Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN KẾT QUẢ KINH DOANH VÀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.45 KB, 36 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN KẾT QUẢ KINH DOANH VÀ PHÂN PHỐI LỢI
NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
I/ Kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
1. Vai trò của kết quả kinh doanh:
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải quan tâm đến hiêụ quả. Hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả được thể hiện tập trung nhất ở chỉ
tiêu lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong một kỳ kinh doanh hoặc một kỳ kế
toán.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường,
doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh
nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi nhuận được coi là đòn bẩy
kinh tế quan trọng đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho
tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc bởi vì lợi nhuận tác động đến
mọi hoạt động của doanh nghiệp, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh
toán, khả năng chi trả, khả năng tái tạo nguồn vốn kinh doanh . . . Lợi nhuận giúp
doanh nghiệp có điều kiện để trang trải các khoản chi phí đã bỏ ra, thanh toán đúng
hạn các khoản tiền vay, lãi vay . . . trên cơ sở đó tăng uy tín của doanh nghiệp đối
với các đối tác quan hệ, điều này sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để doanh nghiệp bổ xung vốn trong
quá trình sản xuất kinh doanh, khi có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ có điều kiện để
trích lập các quỹ: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất
việc làm, quỹ khen thưởng - phúc lợi , từ đó có điều kiện tái đầu tư vào quá trình
sản xuất kinh doanh, đổi mới hiện đại hoá máy móc thiết bị, mở rộng quy mô kinh
doanh cũng như có điều kiện cải thiện nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận là phương tiện để doanh nghiệp tận dụng, khai thác những tiềm


năng thế mạnh của mình, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường và
làm tròn trách nhiệm của mình với ba khách thể:
Nộp Ngân sách Nhà nước, đảm bảo thu nhập cho người lao động , bảo toàn và phát
triển vốn.
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ
bản để mở rộng tái sản xuất xã hội. Sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp
vào Ngân sách Nhà nước được phản ánh ở thuế thu nhập mà doanh nghiệp đã nộp
sẽ giúp Nhà nước có điều kiện tập trung thêm vốn để đầu tư mở rộng, xây dựng cơ
sở hạ tầng, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Tăng lơi nhuận của doanh nghiệp góp phần tăng vốn tự có của doanh nghiệp,
giảm vốn đầu tư của Nhà nước, chuyển lượng vốn đầu tư đó cho doanh nghiệp
khác phát triển kinh tế.
Như vậy, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất để dánh giá chất
lượng hoạt động kinh doanh, nâng cao lợi nhuận là điều kiện để tăng trưởng, phát
triển kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì kinh tế Nhà
nước mới phát triển được.
2. Nội dung kết quả kinh doanh:
Kết quả kinh doanh là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định, là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với toàn bộ chi phí
của các hoạt động đã thực hiện được biểu hiện dưới chỉ tiêu lãi hay lỗ.
Nội dung của kết quả kinh doanh bao gồm:
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
- Kết quả hoạt động tài chính
- Kết quả hoạt động bất thường
2.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Trong doanh nghiệp thương mại, kết quả từ hoạt động sản xuất kinh
doanh là kết quả bán hàng hoá. Kết quả bán hàng là phần chênh lệch giữa doanh
thu bán hàng thuần với các khoản chi phí kinh doanh được xác định bằng công
thức:



Doanh thu bán
hàng thuần
=
Doanh
thu gộp
-
Các khoản
giảm trừ
-
Thuế khâu
tiêu thụ
* Doanh thu gộp là toàn bộ tiền bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường,
thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ
theo yêu cầu của Nhà nước. Các hàng hoá, dịch vụ đem tặng, cho, biếu hoặc tiêu
dùng trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh thu.
Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua đã chấp nhận thanh toán, không
phụ thuộc đã thu tiền hàng hay chưa.
Nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì doanh thu
gộp không bao gồm thuế GTGT, nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương
pháp trực tiếp thì doanh thu gộp bao gồm cả thuế GTGT.
* Các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và thuế khâu
tiêu thụ.
Kết quả
bán h ngà
-
Doanh thu bán
h ng thuà ần
=
--

Chi phí
QLDN
Chi phí
bán h ngà
Giá vốn
h ng bánà
* Giảm giá hàng bán phản ánh các khoản giảm giá hoặc hồi khấu của doanh nghiệp
sau khi bán hàng vì những lý do sau: hàng kém phẩm chất, sai quy cách theo hợp
đồng, ưu đãi cho khách hàng mua với khối lượng lớn.
* Giá trị hàng bán bị trả lại phản ánh trị giá của số sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã
tiêu thụ bị khách hàng trả lại do nguyên nhân vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng
kinh tế, hàng bị kém phẩm chất, không đúng chủng loại quy cách . . .
* Thuế khâu tiêu thụ là khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà
nước sau khi tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, bao gồm: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu - nếu có
Phần còn lại của doanh thu bán hàng thuần sau khi đã trừ đi giá vốn hàng bán gọi
là lợi nhuận gộp. Lợi nhuận gộp mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh còn phải bù đắp những chi phí chưa được tính vào trị giá vốn của hàng
bán, đó là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
* Chi phí bán hàng là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình tổ chức bán hàng. Chi phí bán hàng
bao gồm: chi phí vận chuyển, chi phí tiền lương nhân viên bán hàng, chi phí lưu
kho, lưu bãi, chi phí quảng cáo . . .
* Chi phí QLDN là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá biểu
hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và
các chi phí chung khác liên quan đến toàn doanh nghiệp.
2.2. Kết quả hoạt động tài chính:
Kết quả các hoạt động đầu tư tài chính là kết quả được hình thành từ các
nghiệp vụ đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh, kinh doanh bất động sản, cho
vay vốn . . .

Công thức xác định:
Kết quả hoạt Thu nhập hoạt Chi phí hoạt Thuế
=
- -
động tài chính động tài chính động tài chính (nếu có)
Thu nhập hoạt động tài chính là số tiền thu được do lãi các hoạt động đầu tư
tài chính, bao gồm:
- Lãi do mua bán chứng khoán
- Lợi tức cổ phần, lãi trái phiếu, tín phiếu
- Thu nhập cho thuê TSCĐ tài chính
- Thu lãi cho vay vốn
- Thu nhập do bán bất động sản
- Thu nhập được chia từ các hoạt động tham gia liên doanh
- Lãi do mua bán ngoại tệ
- Thu khoản chiết khấu được hưởng do thanh toán sớm cho người bán.
- Thu từ các hoạt động đầu tư khác . . .
- Hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư.
Chi phí hoạt động tài chính là các chi phí và các khoản lỗ liên quan đến hoạt
động về đầu tư tài chính. Chi phí hoạt động đầu tư tài chính bao gồm:
- Lỗ do mua bán chứng khoán
- Chi phí cho các hoạt động đầu tư chứng khoán
- Lỗ do hoạt động liên doanh
- Chi chiết khấu bán hàng cho người mua do thanh toán sớm
- Chi phí hoạt động đầu tư tài chính khác
- Chi phí dự phòng giảm giá đầu tư
2.3. Kết quả hoạt động bất thường:
Kết quả hoạt động bất thường là khoản chênh lệch giữa thu và chi bất thường
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Công thức xác định:
Kết quả bất thường = Thu nhập bất thường - Chi phí bất thường

+=
+ Thu nhập bất thường là những khoản thu nhập từ các nghiệp vụ không
thường xuyên ở doanh nghiệp, nằm ngoài dự tính của doanh nghiệp
Các khoản thu nhập bất thường bao gồm:
- Thu do nhượng bán, thanh lý TSCĐ, bán phế liệu
- Thu các khoản được phạt bồi thường
- Thu về các khoản nợ vắng chủ
- Thu lại nợ khó đòi đã xoá sổ
- Ngân sách thoái thu thuế
- Tài sản thừa được hạch toán vào lãi
- Hoàn nhập dự phòng giảm giá tồn kho và phải thu khó đòi.
+ Chi phí bất thường là những khoản chi phí do các sự kiện hay các nghiệp
vụ riêng biệt với hoạt động thông thường mà doanh nghiệp không thể tính toán
trước được.
Các khoản chi phí bất thường bao gồm:
- Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ, giá trị còn lại của TSCĐ thanh lý
nhượng bán.
- Các khoản bị phạt, phải bồi thường
- Ngân sách truy thu thuế
- Giải quyết tài sản thiếu vào chi phí bất thường
- Các khoản nợ không thu hồi được cho vào lỗ
- Các khoản chi phí bất thường khác.
Mọi khoản thu nhập bất thường, chi phí bất thường khi ghi vào sổ kế toán
phải căn cứ vào biên bản của hội đồng xử lý, phải được giám đốc và kế toán trưởng
ký duyệt.
Cuối kỳ tổng cộng 3 kết quả đã nêu ở trên sẽ thu được kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp:
= +
+
Kết quả kết quả hoạt động kết quả hoạt kết quả hoạt

KD sản xuất KD động tài chính động bất thường
Đó là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Nếu kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là một số dương thì chứng tỏ doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại chứng tỏ doanh nghiệp đã không bảo
toàn được nguồn vốn đầu tư ban đầu.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh:
Kết quả kinh doanh là kết quả tài chính cuối cùng do đó nó chịu ảnh hưởng
của rất nhiều nhân tố, cả nhân tố chủ quan lẫn nhân tố khách quan. Trong doanh
nghiệp thương mại thì kết quả kinh doanh chịu ảnh hưởng chủ yếu của 3 nhân tố:
- Doanh thu bán hàng
- Giá vốn hàng bán
- Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
3.1. Ảnh hưởng của doanh thu bán hàng đến kết quả kinh doanh:
Doanh thu bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu các nhân tố khác không thay đổi thì doanh thu bán hàng càng
lớn cho ta kết quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Doanh thu bán hàng lại chịu
ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố như: thị trường, giá cả, khối lượng hàng bán . . .
do đó sự biến động của các yếu tố này cũng tác động không nhỏ đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất mối quan hệ cung cầu
về hàng hoá, vì vậy phương trâm kinh doanh của doanh nghiệp là phải hướng ra thị
trường và do thị trường quyết định. Doanh nghiệp không thể đưa ra thị trường
những hàng hoá có chất lượng thấp với giá cả cao hay là những hàng hoá không
phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng vì như vậy cũng đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp sẽ bị diệt vong, bị thị trường đào thải. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn
tại trên thị trường để thực hiện mục tiêu của mình bằng cách tuân theo thị trường,
đưa ra thị trường những hàng hoá mà thị trường cần với giá cả hợp lý. Thị trường
chính là nơi quyết định sự tồn tại hay diệt vong của doanh nghiệp.
Giá bán hàng hoá cũng có quan hệ chặt chẽ với doanh thu bán hàng. Giá cả
được xác định tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu, thị hiếu tiêu dùng, sức mua của

đồng tiền và tình hình cạnh tranh trên thị trường. Việc xác định giá bán hợp lý sẽ
giúp doanh nghiệp tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tăng vòng quay của
vốn từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận.
Khối lượng hàng hoá tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu bán hàng.
Hàng hoá tiêu thụ càng nhiều thì khả năng về doanh thu sẽ càng lớn. Biện pháp
tăng khối lượng hàng bán cũng là biện pháp quan trọng nhất để tăng kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Tăng khối lượng hàng bán sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng
quy mô kinh doanh, tăng vị thế của mình trên thị trường từ đó dễ dàng thực hiện
mục tiêu “tối đa hoá lợi nhuận”. Do đó hiện nay việc làm thế nào để nâng cao khối
lượng hàng bán mà vẫn đảm bảo bù đắp được giá vốn hàng bán và chi phí kinh
doanh là mối quan tâm rất thường xuyên của các doanh nghiệp.
Công tác tổ chức bán hàng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kết quả tiêu
thụ. Nếu doanh nghiệp tổ chức nhiều hình thức bán buôn, bán lẻ, bán đại lý, bán
qua kho . . . tất yếu sẽ tiêu thụ được nhiều hàng hơn. Việc quảng cáo, chào hàng
giới thiệu sản phẩm , thái độ phục vụ khách hàng cũng là yếu tố quan trọng làm
tăng doanh thu.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu nhữgn phần trên đây cho thấy việc đảm bảo đẩy
mạnh doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải có trình độ tổ chức quản lý tốt bởi đó là
phần công việc rất quan trọng trong viẹc tạo nên thu nhập và lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
3.2. Ảnh hưởng của giá vốn hàng bán đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp:
Giá vốn hàng bán cũng là một trong những bộ phận cấu thành nên kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Giá vốn hàng bán có ảnh hưởng ngược chiều với kết
quả kinh doanh. Gía vốn hàng bán cao trong điều kiện giá bán hàng hoá bị khống
chế bởi sự cạnh tranh trên thị trường sẽ làm lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm
xuống và ngược lại. Do đó để tăng kết quả kinh doanh thì các doanh nghiệp luôn
cố gắng giảm giá vốn hàng bán.
Trong doanh nghiệp thương mại, giá vốn hàng bán bao gồm: giá mua hàng
hoá, chi phí trực tiếp thu mua, bảo quản, phân loại, đóng gói, vận chuyển . . . Giá
mua hàng hoá là giá thoả thuận giữa doanh nghiệp với người bán và nó phụ thuộc

vào giá cả thị trường vì thế doanh nghiệp khó có thể tự đưa ra giá mua theo chủ
quan của mình. Ở đây việc giảm giá vốn hàng bán chủ yếu được thực hiện bằng
cách tiết kiệm tối đa chi phí phát sinh trong quá trình thu mua hàng hoá. Muốn vậy,
doanh nghiệp cần phải lựa chọn được nguồn hàng thích hợp, tổ chức khoa học hợp
lý công tác mua hàng và dự trữ hàng hoá.
3.3. Ảnh hưởng của chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đến kết
quả kinh doanh:
3.3.1. Chi phí bán hàng:
Để đẩy nhanh tốc độ bán hàng, tăng doanh số tiêu thụ đòi hỏi doanh nghiệp
phải bỏ ra các khoản chi phí gọi là chi phí bán hàng. Chi phí bán hàng là biểu hiện
bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình bán hàng và nó phát sinh rất thường
xuyên trong các doanh nghiệp thương mại. Có thể coi chi phí bán hàng như là một
con dao hai lưỡi đối với các doanh nghiệp, nếu biết sử dụng hợp lý khoản chi phí
này sẽ giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, đánh bật các
đối thủ cạnh tranh và tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường từ đó có thể
dễ dàng thực hiện mục tiêu “tối đa hoá lợi nhuận” của mình. Nhưng ngược lại nếu
sử dụng không hợp lý chi phí bán hàng sẽ làm cho lợi nhuận giảm xuống, doanh
nghiệp không có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh và rất dễ bị các đối thủ
cạnh tranh đánh bại. Vì thế khi sử dụng khoản chi phí này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải rất quan tâm đến hiệu quả mà nó mang lại, giảm tối đa các chi phí phát
sinh bất hợp lý và các chi phí không cần thiết ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
của mình.
3.3.2. Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Cũng giống như chi phí bán hàng và giá vốn hàng bán, chi phí quản lý doanh
nghiệp có ảnh hưởng ngược chiều với kết quả kinh doanh. Chi phí quản lý doanh
nghiệp là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động
của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào. Trong
mỗi doanh nghiệp, chi phí quản lý doanh nghiệp thường phát sinh khá lớn và khó
kiểm soát. Do đó các doanh nghiệp phải quản lý thật chặt chẽ các khoản chi phí
này vì nếu chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh bừa bãi, vượt quá giới hạn cho

phép thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận, gây ảnh hưởng không tốt cho
doanh nghiệp.
4. Các biện pháp nâng cao kết quả kinh doanh:
Kết quả kinh doanh được biểu hiện bằng chỉ tiêu lợi nhuận là mục tiêu kinh
tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp do đó nâng cao lợi
nhuận luôn là hướng phấn đấu không ngừng của các doanh nghiệp. Nâng cao lợi
nhuận là động lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Để đạt được mức lợi nhuận ngày càng cao thì các doanh nghiệp cần phải
tuân theo một số biện pháp sau:
4.1. Nâng cao doanh thu bán hàng:
Như chúng ta đã biết, doanh thu bán hàng là một trong những nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao doanh thu bán
hàng là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao kết quả kinh doanh. Để nâng cao
doanh thu doanh nghiệp cần phải thực hiện được một số biện pháp cụ thể sau:
* Tổ chức tốt công tác mua hàng:
“ Bán tốt phải bắt đầu từ mua tốt”. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng và nhằm tiêu
thụ hàng hoá một cách thuận tiện thì trước tiên doanh nghiệp phải tổ chức tốt công
tác thu mua hàng hoá.
Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần với chính sách mở cửa nền kinh tế tất yếu phải có hợp tác, có cạnh
tranh trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Điều đó dẫn đến một mặt
hàng kinh doanh có thể có nhiều nguồn cung cấp với giá cả khác nhau và uy tín
của từng hàng hoá đó cũng không giống nhau. Do đó, để có thể phục vụ tốt nhất
nhu cầu của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có sự khôn khéo trong việc
lựa chọn nguồn cung cấp lý tưởng. Chẳng hạn nguồn cung cấp ổn định có chất
lượng hàng hoá tốt, uy tín hàng hoá cao, vận chuyển gần, giá mua vào hợp lý để có
giá bán phù hợp, tiêu thụ được nhanh và chi phí lưu thông thấp từ đó sẽ làm tăng
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh nghiệm cho thấy doanh nghiệp nên
mua hàng ở nhiều nguồn hàng khác nhau để tránh sự rủi ro trong kinh doanh
nhưng nên chọn một nguồn hàng chính để tận dụng được sự ưu đãi của họ.

* Đẩy mạnh quá trình bán hàng:
Đây là một phương hướng quan trọng để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để đẩy
mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá thì ngoài việc tổ chức tốt công tác mua hàng, doanh
nghiệp cần phải tổ chức tốt công tác marketing, nâng cao chất lượng phục vụ , tích
cực nghiên cứu thị trường để chọn đúng mặt hàng kinh doanh mà thị trường cần,
tích cực nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để lựa chọn phương án kinh doanh thích
hợp, đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng có trình độ nghiệp vụ cao. Ngoài ra,
doanh nghiệp cần phải không ngừng mở rộng mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm để
đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng.
4.2. Tiết kiệm chi phí kinh doanh:
Hạ thấp chi phí kinh doanh gắn liền với nguyên tắc tiết kiệm, nhưng nó phải
khác với việc cắt xén các khoản chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình tiêu thụ
hàng hóa. Vì vậy, việc phấn đấu giảm tỉ suất chi phí cần có quan điểm toàn diện.
Hạ thấp chi phí kinh doanh thương mại đồng thời phải hạ thấp chi phí kinh doanh
của xã hội và phải đảm bảo chất lượng cho người tiêu dùng. Các biện pháp hạ thấp
chi phí kinh doanh cũng bao gồm một loạt các biện pháp để tăng kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp như tăng mức lưu chuyển hàng hoá, phân bố tiêu thụ, tổ
chức vận động hàng hoá hợp lý.
Phấn đấu tiết kiệm chi phí bán hàng trong tất cả các khâu mua vào, dự trữ,
bán ra, đồng thời phải tiết kiệm chi phí quản lý bằng cách hạn chế đến mức thấp
nhất các khoản chi lãng phí không cần thiết.
Ngoài ra, để tiết kiệm chi phí kinh doanh, doanh nghiệp cần phải khéo kết
hợp giữa việc vận dụng quy luật giá trị, các đòn bẩy kinh tế với việc động viên mọi
người, mọi bộ phận trong doanh nghiệp tham gia công tác quản lý chi phí mà đặc
biệt là bộ phận kế toán của doanh nghiệp. Kế toán doanh nghiệp cần phải lập dự
toán chi phí ngắn hạn căn cứ vào kế hoạch tài chính năm, quý để lập chi phí hàng
tháng, từng tuần kế hoạch, sau đó thì phân cấp quản lý chi phí kinh doanh, thường
xuyên hoặc định kỳ tiến hành kiểm tra giám đốc đối với chi phí kinh doanh đặc
biệt với những khoản chi phí chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn. Kế toán khi nắm bắt
được những khoản chi phí phát sinh không đúng mục đích, yêu cầu của doanh

nghiệp thì phải xử lý loại bỏ ngay không được hạch toán vào chi phí, chỉ định
khoản hạch toán những khoản chi phí hợp lý vào sổ sách của doanh nghiệp. Các
thông tin về chi phí do kế toán phản ánh sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được những
khoản chi phí gây ảnh hưởng đến lợi nhuận. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể
hạ thấp chi phí kinh doanh theo hướng tích cực và hợp lý.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại là một yêu
cầu cần thiết, nhất là trong điều kiện kinh tế đang cần có vốn. Việc sử dụng vốn có
hiệu quả chính là việc tổ chức tốt quá trình vận động, lưu chuyển hàng hoá. Vòng
quay vốn càng nhanh là cơ sở không ngừng mở rộng lưu chuyển, rút ngắn thời gian
lưu thông trong xã hội. Các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
bằng cách: bố trí hợp lý cơ cấu tài sản trong doanh nghiệp, tăng năng suất lao
động, đánh giá TSCĐ theo giá thị trường, xử lý các tài sản thừa, các tài sản hết thời
gian sử dụng để tránh tình trạng vốn cố định bị nhàn rỗi không được sử dụng vào
sản xuất kinh doanh.
Ngoài các biện pháp tăng kết quả kinh doanh kể trên còn có một số biện pháp
khác như: nắm chắc các nghiệp vụ thanh toán để tránh tình trạng phải trả lãi vay
quá hạn, không vi phạm luật lệ, chế độ tài chính để không bị phạt bồi thường và
những nguyên nhân khác làm giảm kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
II/ Nội dung và nguyên tắc phân phối lợi nhuận:
Sau một quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thu được một khoản
lợi nhuận nhất định và phải tiến hành phân phối số lợi nhuận đó. Ở đây không kể
đến trường hợp doanh nghiệp hoà vốn hay bị lỗ.
Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn
thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh
nghiệp.
Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc
kinh doanh của mình.
Việc phân phối lợi nhuận phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau :
- Doanh nghiệp cần phải giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa nhà

nước, doanh nghiệp và công nhân viên, trước hết cần làm nghĩa và hoàn thành
trách nhiệm đối với nhà nước theo pháp luật quy định như nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp.
- Doanh nghiệp phải giành phần lợi nhuận để lại thích đáng để giải quyết
các nhu cầu kinh doanh cuả mình, đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các
thành viên trong đơn vị mình.
Nội dung của việc thực hiện phân phối lợi nhuận:
Theo nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 của chính phủ ban hành qui chế quản
lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước, lợi nhuận
thực hiện trong năm của doanh nghiệp sẽ được phân phối theo thứ tự sau:
 Làm nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước dưới hình thức nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp
 Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước
 Trừ các khoản tiền phạt vi phạm kỷ luật thu nộp ngân sách, tiền phạt vi phạm
hành chính, phạt vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn, các khoản chi phí hợp lệ
chưa được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp;
 Trừ các khoản lỗ chưa được trừ vào lợi nhuận trước thuế
 Đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy
định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận thì sau khi nộp các khoản trên,
doanh nghiệp trích lập các quỹ đó theo tỉ lệ do Nhà nước quy định.
 Phần lợi nhuận còn lại được trích lập vào các quỹ của doanh nghiệp theo tỉ lệ
sau:
. Trích lập vào quỹ đầu tư phát triển tối thiểu bằng 50%, không hạn chế mức tối
đa.
. Trích lập vào quỹ dự phòng tài chính: trích 10% số dư của quỹ này, tối đa
không vượt quá 25% vốn điều lệ.
. Trích lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm. Quỹ này được trích 5% lợi
nhuận còn lại và khống chế số dư của quỹ này không vượt quá 6 tháng lương thực
hiện.
. Phần lợi nhuận còn lại sau khi trích đủ các quỹ trên, doanh nghiệp trích quỹ

phúc lợi và quỹ khen thưởng theo quy định.
 Trích tối đa không quá 3 tháng lương thực tế nếu tỉ suất lợi nhuận trên vốn
năm nay không thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm trước.

+
=
=

×