Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN NVL TẠI CÔNG TY PHÁT TRIỂN KINH TẾ KỸ THUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.54 KB, 26 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN
NVL TẠI CÔNG TY PHÁT TRIỂN KINH TẾ KỸ THUẬT VIỆT
NAM(DETESCO VIỆT NAM)
I - Đánh giá một cách tổng quát công tác tổ chức hạch toán NVL tại
công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam.
Đứng trước những khó khăn trong công cuộc cạnh tranh của nền kinh tế
thị trường đặt ra cho mỗi DN mục tiêu không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, sử dụng vốn một cách hợp lí... luôn là mục tiêu hàng đầu cho ban
lãnh đạo và nhân viên công ty. Từ một DN bước đầu hoạt động sản xuất kinh
doanh trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường công ty ngay từ
những ngày đầu thành lập đến nay đã trải qua những bước phát triển liên tục thay
đổi cả về quy mô cũng như cung cách quản lí. Trên thị trường, công ty đã kịp
thời nắm bắt, mạnh dạn chuyển hướng kinh doanh, tự khẳng định mình, luôn
đứng vững trước “cơn lốc” thị trường, cơ chế. Sự tồn tại, phát triển của công ty
chính là sự luôn coi trọng đến việc duy trì, báo đảm việc làm và thu nhập ổn định
cũng như nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên công ty. Công ty hoạt
động một cách độc lập, tự chủ không dựa vào hay ỷ lại mặc dù công ty cũng có
vai trò như một DN nhà nước với nhiều ưu đaĩ. không như bao DN khác đững
trước sự khó khăn của cơ chế chuyển đổi đều lâm vào tình trạng phải bù lỗ hay
giải thể.. Công ty đã tự mình vượt lên khó khăn táo bạo và tự xem xét đánh giá
năng lực của mình mà vươn lên trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường. Cho
đến nay công ty đã trang bị cho mình cơ ngơi đủ phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động sản xuất lắp ráp xe gắn máy công ty đã
trang bị cho mình một dây chuyền thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho hoạt
động sản xuất xe gắn máy các loại. Công ty không ngừng đổi mới đầu tư cả
chiều dọc, chiều sâu nhắm phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh.
trong năm 2000-2001 công ty đã mạnh dạn loại bỏ những ngành nghề kinh
doanh đem lại hiệu quả kinh tế thấp mà tập trung nguồn lực cải tiến, đầu tư vào
hoạt động lắp ráp xe gắn máy. Đến năm 2001 công ty cố gắng đưa sản lượng xe
xuất xưởng lên cao hơn, tiến hành đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất khung
xe gắn máy nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá xe gắn máy trong nước. Công ty bên


cạnh đó cũng có đội ngũ nhân viên năng động, có trình độ, kinh nghiệm , nhiệt
tình với công việc. Để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ kinh doanh trong giai đoạn
hiện nay công ty đã hoàn thành hệ thống quản lí nói chung và hệ thống kế toán
nói riêng không ngừng được cải tiến, nâng cao.
Qua thời gian thực tập tại công ty và dựa trên những nền tảng kiến thức
cơ bản đã được trang bị tại trường đại học về hạch toán kế toán NVL tôi xin
được phép đưa ra một vài nhận xét khái quát trong công tác hạchtoán kế toán của
công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam.
1 Một số đánh giá khái quát về công tác kế toán ở công ty
1.1 Điểm nổi bật trong công tác kế toán
Với điều kiện, cơ chế quản lí mới tương ứng với mô hình quản lí và đặc
điểm kinh doanh thì hệ thống kế toán công ty đưọc tổ chức tương đối gọn nhẹ và
thống nhất. Trong hệ thống này các phần hành công việc đều được sáp xếp một
cách có trật tự mang tính chất chỉ đạo trực tiếp từ trên xuống dưới. công ty hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực lại phân tán với nhiều chi nhánh,
đơn vị trực thuộc công ty đã chọn hình thức tổ chức bộ máy kế toán vừa tập
trung lại vừa phân tán hết sức phù hợp. Hình thức này tạo điều kiện cho kế toán
thực hiện chức năng của mình một cách thuận lợi đó là cung cấp thông tin cho
quản lí từ việc kiểm tra, giám sát hoạt động ở các bộ phận chi nhánh, các đơn vị
trực thuộc cũng như toàn bộ công ty. cách tổ chức này cũng làm hạn chế bớt
những khó nhăn trong công tác phan công lao động, chuyên môn hoá, nâng cao
nghiệp vụ . Theo hình thức tổ chức bộ máy kế toán này văn phòng kế toán công
ty sẽ trực tiếp hạch toán mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh dựa trên các hoá đơn ,
chứng từ, hợp đồng ... cùng các hạch toán ban đầu mà các chi nhánh không có tổ
kế toán gửi về đầy đủ. Những chi nhánh nào mà thực hiện hạch toán đầy đủ thì
hàng tháng phải gửi sổ, báo cáo về công ty. Từ các chứng từ hạchtoán, các sổ,
báo cáo do các chi nhánh gửi về kế toán công ty sẽ tiến hành tổng hợp, lập báo
cáo kế toán nhanh chóng, kịp thời hơn đảm bảo cung cấp thông tin một cách đầy
đủ chính xác cho công tác quản lí toàn công ty..
Trong công tác kế toán tại văn phòng công ty các phần hành công việc

kế toán được phân công một cách tương đối rõ ràng đến từng khâu và cho từng
nhân viên kế toán. Sự phân công này làm cho bộ máy hoạt động một cách nhịp
nhàng, thống nhất với sự phối hợp chặt chẽ giữa các khâu để đảm bảo tính đồng
bộ và thống nhất trong hệ thống về phạm vi, phương pháp tính toán, ghi chép,
đối chiếu số liệu. Từ đó tạo điều kiện cho công tác kiểm tra đối chiếu thuận tiện
hơn, kịp thời có thể phát hiện ra được những sai sót từ nhỏ nhất để sữa chữa,
chỉnh lí cho phù hợp. Việc này đảm bảo cung cấp thông tin một cách trung thực
có độ chính xác cao cho ban lãnh đạo, các ngành chức năng liên quan, các tổ
chức đối tượn có nhu cầu thông tin về công ty để đánh giá được hiệu quả kinh
doanh trong kỳ. Các thông tin này đồng thời cũng giúp công ty đưa ra các kế
hoạch , mục tiêu xây dựng những kế hoạch kinh doanh phù hợp với quy mô,
trình độ quản lí cũng như đối với nhu cầu thị trường.
Trong công tác lập chứng từ và luân chuyển chứng từ công ty đã thực
hiện đầy đủ quy định về sử dụng mọi hoá đơn chứng từ theo đúng mẫu quy định
của bộ tài chính ban hành. tất cả mọi tác dộng qua lại của các hoạt động kinh tế
làm nảy sinh các nghiệp vụ kinh tế đều được phản ánh trên các hoá đơn, chứng
từ một cách phù hợp, chính xác về các chỉ tiêu của một chứng từ thông thường
về số lượng, nguyên tắc ghi chép. Chứng từ được thực hiện tập hợp, lưu trữ theo
đúng nguyên tắc trong quản lí chứng từ . Chúng ta biết rằng, chứng từ sinh ra bởi
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong các hình thức kế toán. Chứng từ được coi
là cơ sở ban đầu cho mọi việc hạch toán do đó các chứng từ đều được đánh số
thứ tự, thời gian và được kiểm tra một cách thường xuyên về nội dung nghiệp vụ
kinh tế phát sinh. Các nội dung, nghiệp vụ kinh tế thể hiện trên các chứng từ
gồm cả việc kiểm tra chừng từ gốc kèm theo đó là kiểm tra về con số, chỉ tiêu,
các chữ ký của các đối tượng có kiên quan. Việc kiểm tra này xác nhận chứng từ
sẽ giúp cho công tác tổng hợp, phân loại thông tin kinh tế để vào sổ tổng hợp,
sổ chi tiết tuỳ theo hình thức sổ kế toán áp dụng. Việc hợp lí hoá các thủ tục lập
và xử lí chứng từ một cách thường xuyên cũng rất được coi trọng. Công việc
này bao gồm các công việc cóliên quan như giao các thủ tụét duyệt, ký chứng từ
chặt chẽ tới mức tối đa, đòng thời thực hiện khâu luân chuyển chứng từ theo

đúng quy định và phù hợp với nhu cầu nghiệp vụ quản lí kinh doanh trong công
ty.
Việc quản lí chặt chẽ, phân chia rạch ròi trong công tác quản lí chứng từ
tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho công ty và các đối tượng liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh trong việc kiểm tra, kê khai. Ví dụ, như khi áp dụng
luật thuế GTGT, côn gtác quản lí thuế GTGT đầu vào và thuề GTGT đầu ra
được phân chia thành hai mảng rõ ràng hêts sức thuận tiện cho công tác kê khai
khấu trừ thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. NVL của công ty được
nhập khẩu tới 60 % vì thế thuế nhập khẩu theo quy định cũng được công ty
hachjtoán đầy đủ, chi tiết định kỳ nộp đủ, đóng đủ thuế theo đúng nghĩa vụ với
nhà nước . Công ty sử dụng chứng từ thuế GTGT bên cạnh đó khi đóng thuế cho
nhà nước ( tất cả các khoản thuée, ngân sách) công ty cũng thực hiện đầy đủ thủ
tục giao nhận rất rõ ràng. Chứng từ tiêu biểu là giấy nộp tiền vào ngân sách nhà
nước bằng chuyển khoản. Chứng từ này được ban hành theo đúng quy định
thông tư của Bộ taì chính. Mẫu biểu chứng từ này đã được trình bày ở trên .
Ví dụ : giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước bằng chuyển khoản
Chứng từ này gồm 6 liên:
1. liên 1 lưư tại gốc
2. liên 2 lưu tại ngân hàng- kho bạc nhà nước nơi công ty nộp tiền mở tài khỏn
3. liên 3 giao cho người nộp
4. liên 4 lưu tại kho bạc nhà nước
5. liên 5 lưu tại cơ quan thu nơi quản lí trực tiếp đối tượng nộp tiền.
6. liên 6 lưu tại cơ quan tài chính đồng cấp với cơ qua thu
Có thể nói việc thực hiện đầy đủ chi tiết công tác chứng từ, luân chuyển
đúng trình tự chứng từ làm cho công tác hạch toán của công ty thuận lợi hơn.
• Trong công tác hạchtoán kế toán tại công ty, công ty chọn hình thức kế toán nhật
ký chung để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc sử dụng hình thức
này làm cho quy trình hạch toán và tổ chức sổ sách kế toán đơn giản, dễ làm. áp
dụng hình thức kế toán này cũng hết sức thuận tiện khi các phần hành công việc
được thực hiện bằng máy tính. Công ty cũng đã trang bị hệ thống máy tính hiện

đại để có thể giảm bớt những khó khăn trong công tác kế toán của công ty tạo
điều kiện cho ra những thông tin chính xác, hiệu quả quản lí tốt hơn trong hoạch
định, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
• Công ty áp dụng hệ thống tài khoản theo đúng hệ thống tài khoản kế toán mẫu
của bộ tài chính ban hành. Đặc biệt hệ thống tài khoản kế toán mà công ty áp
dụng trong hạch toán NVL được chi tiết phù hợp cho hoạt động nhập, xuất, tồn
kho NVL thường xuyên của công ty.
• Trong hạch toán hàng hoá, NVL tồn kho công ty sử dụng phương pháp kê khai
thường xuyên. Có thể nói việc áp dụng phương pháp này ở công ty đảm bảo
cung cấp thông tin một cách thường xuyên, chính xác tình hình biến động hàng
hoá, NVL cũng như biến động chi phí sản xuất. Các NVL nhập về được quản lí
một cách rõ ràng, chi tiết theo danh mục từng bộ, từng lô linh kiện ... cho từng
nhà cung cấp NVL cho công ty trong nước và nước ngoài. NVL nhập kho và
xuất kho đều được theo dõi chặt chẽ và hạch toán đầy đủ tránh được tình trạng ứ
đọng thừa , thiếu,thất thoát NVL trong sản xuất cũng như trong các khâu nhập,
xuất, tồn kho NVL .
• Cuối cùng các phần hành công việc kế toán trong công ty được thực hiện một
cách thống nhất, ăn ý với nhau do côn gty có đội ngũ cán bộ và chuyên viên kế
toán có trình độ nghiệp vụ nắm vững, am hiểu kỹ thuật hạch toán các nghiệp vụ
nhập xuất tồn kho NVL nói riêng và các phần hành hạch toán các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh, công việc kế toán nói chung. Đội ngũ cán bộ, chuyên viên có
trình độ đồng đều và không ngừng được công ty tạo mọi điều kiện để có thể
nâng cao trình độ và cập nhật thường xuyên các chế định tài chính và thanh toán
theo đúng quy định. Bên cạnh sự vững chẵc về chuyên môn họ còn có trình độ
về ngoại ngữ và đặc biệt rất nhiệt tình với công việc đồng thời có trách nhiệm
cao trong công việc được giao.
1.2 Một số vấn đề cần nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện công tác hạch toán
NVL tại công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam
• NVL của công ty chủ yếu được mua ngoài, đặc biệt chủ yếu là được nhập khẩu
từ nước ngoài do đó từ khi NVL được xác định là mua cho tới khi NVL nhập

kho của công ty có một thời gian tương đối dài. Chúng ta biết rằng khi NVL
được xác định là mua thì đó đã là tài sản của DN vì thế một cách chính xác cần
hạch toán riêng vào tài khoản gọi là tài khoản hàng mua đi trên đường khi NVL
chưa về nhập kho của công ty hay đang được gửi tại kho người bán. Việc hạch
toán vào tài khoản này chủ yếu vì lí do thông tin, nó sẽ cung cấp chính xác hơn
tình hình tài sản hiện thời của DN. Tuy nhiên, kế toán công ty lại không tiến
hành hạch toán NVL chưa về nhập kho công ty vào tài khoản này. Tại công ty
khi hoá đơn mua NVL đã về tới văn phòng kế toán nhưng NVL lại chưa về nhập
kho kế toán công ty tiến hành lưu các chứng từ, hoá đơn áy vào tập hàng đã mua
nhưng chưa về và chờ cho tới khi NVL về nhập kho mới tiến hành ghi sổ kế
toán hạch toán số lượng NVL trên lê tài khoản liên quan vào kỳ hạch toán mà
khi NVL nhập kho. Như vậy, Việc hạch toán kiểu này chỉ phù hợp khi hoá đơn
đã về NVL chưa về trong tháng đó. Trong tháng đó, để chờ NVL về kế toán có
thể lưu lại chưa giải quyết chứng từ đó và chưa ghi sổ kế toán. Trong tháng đó
khi NVL về nhập kho kế toán căn cứ vào hoá đơn, kiểm nhận hàng hoá lập
phiếu nhập kho và hạch toán bình thường. Song trong trường hợp đến cuối
tháng NVL vẫn chưa về thì vì lí do thông tin néu kế toán không tiến hành hạch
toán ghi sổ theo tài khoản hàng đang đi trên đường có thể sẽ làm cho nguồn
thông tin về tài sản của DN khi cung cấp sẽ thiếu chính xác. Bởi NVL đã được
DN mua có thể đã chấp nhận thanh toán cho người cung cấp hay đã thanh toán
do đó đã thuộc quyền sở hữu của DN và nó đã là một phần tài sản của DN.
• NVL của công ty được chi tiết thành NVL chính, NVL phụ trong đó chủ yếu là
NVL chính đó là các bộ, linh kiện, chi tiết đồng thời khi xuất cũng theo bộ, linh
kiện, chi tiết nhưng mỗi bộ, linh kiện, lại có nhiều chi tiết nhỏ. NVL nhập kho
cũng có khá nhiều linh kiện, chi tiết nhỏ rất khó quản lí song tất cả đều được
hạch toán chung chỉ vào các bảng kê phát sinh các tài khoản 1521, tài khoản
1522 như vậy việc nhập xuất vật liệu nhỏ sẽ khó quản lí trong công tác kiểm kê,
hạch toán vật liệu xuất dùng tình trạng thất thoát dễ xảy ra. Thiết nghĩ công ty
có thể tiến hành lập sổ danh điểm vật liệu và tổng hợp trên bảng nhập, xuất, tồn
vật liệu mà số liệu có thể căn cứ vào thẻ kho đã được lập chi tiết cho từng loại

vật tư khi tiến hành nhập, xuất kho vật liệu nhằm giúp kế toán công tycó thể
nắm bắt kịp thời số liệu về NVL trong kho ở bất kỳ thơì điểm nào mà không cần
trực tiếp tiến hành kiểm tra thường xuyên. Việc làm này phần nào có thể làm
hạn chế bớt khối lượng công việc cho kế toán vật liệu công ty mỗi khi NVL về
nhập kho hay xuất kho. Bởi mỗi khi NVL nhập về thì phòng kế toán công ty đều
tiến hành mọi thủ tục từ khâu nhận hoá đơn cho đến việc xác nhận hoá đơn, lập
FNK, kiểm kê vật tư... lập các bảng kê chi tiết vật liệu... nếu lập sổ danh điểm
vật liệu, thẻ kho cho vật liệu sẽ phần nào giúp cho công tác kế toán thuận tiện
lại có thể dễ dàng đối chiếu, kiểm tra số liệu một cách chi tiết ở bất kỳ thời điểm
nào. Tại kho công ty, thủ kho nên tiến hành lập thẻ kho theo dõi số lượng NVL
tại kho một cách chi tiết về số lượng biến động NVL. Việc lập thẻ kho được tiến
hành tại kho nhằm cung cấp, đối chiếu số liệu một cách chính xác, kịp thời với
số liệu tại phòng kế toán công ty.
• Hiện tại công ty đang thực hiện áp dụng thống nhất giá thực tế NVL xuất kho
theo giá thực tế đích danh nghĩa là NVL nhập về theo giá nào thì sẽ được xuất
theo giá đó. Việc thực hiện tính giá xuất kho theo phương pháp này làm cho
khối lượng công việc ghi chép nhiêù, trùng lặp, lại phải thực hiện ghi sổ nhiều
lần. Vả lại phương pháp này còn bị hạn chế bởi giá thực tế nhập NVL trong kỳ
phải phụ thuộc vaò chứng từ nhập, nếu khi xuất dùng NVL cho sản xuất thì dễ
gây ra ảnh hưởng nhiều tới giá thực tế xuất kho NVL. NVL xuất dùng cho sản
xuất ở công ty có tính đồng nhất cao NVL đi theo bộ, linh kiện, chi tiết vì thế
công ty có thể thay đổi phương pháp tính giá thực tế xuất kho NVL theo
phhương pháp khác cho phù hợp song việc thay đôỉ này nên được tiến hành một
cách thống nhất trong một kỳ hạch toán. Khi muốn thay đổi phương pháp tính
giá nào cần có sự công khai và phổ biến tới từng nhân viên kế toán.
• Thêm vào đó , khi tiến hành xuất dùng NVL cho sản xuất chung bởi các chi phí
sản xuất chung đều được kế toán coong ty hạch toán chung vào tài khoản 627-
chi phí sản xuất chung mà không được chi tiết thành các tài khoản cấp 2 như:
1.TK 6271- chi phí nhân viên phân xưởng
2.TK 6272- chi phí NVL

3.TK 6273- chi phí dụng cụ sản xuất
4.TK 6274- chi phí khấu hao TSCĐ
5.TK 6277- chi phí dịch vụ mua ngoài
6.TK 6278- chi phí bằng tiền khác
Trong các chi phí ấy chia thành các tiểu khoản có các khoản chi phí NVL
vì thế nếu không phản ánh chi tiết thành tiểu khoản chi phí vật liệu 6272 sẽ
không phân biệt được chi tiết NVL chính hay NVL đã xuất dùng cho sản xuất
chung vì vậy việc kiểm soát, phân tích các yếu tố chi phí vật liệu cấu thành nên
giá thành đơn vị sản phẩm gặp nhiều khó khăn, dễ bị nhầm lẫn trong khâu hạch
toán vật liệu xuất dùng để tổng hợp chi phí sản xuất do đó khó có thể đánh giá
được tỷ lệ yếu tố chi phí NVL trong chi phí sản xuất chung nhằm tính giá thành
sản phẩm.
Tóm lại, để theo dõi một cách chi tiết hơn nữa tình hình xuất dùng NVL
kế toán có thể chọn phương pháp tính giá NVL xuất kho theo phương pháp giá
hạch toán đồng thời lập bảng phân bổ NVL chi tiết cho hoạt động xuất dùng
NVL cho sản xuất sản phẩm. Thực hiện điều này sẽ làm cho công tác hạch toán
kế toán NVL tại công ty trở nên chặt chẽ, việc ghi sổ, đối chiếu kiểm tra sẽ dễ
dàng thuận tiện..
II- Một số ý kiến đóng góp cho công tác hoàn thiện hạch toán NVL tại
công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam( Detsco Việt Nam)
1. Phương pháp hoàn thiện công tác hạch toán các nghiệp vụ nhập NVL.
Như ta đã biết ở trên NVL của công ty thường được nhập từ nước ngoài là
chủ yếu( trên 60%), NVL từ khi được xác định là đã thuộc quyển sở hữu của
công ty cho tới lúc về nhập kho của công ty có khoản thời gian đi đương tương
đối dài hoặc vì lí do nào đó phải gửi tại kho người bán. Cách giải quyết của
công ty hiện nay thường là khi công ty nhận được hoá đơn bán hàng mà hàng
vânx chưa về nhập kho của công ty kế toán công ty tiến hành kẹp hoá đơn đó
vào tập riêng gọi là tập hoá đơn hàng chưa về và chờ cho đến khi hàng về nhập
kho công ty mới tiến hành hạch toán số NVL đó vào tài khoản có liên quan và
ghi sổ kế toán. Song, vì lí do thông tin và vì NVL đã xác định là mua và công ty

đã chấp nhận thanh toán hay đã thanh toán rồi thì số NVL đó đã thuộc quyền sở
hữu của công ty vì vậy khi NVL chưa về có thể kẹp hoá đơn và tập riêng cho số
hàng đang đi trên đường và chờ NVL về nhập kho tiến hành hạch toán bình
thường trong tháng đó. Còn khi NVL đén cuối tháng vẫn chưa về thì vì lí do
thông tin và nhằm phản ánh chính xác tình hình hiện tại của công ty thì kế toán
công ty có thể mở tài khoản 151- hàng đang đi trên đường. Tài khoản này
thường dùng nhằm phản ánh tất cả các NVL, hàng hoá mua vào đã thuộc quyền
sở hữu của công ty, nhưng đến cuối tháng hàng vẫn chưa về nhập kho. Tài
khoản này có nội dung, kết cấu.
Bên Nợ: Phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá đang đi trên đường
Bên Có : Phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá đang đi trên đường đã về nhập
kho.
Số dư Nợ: Phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá đang đi trên đường chưa về
nhập kho.
Với việc mở sổ tài khoản 151 theo dõi riêng cho các loại vật tư đã mua và
đang đi trên đường làm cho thông tin kế toán đưa ra chính xác chi tiết hơn. Nó
phản ánh được bức tranh hiện tại của công ty. Sử dụng tài khoản 151 để hạch
toán NVL đi trên đường như vậy kế toán công ty có thể tiến hành hạch toán
theo các bước sau:
- Đầu tháng khi công ty tiến hành mua NVL và hàng đang trên đường về,
hoá đơn về trước. Cuối tháng hàng về tiến hành hạch toán như bình thường
nhưng đến cuối tháng hàng vẫn chưa về:
Nợ TK 151: Giá mua hàng chưa thuế( NVL đang đi đường)
Nợ TK 133: thuế GTGT được khấu trừ
Có TK : 111,112,331,...: Giá thanh toán
Sang đầu tháng sau khi hàng về nhập kho công ty kế toán có thể ghi sổ
như sau:
Nợ TK 152( chi tiết): Giá trị hàng nhập kho theo gía thực tế
Có TK 151 : Giá trị hàng đi trên đường đã về nhập kho
Nếu số hàng đang đi đường tháng trước đã về và được sử dụng trực tiếp

cho sản xuất sản phẩm, phục vụ cho công tác quản lí phân xưởng, quản lí DN kế
toán có thể tiến hành ghi sổ như sau:
Nợ TK 621,627,642
Có TK 151
2. Vấn đề quản lí NVL trong kho
Về vấn đề quản lí NVL tại kho từ trước tới nay từ khâu nhập NVL đến
khâu xuất dùng NVL, hạch toán hàng tồn kho, kiểm tra quy cách, chủng loại, số
lượng vật tư.. của NVL đều do văn phòng kế toán công ty tiến hành trực tiếp chỉ
đạo và thực hiện. Để có thể thuận tiện hơn trong công tác quản lí NVL tại kho kế
toán công ty nên lập ra thẻ kho và một sổ danh điểm vật liệu.Thẻ kho được lập
nhằm theo dõi NVL về mặt số lượng theo số lượng thực nhập, thực xuất. Cuối
tháng, cuối kỳ cộng tổng số nhập, tổng số xuất để tính ra số lượng tồn kho thực
tế. Thủ kho phải thường xuyên đối chiếu số tồn kho trên sổ sách với số tồn kho
hiện vật trên thực tế sau khi đã ghi chép vào thẻ kho. Khi NVL nhập, xuất, tồn
kho thực tế thủ kho sẽ tiến hành theo dõi số lượng NVL biến động trên thẻ kho
đồng thời định kỳ gửi thẻ về phòng kế toán đối chiếu số liệu trên với sổ chi tiết
và các bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho của kế toán. Sổ này sẽ liệt kê toàn bộ

×