Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.02 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT
LIỆU TẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I/ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.Vị trí của doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Doanh nghiệp sản xuất là những đơn vị kinh tế, tế bào của nền kinh tế quốc
dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sản xuất tiêu dùng
của xã hội.
Trong những năm vừa qua nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Với nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần (quốc doanh, tập thể, tư nhân...) các doanh nghiệp đều có quyền
tự chủ kinh doanh, hoạt động theo pháp luật, hợp tác, cạnh tranh và bình đẳng.
Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều trực tiếp chịu sự tác động
tích cực cũng như tiêu cực của thị trường. Mặt khác thị trường là động lực thúc đẩy
sản xuất và kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp sản xuất góp phần quan trọng
quyết định đến sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, từ đó
xác định được GDP, đến tích luỹ và sự tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia.
2. Khái niệm, đặc điểm của vật liệu
Ở giai đoạn hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều phải tự trang trải mọi
khoản chi phí, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc hạch toán kinh tế, quản lý và giám
đốc bằng tiền mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp nguyên vật liệu là đối tượng lao động, một trong
ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất để hình thành nên thực
thể sản phẩm. Nguyên vật liệu nào cũng là đối tượng lao động song không phải bất
cứ đối tượng nào cũng là nguyên vật liệu. Chỉ khi đối tượng lao động thay đổi do
tác động của yếu tố con người khi đó mới trở thành nguyên vật liệu.
Quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, vật liệu chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuất, dưới tác động của lao động vật liệu bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay
đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu thành nên thực thể của sản phẩm. Về mặt giá
trị vật liệu chuyển dịch một lần toàn bộ giá trị vào giá trị sản phẩm mới tạo ra.
3.Vị trí, vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất


Trong quá trình sản xuất, chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số chi phí để tạo ra sản phẩm, do đó vật liệu không chỉ quyết định đến
mặt số lượng của sản phẩm mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm
tạo ra. Nguyên vật liệu có đảm bảo quy cách chủng loại, có đa dạng phong phú thì
sản phẩm sản xuất ra mới đạt được yêu cầu và phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ngày
một cao của xã hội.
Như vậy vật liệu có một vị trí quan trọng không thể phủ nhận được trong
quá trình sản xuất. Xuất phát từ tầm quan trọng trên, việc giảm chi phí nguyên
vật liệu, giảm mức tiêu hao vật liệu trong sản xuất cho mỗi đơn vị sản phẩm là
một trong những yếu tố quyết định sự thành công trong quản lý sản xuất kinh
doanh. Điều đó sẽ làm hạ thấp chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp đồng thời với một lượng chi phí vật liệu không đổi có
thể làm ra được nhiều sản phẩm tức là hiệu quả đồng vốn được nâng cao.
4.Yêu cầu quản lý
Vật liệu là tài sản dự trữ sản xuất kinh doanh thuộc tài sản lưu động do vậy
thường xuyên biến động. Do đó để tăng cường công tác quản lý, việc quản lý vật
liệu phải được quản lý chạt chẽ ở tất cả các khâu: thu mua, bảo quản, dự trữ và sản
xuất vật liệu nhằm hạ thấp chi phí vật liệu, giảm mức tiêu hao vật liệu trong sản
xuất.
Trong khâu thu mua vật liệu phải quản lý về khối lượng, quy cách, chủng
loại, giá mua và chi phí thu mua. Thực hiện kế hoạch thu mua theo đúng tiến độ,
thời gian phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong khâu bảo quản để tránh mất mát, hư hỏng, hao hụt, đảm bảo an toàn
vật liệu, việc tổ chức tốt kho tàng bến bãi, thực hiện đúng chế độ bảo quản đối với
từng loại vật liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất và kết quả sản
xuất kinh doanh.
Trong khâu dự trữ, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình
thường, không bị ngừng trệ, gián đoạn do cung ứng không kịp thời hoặc gây tình
trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều, đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định được
mức tối đa, tối thiểu, sử dụng hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở các định mức, dự toán chi

phí có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ thấp chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, tăng thu nhập, tích luỹ cho doanh nghiệp. Do vậy trong khâu sử dụng cần
phải tổ chức tốt việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng và sử dụng vật liệu
trong sản xuất.
Tóm lại vật liệu là yếu tố đầu tiên trong quá trình tạo ra sản phẩm. Muốn
sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và tạo được uy tín trên thị trường nhất định
phải tổ chức tốt khâu quản lý vật liệu.
5.Vai trò của kế toán đối với việc quản lý và sử dụng vật liệu
Xuất phát từ vai trò của vật liệu ta thấy nhiệm vụ của các doanh nghiệp
trong việc quản lý vật liệu không kém phần quan trọng, riêng đối với kế toán vật
liệu thường theo dõi vật liệu về mặt giá trị, việc hạch toán đầy đủ tình hình thu
mua, nhập xuất, dự trữ sẽ đưa ra những số liệu kế toán giúp người quản lý có một
định hướng chính xác trong quá trình chỉ đạo sản xuất. Việc hạch toán kế toán vật
liệu chính xác, kịp thời sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc tập hợp chi phí và tính gía
thành hay quyết định tới quá trình kinh doanh là tốt hay xấu.
Việc dùng thước đo tiền tệ để giám đốc tình hình thu, dự trữ, tiêu hao vật
liệu...sẽ ngăn ngừa, xử lý được những trường hợp sử dụng lãng phí, phi pháp vật
liệu, tiết kiệm được chi phí không cần thiết trong quá trình trên.
6. Nhiệm vụ của kế toán vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý kinh tế là tiết
kiệm lao động xã hội. Trong các doanh nghiệp sản xuất phải tiết kiệm triệt để các
khoản chi phí.
Vật liệu là khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản
xuất của doanh nghiệp, ngoài ra nó là bộ phận quan trọng trong tổng số tồn kho ở
doanh nghiệp. Do vậy việc quản lý và sử dụng vật liệu là một trong những nhân tố
quyết định sự thành công của công tác quản lý kinh doanh.
Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường việc cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp là điều không tránh khỏi. Trong cuộc chạy đua này, ai biết
tổ chức quản lý, bố trí sắp xếp các công việc nhịp nhàng theo một guồng máy hoạt
động, không có bộ phận nào dừng thì doanh nhiệp đó sẽ đứng vững và phát triển.

Vật liệu là những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nếu quản lý và sử dụng tốt
sẽ tạo cho các yếu tố đầu ra những cơ hội tốt để tiêu thụ. Chính vì vậy trong suốt
quá trình luân chuyển, việc giám đốc chặt chẽ số lượng vật liệu mua vào, xuất
dùng để đảm bảo cho chất lượng sản phẩm theo đúng yêu cầu về kỹ thuật, giá trị đã
đề ra đòi hỏi cán bộ kế toán vật liệu phải thực hiện những nhiệm vụ, đó là:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vận
chuyển, bảo quản, tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu, tính giá thành thực tế
của vật liệu đã thu mua và nhập kho doanh nghiệp, kiểm tra tình hình thu mua vật
liệu về các mặt: số lượng, chủng loại, giá cả, thời hạn nhằm đảm bảo cung cấp đầy
đủ, kịp thời chủng loại vật liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Áp dụng đúng đắn các phương pháp và kỹ thuật hạch toán hàng tồn kho,
mở sổ, thẻ kế toán chi tiết để ghi chép phản ánh, phân loại, tổng hợp số liệu...về
tình hình hiện có và sự biến động tăng giảm trong quá trình sản xuất kinh doanh,
cung cấp những số liệu kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm. Thực hiện hạch toán hàng tồn kho đúng chế độ, đúng phương pháp quy định
sẽ đảm bảo yêu cầu quản lý thống nhất của nhà nước và yêu cầu quản trị của doanh
nghiệp.
- Tổ chức đánh giá, phân loại vật liệu, kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo
quản, dự trữ và sử dụng vật liệu, tính toán xác định chính xác số lượng giá trị vật
liệu cho các đối tượng sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
-Tham gia kiểm kê, đánh giá lại hàng tồn kho theo đúng chế độ nhà nước
quy định, lập các báo cáo về vật liệu phục vụ cho công tác quản lý và lãnh đạo, tiến
hành phân tích đánh giá vật liệu ở từng khâu nhằm đưa ra đầy đủ các thông tin cần
thiết cho quá trình quản lý.
II/. PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ VẬT LIỆU
1. Phân loại vật liệu
Trong các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu bao gồm nhiều loại, nhiều
thứ khác nhau với nội dung kinh tế và tính năng lý hoá học khác nhau. Để có thể
quản lý một cách chặt chẽ và tổ chức hạch toán với từng thứ, loại vật liệu phục vụ

cho kế toán quản trị cần thiết phải tiến hành phân loại vật liệu. Phân loại vật liệu là
việc sắp xếp vật liệu có cùng một tiêu thức nào đó vào một loại. Đối với vật liệu
căn cứ vào nội dung kinh tế, vai trò của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh,
vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, vật liệu được chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu chính: là đối tượng lao động chủ yếu, là cơ sở vật chất
chủ yếu cấu thành nên thực thể sản phẩm: như sắt thép trong các doanh nghiệp chế
tạo máy, cơ khí; Bông trong các nhà máy sợi; Gạch, ngói, xi măng trong xây dựng
cơ bản; hạt giống, phân bón trong nông nghiệp.
Bán thành phẩm mua ngoài cũng phản ánh vào nguyên vật liệu chính, như:
bàn đạp, khung xe đạp...trong công nghệ lắp ráp xe đạp, vật kết cấu trong xây dựng
cơ bản.
- Vật liệu phụ: cũng là đối tượng lao động nhưng nó không phải là cơ sở
vật chất chủ yếu hình thành nên sản phẩm mới. Vật liệu phụ có vai trò phụ trong
quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm; như làm tăng chất lượng nguyên vật liệu
chính, tăng chất lượng sản phẩm hoặc phục vụ cho công tác quản lý, phục vụ sản
xuất, cho việc bảo quản, bao gói sản phẩm như thuốc nhuộm, thuốc tẩy, sơn, dầu
nhờn, xà phòng...
- Nhiên liệu: là những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng cho quá trình sản
xuất sản phẩm, cho các phương tiện máy móc thiết bị hoạt động trong quá trình sản
xuất kinh doanh như than, củi, xăng dầu, hơi đốt, khí đốt...
- Phụ tùng thay thế: là những chi tiết phụ tùng máy móc dùng để sửa chữa
và thay thế cho máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải như vòng bi, xăm
lốp, vòng đệm...
- Thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các loại thiết bị phương tiện lắp đặt
vào các công trình xây dựng cơ bản của doanh nghiệp như vật kết cấu, công cụ, khí
cụ và vật kết cấu dùng để lắp đặt vào các công trình xây dựng cơ bản.
Phế liệu: gồm những loại vật liệu loại ra trong quá trình sản xuất sản phẩm,
nó đã mất hoàn toàn hoặc một phần lớn giá trị sử dụng ban đầu như gỗ, sắt thép
vụn hoặc phế liệu thu hồi trong quá trình thanh lý tài sản cố định.
Trên thực tế việc sắp xếp vật liệu theo từng loại như đã trình bày ở trên là

căn cứ vào công dụng chủ yếu của nguyên liệu, vật liệu ở từng đơn vị cụ thể, bởi vì
có thứ nguyên vật liệu ở đơn vị này là nguyên vật liệu chính, nhưng ở đơn vị khác
lại là vật liệu phụ...Để phục vụ tốt hơn yêu cầu quản lý vật liệu cần được phân chia
một cách chi tiết hơn theo các tính năng, quy cách, phẩm chất. Trên cở sở đó xây
dựng và lập sổ danh điểm vật liệu trong đó vật liệu được chia thành từng loại,
nhóm, thứ. Việc phân chia này giúp cho doanh nghiệp tìm ra các biện pháp hợp lý
trong việc tổ chức quản lý và sử dụng vật liệu có hiệu quả.
2. Đánh giá vật liệu
Đánh giá nguyên vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của
nó theo những nguyên tắc nhất định. Về nguyên tắc nguyên vật liệu phải được
đánh giá theo giá thực tế (bao gồm giá mua cộng với chi phí thu mua, vận chuyển).
Do nguyên vật liệu có nhiều loại, nhiều thứ, thường xuyên tăng, giảm trong quá
trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và yêu cầu của công tác kế toán nguyên vật
liệu phải phản ánh và cung cấp thông tin kịp thời tình hình biến động và số hiện có
về nguyên vật liệu, do vậy trong công tác thực tế về hạch toán nguyên vật liệu còn
có thể được đánh giá theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một giá ổn định trong
kỳ hạch toán).
2.1 Đánh giá vật liệu theo giá thực tế
2.1.1 Giá thực tế nhập kho
Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho được phản ánh theo từng nguồn nhập:
- Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp khấu trừ thuế, giá trị nguyên vật liệu mua vào là giá thực tế không có thuế
GTGT đầu vào.
- Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp trực tiếp trên GTGT và cơ sở kinh doanh không thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT, giá trị nguyên vật liệu mua vào là tổng giá thanh toán ( bao gồm cả thuế
GTGT đầu vào).
+ Giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu tự chế biến bao gồm giá thực tế
nguyên liệu, vật liệu xuất chế biến và chi phí chế biến.
+ Giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu thuê ngoài gia công, chế biến bao

gồm giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu xuất chế biến, chi phí vận chuyển nguyên
liệu, vật liệu đến nơi chế biến và từ nơi chế biến về đơn vị, tiền thuê ngoài gia
công, chế biến (theo hợp đồng gia công)
+ Giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu nhận góp vốn liên doanh, cổ phần là
giá thực tế được các bên tham gia góp vốn thống nhất định giá.
2.1.1 Giá thực tế xuất kho:
Khi xuất dùng nguyên vật liệu kế toán phải tính toán chính xác giá trị thực
tế của nguyên vật liệu xuất kho cho các nhu cầu, đối tượng khác nhau. Tuỳ théo
đặc điểm từng doanh nghiệp về yêu cầu quản lý, trình độ của cán bộ kế toán có thể
sử dụng một trong các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán trong hạch
toán. Nếu có thay đổi phải giải thích rõ ràng.
a. Phương pháp giá thực tế bình quân tồn đầu kỳ
b. Phương pháp thực tế bình quân gia quyền:
Giá thực tế NVL
xuất kho
Số lượng NVL
xuất kho
Đơn giá thực
tế NVL tồn
đầu kỳ
=
x
Theo phương pháp này, giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho trong kỳ được
tính theo giá trị bình quân:
Trong đó đơn giá thực tế bình quân được xác định như sau:
Giá thực tế NVL xuất kho
Số lượng
NVL xuất kho
Đơn giá thực
tế bình quân

=
x
Đơn giá bình quân
+
=
+
Giá thực tế
NVL tồn đầu kỳ
Giá thực tế NVL
nhập trong kỳ
Số lượng NVL
tồn đầu kỳ
Số lượng NVL nhập trong kỳ
Theo phương pháp này giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho được tính một
cách chính xác, đơn giản nhưng không linh hoạt vì công việc dồn vào cuối tháng.
c. Phương pháp nhập trước, xuất trước:
Theo phương pháp này nguyên vật liệu nhập trước được xuất dùng hết mới
xuất dùng đến lần nhập sau. Do đó giá nguyên vật liệu xuất dùng được tính hết
theo giá nhập kho lần trước, xong mới tính theo giá nhập lần sau.
Giá thực tế đơn vị củaNVL nhập kho theo từng lần
nhập kho trước
Trị giá thực tế của NVL xuất kho
Số lượng NVL xuất kho trong kỳ thuộc số lượng từng lần nhập kho
x
=
d. Phương pháp nhập sau, xuất trước:
Bản chất của phương pháp này giống phương pháp nhập trước, xuất trước
nhưng ngược lại với phương pháp trên là: hàng nhập sau thì được xuất trước với
giá tương ứng với giá nhập kho của hàng đó.
Giá thực tế đơn vị của NVL nhập kho theo từng lần nhập kho sau

Trị giá thực tế của NVL xuất kho
Số lượng NVL xuất kho trong kỳ thuộc số lượng từng lần nhập kho
x
=
Cả hai phương pháp trên đều đảm bảo được tính chính xác của giá thực tế
nguyên vật liệu xuất kho nhưng gặp khó khăn trong việc tổ chức hạch toán chi tiết
nguyên vật liệu tồn kho và tổ chức kho. Do vậy nó chỉ được áp dụng đối với những
doanh nghiệp có ít chủng loại nguyên vật liệu và việc nhập xuất không xảy ra
thường xuyên.
e. Phương pháp giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp này, giá thực tế của nguyên vật liệu xuất kho căn cứ vào
đơn giá thực tế của nguyên vật liệu nhập kho theo từng lần nhập tức là xuất lô hàng
nào thì tính theo giá trị của chính lô hàng đó.
Phương pháp này phản ánh chính xác từng lô hàng xuất, nhưng công việc rất
phức tạp đòi hỏi thủ kho phải nắm được chi tiết từng lô hàng. Phương pháp này
được áp dụng cho các loại thành phẩm có giá trị cao, các loại hàng hoá đặc biệt.
f. Phương pháp hệ số giá

×