàng mà doanh nghiệp thương mại giao hàng cho các cơ sở đại lý,
ký gửi để cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên nhận làm đại lý, ký gửi sẽ trực tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và
được hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá. Số hàng chuyển giao cho các cơ sở đại lý,
ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại. Khi các cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hàng hay
chấp nhận thanh toán hay gửi thông báo về số hàng đã bán được thì số hàng đó được coi là tiêu thụ.
Phương thức này giúp cho doanh nghiệp khai thác thị trường, mở rộng thị trường mà không cần phải đầu tư
thêm vốn.
1.2.3. Phương pháp xác định giá vốn của hàng hoá tiêu thụ.
Trước khi xác định giá vốn của hàng hoá tiêu thụ thì việc xem xét giá hàng hoá nhập kho là điều cần thiết, là cơ
sở xác định giá vốn.
1.2.3.1. Tính giá hàng hoá nhập kho.
Tính giá hàng hoá mua vào là việc xác định giá ghi sổ hàng hoá mua vào. Tùy theo phương thức mua hàng,
nguồn hàng và cách thức doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hay phương pháp trực
tiếp. Nhưng chung quy lại, giá thực tế của hàng hoá mua vào được xác định theo công thức sau:

Giá thực tế của
hàng hoá mua
ngoài
=
Giá mua của
hàng hoá
+
Thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt (nếu có) +
Chi phí phát sinh
trong quá trình mua
hàng
-
Giảm giá hàng
mua
+ Giá mua hàng hoá là số tiền mà doanh nghiệp phải trả cho người bán theo hợp đồng hoặc hoá đơn. Đối với
doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì giá mua của hàng hoá là giá mua không có thuế GTGT
đầu vào. Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì giá mua của hàng hoá bao gồm cả
thuế GTGT đầu vào. Trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá thì giá mua của hàng hoá có thể tính theo giá
CIF hoặc giá FOB. Hàng hoá nhập khẩu mua theo giá FOB là giá mua hàng tại cảng người bán. Còn hàng hoá nhập
khẩu theo giá CIF bao gồm tiền hàng, phí bảo hiểm và phí vận chuyển; thường là giá cuối cùng tại cảng người mua.
Thông thường các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng hóa theo giá CIF.
+ Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng nhập khẩu (nếu có), được tính:
Thuế nhập khẩu = Giá mua x Thuế suất thuế nhập khẩu
Thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá mua x Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Chi phí mua hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng (vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá, chi
phí bảo hiểm, chi phí lưu kho, lưu bãi, chi phí hao hụt tự nhiên trong khâu mua).
+ Khoản giảm giá hàng mua là số tiền mà người bán giảm trừ cho người mua.
Như vậy, về thực chất, giá thực tế của hàng mua bao gồm hai bộ phận: Giá mua hàng hoá và chi phí thu mua.
1.2.3.2. Tính giá vốn của hàng hoá tiêu thụ.

Giá vốn của hàng hoá tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá vốn của hàng hoá tiêu thụ
trong kỳ
=
Giá mua của hàng hoá tiêu
thụ trong kỳ
+
Chi phí thu mua phân bổ cho hàng
tiêu thụ trong kỳ
1.2.3.2.1. Xác định giá mua của hàng hoá tiêu thụ.
Về nguyên tắc, hàng hoá nhập kho theo giá nào thì xuất kho theo giá đó. Nhưng trên thực tế, nếu tính như vậy
thì việc tính giá hàng hoá tại mỗi thời điểm xuất bán rất khó khăn, phức tạp mà nhiều khi còn không hạch toán được.
Chính vì lý do đó, để đơn giản hoá và có khả năng hạch toán được thì tính giá hàng hoá xuất kho có nhiều phương
pháp khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm của doanh nghiệp cũng như yêu cầu quản lý, trình độ cán bộ kế toán mà
doanh nghiệp có thể sử dụng nhất quán một trong các phương pháp tính giá mua của hàng hoá tiêu thụ xuất kho sau:
a. Phương pháp giá đơn vị bình quân.
Theo phương pháp này, giá thực tế hàng hoá xuất kho trong kỳ được tính bằng công thức sau:
Giá mua thực tế hàng xuất kho = Số lượng hàng hoá XK x Giá đơn vị bình quân
Trong đó, giá đơn vị bình quân có thể xác định theo ba cách:
Giá đơn vị BQ
cả kỳ dự trữ
=
Trị giá mua hàng tồn kho ĐK + Trị giá mua hàng nhập trong kỳ
Số lượng hàng tồn kho đầu kỳ + Số lượng hàng nhập trong kỳ
Giá đơn vị BQ
cuối kỳ trước
=
Trị giá mua hàng tồn kho đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Số lượng hàng thực tế tồn kho đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Giá đơn vị BQ

sau mỗi lần
nhập
=
Trị giá mua hàng tồn kho trước khi nhập + Trị giá mua của hàng nhập
Lượng hàng thực tế tồn trước khi nhập + Lượng hàng thực tế nhập
- Phương pháp tính giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn
nữa, công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng tới công tác quyết toán nói chung.
- Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước ưu điểm là khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến
động hàng hoá trong kỳ. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ nhược điểm khi thị trường biến động. Giá cả kỳ hiện tại tăng (giảm)
đột biến so với kỳ trước thì không ảnh hưởng đến trị giá hàng xuất bán trong kỳ mà lại ảnh hưởng đến trị giá hàng tồn
kho cuối kỳ, gây tác động đến kỳ sau. Đó là điều không hợp lý, không phản ánh đúng trị giá vốn hàng hoá tiêu thụ.
- Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược điểm của cả hai phương pháp trên,
vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhưng để thực hiện nó thì mất nhiều công sức, tính toán nhiều lần.
b. Phương pháp giá thực tế nhập trước, xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này, giả thiết số hàng hoá nhập trước sẽ xuất trước, xuất hết số hàng nhập trước mới đến số
hàng nhập sau theo giá thực tế của từng lô hàng xuất. Do vậy, giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế hàng
hoá mua vào sau cùng trong kỳ.
Ưu điểm của phương pháp này là lượng hàng hoá nhập - xuất trên sổ sách gần đúng với lượng hàng hoá nhập -
xuất thực tế và phản ánh tương đối chính xác giá trị hàng hoá xuất kho và tồn kho.
Hơn nữa, giá trị hàng hoá tồn kho sẽ được phản ánh gần sát với giá thị trường vì nó là giá trị hàng hoá ở lần mua
cuối cùng.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với chi phí hiện tại và
nó chỉ thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định và có xu hướng giảm.
c. Phương pháp giá thực tế nhập sau - xuất trước (LIFO).
Phương pháp này giả định những hàng hoá mua vào sau cùng sẽ được xuất bán trước tiên, ngược lại với phương
pháp nhập trước - xuất trước ở trên.
Phương pháp này có ưu điểm là làm cho những khoản doanh thu hiện tại phù hợp với khoản chi phí hiện tại vì
doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị hàng hoá vừa mới được đưa vào ngay gần đó. Phương pháp LIFO thích hợp
trong trường hợp lạm phát, giá cả có xu hướng tăng lên.
d. Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên cơ sở giá mua thực tế lần cuối cùng.

Theo phương pháp này, giá thực tế hàng hoá xuất kho sẽ được tính :
Trị giá mua thực
tế hàng hoá xuất
kho
=
Trị giá mua
hàng hoá tồn
đầu kỳ
+
Trị giá mua hàng
hoá nhập trong kỳ
-
Trị giá mua hàng
hoá tồn cuối kỳ

Trong đó:
Trị giá mua hàng
hoá tồn cuối kỳ
=
Số lượng hàng hoá
tồn cuối kỳ
x
Đơn giá mua lần
cuối cùng trong kỳ
Phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho này thường được áp dụng đối với doanh nghiệp hạch toán hàng tồn
kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
e. Phương pháp giá thực tế đích danh (còn gọi là phương pháp trực tuyến).
Theo phương pháp này, khi nhập kho hàng hoá để riêng từng lô hàng để khi xuất kho lô hàng nào thì sẽ tính theo
giá đích danh lô hàng đó. Đây là phương pháp lý tưởng nhất, nó tuân thủ nguyên tắc chi phí phù hợp với doanh thu
thực tế.

Phương pháp này phù hợp với doanh nghiệp có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho. Còn đối với
doanh nghiệp có nhiều loại hàng hoá thì không thể áp dụng phương pháp này. Bởi vì, việc áp dụng phương pháp giá
thực tế đích danh đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ áp dụng khi hàng tồn kho có thể phân biệt từng loại, từng
thứ riêng rẽ.
f. Phương pháp giá hạch toán.
Theo phương pháp này, toàn bộ hàng hoá biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc
một loại giá ổn định trong kỳ).
Giá hạch toán hàng xuất kho = Số lượng hàng xuất kho x Đơn giá hạch toán
Cuối kỳ, kế toán tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế.
Trị giá mua thực tế
hàng xuất bán
=
Giá hạch toán hàng
xuất bán
x Hệ số giá
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng thứ hoặc từng nhóm hàng hoá chủ yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ
quản lý.
Hệ số
giá
=
Giá mua thực tế hàng tồn kho ĐK + Giá mua thực tế hàng nhập trong kỳ
Giá hạch toán hàng tồn ĐK + Giá hạch toán hàng nhập trong kỳ

Phương pháp giá hạch toán cho kết quả giống phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ về trị giá thực tế hàng
xuất bán nhưng tính giá và hạch toán thì khác nhau.
Như vậy, trong các phương pháp đã nêu trên thì không có phương pháp nào là tốt nhất trong việc đánh giá trị giá
vốn của hàng xuất bán. Phương pháp nào được lựa chọn phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đặc điểm phương pháp quản lý hàng tồn kho, quản lý kho, điều kiện kho tàng, trình độ của kế toán trong
mối quan hệ với giá cả. Phương pháp đó là phương pháp hợp lý nhất phản ánh giá vốn hàng bán một cách chính xác nhất.
Trong một thị trường ổn định, giá mua hoàn toàn không đổi thì mọi phương pháp tính giá sẽ cho một kết quả như

nhau về giá và lợi nhuận. Tuy nhiên, thực tế thì thị trường thường không ổn định, giá có thể lên xuống thất thường
thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác nhau về giá vốn, lợi nhuận, ảnh hưởng cụ thể tới các báo cáo tài
chính. Nên sự lựa chọn phương pháp nào phải được công khai trong bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu doanh
nghiệp muốn thay đổi phương pháp định giá thì phải được sự đồng ý của cơ quan thuế và có giải trình về sự thay đổi
đó tác động đến báo cáo tài chính như thế nào.
1.2.3.2.2. Xác định chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ.
Do chi phí thu mua hàng hoá liên quan đến toàn bộ khối lượng hàng hoá trong kỳ và lượng hàng hoá đầu kỳ, nên
cần phải phân bổ chi phí thu mua hàng hoá cho hàng tiêu thụ trong kỳ và hàng còn lại theo tiêu thức phù hợp ( theo
doanh thu, theo trị giá mua, theo số lượng, trọng lượng… ). Thường các doanh nghiệp sử dụng tiêu thức trị giá hàng
mua để phân bổ chi phí thu mua cho hàng tiêu thụ.
Công thức phân bổ chi phí thu mua cho hàng tiêu thụ trong kỳ như sau:
Chi phí thu mua
phân bổ cho hàng
tiêu thụ trong kỳ
=
Chi phí thu mua tồn
đầu kỳ
+
Chi phí thu mua
phát sinh trong kỳ
x
Trị giá mua
của hàng tiêu
thụ trong kỳ
Trị giá mua của hàng
tiêu thụ trong kỳ
+
Trị giá mua của
hàng tồn cuối kỳ


1.2.4. Nội dung về xác định kết quả kinh doanh.
1.2.4.1. Các chỉ tiêu liên quan đến kết quả tiêu thụ.
Tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT được áp dụng mà nội dung các chỉ tiêu liên quan đến kết quả tiêu
thụ có sự khác nhau. Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, các chỉ tiêu liên quan đến
kết quả tiêu thụ như doanh thu, các chi phí phát sinh sẽ không có thuế GTGT đầu ra hoặc được khấu trừ. Ngược lại,
đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu,
các chi phí đều bao gồm thuế GTGT đầu ra hoặc đầu vào.
Nội dung các chỉ tiêu liên quan đến việc xác định kết quả tiêu thụ:
- Doanh thu bán hàng: là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp lao vụ, dịch vụ
cho khách hàng. Doanh thu bán hàng là số tiền ghi trên hoá đơn bán hàng, trên các hợp đồng cung cấp lao vụ, dịch
vụ.
- Giá vốn hàng bán: bao gồm giá mua thực tế của hàng tiêu thụ và chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ
trong kỳ.
1.2.4.2. Xác định kết quả tiêu thụ.
Kết quả hoạt động tiêu thụ (lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh) trong doanh nghiệp thương mại chính là
kết quả của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Kết quả đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu
thuần và một bên là giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và được biểu hiện qua chỉ tiêu
lợi nhuận (hoặc lỗ) về tiêu thụ. Được xác định như sau:
Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán
Kết quả HĐTT = LN gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí QLDN
= DT thuần - GVHB - Chi phí bán hàng - Chi phí QLDN
Doanh thu thuần
về tiêu thụ
=
Doanh thu
bán hàng
-
Giảm giá hàng
bán
-

Doanh thu hàng
bán bị trả lại
-
Thuế TTĐB, thuế
xuất khẩu
Nếu tổng thu nhập > tổng chi phí thì kết quả kinh doanh có lãi, ngược lại doanh nghiệp bị lỗ. Kết quả hoạt động
tiêu thụ phụ thuộc vào quy mô, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Việc xác định kết quả kinh doanh thường được thực hiện vào cuối kỳ hạch toán (tháng, quý, năm) phụ thuộc vào
đặc điểm của từng doanh nghiệp. Có thể khái quát mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh thu - chi phí và kết quả hoạt
động kinh doanh bằng sơ đồ sau:
LN trước thuế Chi phí BH Chi phí QLDN
Lợi nhuận gộp GVHB
Doanh thu thuần
- Giảm giá
- Hàng bán bị trả lại
- Thuế TTĐB, thuế XK
Doanh thu bán hàng
1.3. KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ HÀNG
HOÁ Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.3.1. Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.
Để hạch toán tiêu thụ hàng hoá, các doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm kinh doanh, yêu cầu của công tác quản lý
và trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán mà có thể áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp
kiểm kê định kỳ.
1.3.1.1. Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại áp dụng hạch toán hàng tồn kho theo
phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh tình hình hiện có, biến động tăng giảm
hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống trên sổ sách kế toán tổng hợp (các tài khoản phản ánh
từng loại hàng tồn kho). Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp hiện nay. Nó có độ chính
xác cao, cung cấp thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp có nhiều chủng
loại hàng hoá có giá trị thấp, thường xuyên biến động, áp dụng phương pháp này sẽ tốn nhiều công sức.

1.3.1.1.1. Tài khoản sử dụng.
a. TK 156 - Hàng hoá.
Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị hiện có của hàng hoá tồn kho và nhập xuất trong kỳ báo cáo theo trị giá
nhập kho thực tế.
Kết cấu:
Bên Nợ: - Giá trị thực tế hàng hoá nhập kho.
- Chi phí thu mua hàng hoá nhập kho.
Bên Có: - Giá trị hàng hoá xuất kho đem bán hoặc tiêu dùng nội bộ.
Dư Nợ: Giá trị thực tế hàng hoá tồn kho cuối kỳ.
Tài khoản 156 - Hàng hoá được chi tiết thành 2 tài khoản cấp 2 sau:
+ TK 1561 - Giá mua của hàng hoá.
+ TK 1562 - Phí mua hàng hoá.
Tài khoản 156 được hạch toán chi tiết theo kho, theo loại hàng, nhóm hàng và từng thứ hàng hoá.
b. TK 157 - Hàng gửi bán.
Tài khoản 157 dùng để theo dõi giá trị sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ theo phương thức chuyển thẳng hoặc giá trị
sản phẩm, hàng hoá bán đại lý, ký gửi hay giá trị lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho người đặt hàng, người
mua nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.
Kết cấu:
Bên Nợ: - Giá trị hàng hoá, lao vụ, dịch vụ gửi bán, gửi đại lý hoặc chuyển bán cho khách hàng nhưng chưa
được khách hàng chấp nhận.
Bên Có: - Giá trị hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã được khách hàng chấp nhận thanh toán hoặc thanh toán.
- Giá trị hàng gửi bán bị từ chối, trả lại.
Dư Nợ: Giá trị hàng gửi bán chưa được chấp nhận.
TK này được mở chi tiết theo từng mặt hàng, từng nhóm hàng.

×