Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.03 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY HỘ SẢN
XUẤT TẠI NHTM
1.1) TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ .
1.1.1) Ngân hàng thương mại và sự ra đời của tín dụng Ngân hàng
1.1.1.1) Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản suất hàng hoá . Quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi sự phát triển
của Ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của Ngân hàng trở thành động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề Ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của những
thương gia giàu có. Trước đó có thể họ làm nghề cho vay nặng lãi, và có thể nói
nghề Ngân hàng bắt đầu từ người cho vay nặng lãi.
Ban đầu họ tự tài trợ cho hoạt động của mình, nhưng từ khi họ nhận thấy
những người gửi tiền và rút tiền không cùng một lúc. Do vậy Ngân hàng mở rộng
tiền gửi để cho vay
Vậy Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng ,tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh trong
nền kinh tế.
Hình thức Ngân hàng đầu tiên là Ngân hàng của các thợ vàng hoặc là Ngân
hàng của các kẻ cho vay nặng lãi. Sau đó sụp đỏ thay thế vào đó là NHTM nó đã
có sự phát triển mạnh mẽ cả về kỹ thuật và nghiệp vụ đã làm tăng quy mô và hoạt
động của Ngân hàng như ngày nay.
1.1.1.2) Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng và vai trò của tín dụng Ngân
hàng trong phát triển kinh tế
a) Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng là một hoạt động kinh tế ra đời tương đối sớm cùng với quá trình
phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Hình thức sơ khai đó là tín dụng nặng lãi trong
điều kiện sản xuất thấp kém cho đến nay cùng với sự phát triển của xã hội tín dụng
đã thay đổi và chuyển dịch theo hướng tích cực.


Khái niệm:
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo có nghĩa là tin tưởng tín
nhiệm đó là một phạm trù kinh tế có sản xuất và trao đổi hàng hoá nên bất cứ đâu
mà có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có hoạt động tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay
(Ngân hàng, các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và
các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay. Bên đi
vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.
Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người cho vay.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm một phần lợi tức.
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là
quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan
hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên
cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: Tín
dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói
chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng,
tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình
thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20: Luật tổ chức tín dụng quy định:
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng".

"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác".
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình
thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín
dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng chuyển đổi vào bất cứ lĩnh
vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng
ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín
dụng hiện có.
b).Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
Vai trò của tín dụng đối với sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế của mọi
quốc gia trên thế giới là không phủ nhận được đặc biệt với tính chất cạnh tranh
vốn có của kinh tế thị trường luôn tạo ra xu hướng đa dạng hoá loại hình tín
dụng vì tín dụng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội nên coi tín dụng
Ngân hàng là hình thức phổ biến nhất và có vai trò quan trọng nhất. Vậy vai trò
của tín dụng Ngân hàng đối với việc phục vụ phát triển kinh tế thể hiện như sau:
* Tín dụng Ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất
đồng thời đầu tư phát triển kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về nguồn vốn từ đó
góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Do quá trình tái sản xuất xã hội là thường
xuyên, liên tục nên nhu cầu về vốn cũng nảy sinh thường xuyên với mức độ cao.
Trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức... có một lượng tiền tạm thời nhàn
dỗi trong một thời gian nhât định. Đấy là một mâu thuẫn cần giải quyết sao cho
cả hai bên đều có lợi: Bên cần vốn thì vay được vốn với chi phí thấp, bên có vốn
thì thu được lợi từ khoản vốn ấy. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ra đời đã biến
lượng tiền tạm thời nhàn dỗi trong xã hội thành lượng tiền hoạt động kinh doanh
có hiệu quả, động viên nhanh chóng vật tư lao động và các nguồn lực sẵn có
khác đưa vào sản xuất để phục sản xuất và thúc đẩy sản xuất, lưu thông đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách tạm
thời đã đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh

nghiệp tạo điều kiện trong quá trình sản xuất được liên tục, đồng thời tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật để thúc đẩy
quá trình tái sản xuất xã hội.
*. Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung
vốn và tập trung sản xuất.
Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và phục
vụ sản xuất kinh doanh. Bằng các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và
phong phú cùng với việc thoả mãn thích đáng nhu cầu về lợi ích, nhu cầu tiền
đột xuất của người gửi tiền mà các Ngân hàng thương mại đã thu hút được tất cả
các nguồn tiền nhàn dỗi dù là nhỏ nhất từ trong dân chúng tập trung vào tay
mình và từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng tăng của nền kinh tế hay
nói cách khác hoạt động của tín dụng đã làm nhiệm vụ thông dòng để vốn chảy
từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc thực hiện hoạt động đi vay và cho vay.
Thông qua công tác tín dụng, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã và
đang thực hiện chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng, vốn
đầu tư được mở rộng, và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong
quá trình sản xuất, từ người sản xuất đến người bán buôn, đến người bán lẻ và
cuối cùng đến người tiêu dùng, tín dụng Ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện
toàn bộ quá trình kinh tế cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
*. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển quan hệ kinh tế với
các nước.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại tín dụng Ngân hàng góp phần quan trọng
trong sự nghiệp phát triển quan hệ nước ta với các nước bạn. Một mặt tín dụng
Ngân hàng trực tiếp tham gia trong các quan hệ thanh toán quốc tế mặt khác tín
dụng Ngân hàng đã tham gia trực tiếp trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thông qua các hình thức như mở và thanh toán thư tín dụng (L/c) bảo
lãnh đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, chuyển tiền nhanh đi khắp nơi tín dụng
Ngân hàng nhận các nguồn vốn tài trợ như nguồn vốn ODA, FDI, SAC... từ các
nước cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng quốc tế, đem cho vay tài trợ
các hoạt động sản xuất xuất nhập khẩu, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và

ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong nước đã mang lại những kết quả
to lớn càng làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa nước ta và thế giới buộc các nhà
kinh tế có cái nhìn khả quan đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam
đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất trong nước nhằm phục vụ tốt cho hoạt
động xuất nhập khẩu, góp phần tăng cường kinh tế.
*). Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và
luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm
phát.
Quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi
Ngân hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông lại giảm đi. Như vậy,
thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng sẽ làm tăng, giảm khối lượng tiền
trong lưu thông từ đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh
tế.
Như vậy thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng đã góp
phần không nhỏ trong công cuộc đổi mới và chuyển biến nền kinh tế của đất
nước. Ngoài sự tác động tích cực trong sự phát triển các mặt hoạt động của từng
doanh nghiệp, tín dụng Ngân hàng còn góp phần thực hiện tốt các chính sách
kinh tế của Đảng và nhà nước đã đề ra. bên cạnh đó tín dụng Ngân hàng còn là
yếu tố cơ bản, yếu tố chính cùng với các hoạt động khác, giúp cho từng Ngân
hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng nói chung đứng vững và phát
triển trên thị trường như hiện nay.
1.1.2). Khái niệm và chỉ tiêu đánh giá chung về chất lượng tín dụng
Ngân hàng.
1.1.2.1).Khái niệm:
Vận động trong cơ chế thị trường, để có thể tồn tại, phát triển và dành ưu thế
trong cạnh tranh, thích ứng với thị trường và sự yêu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng các DNNN luôn phải tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm, dich vụ của
mình nhằm thu hút được khách hàng. Chính sách sản phẩm mà trong đó tập trung
nhiều vào việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp thiết
thực, hữu hiệu nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay.

Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu
hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính
cho người cung cấp.
Trong kinh doanh TDNH, chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn
nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Với cách định nghĩa như vậy, ta thấy chất lượng tín dụng ở đây được đánh
giá trên 3 góc độ: Ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín
dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu
tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được đánh giá
theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và
kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều
khách hàng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín dụng.
Đối với nền kinh tế: đối với sự phát triển kinh tế-xã hội chất lượng tín dụng
được đánh giá qua mức phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết
công ăn việc làm, khai thác các khả năng trong nền kinh tế, thúc đẩy qua trình tích tụ
và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng kinh tế, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Có thể nói chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối,vừa là cụ thể vừa
là một chỉ tiêu tổng hợp .Cụ thể thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như khối
lượng cung ứng tín dụng, kết quả kinh doanh, số vòng quay cuả vốn, hiệu suất sử
dụng vốn, nợ quá hạn lãi treo,....Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhân tố
chủ quan (khả năng quản lý trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi
trường bên ngoài khuynh hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị
trường cũng như môi trường pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng .Chất
lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân
hang thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh

của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiêu tiêu thức: Thu hút đươc nhiều
khách hàng tốt , thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi
phí tổng thể về năng suất, chi phí nghiệp vụ...
Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn .Để có được chất
lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải
được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động.
1.1.2.2). Sự tồn tại khách quan của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng các Ngân hàng thương mại phát triển bền vững.
Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các
Ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng
và thu hút dược nhiều khách hàng, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín
của Ngân hàng và sự trung thành của khách hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng cũng sẽ làm gia tăng khả năng sinh lợi của các
sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng do giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp
vụ ,chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và
yêu cầu kiểm tra tối thiểu .
Cải thiên tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho Ngân hàng
trong quá trình cạnh tranh.
Từ những ưu thế trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu
khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài doanh nghiệp và của bản thân các
Ngân hàng thương mại.
1.1.2.3). Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất
lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động
kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ
tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động
kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín
dụng của Ngân hàng.

* Chỉ tiêu sử dụng vốn
Huy động
Hệ số sử dụng vốn =  x100%
Sử dụng
Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá
tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn
thì càng chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động
được.
* Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung dài hạn) / Tổng dư nợ
Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp
dư nợ được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho
thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một Ngân hàng qua
các thời kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp
vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng số nợ quá hạn
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi (nợ quá hạn) là những khoản nợ mà người
vay vẫn có thể trả được cho Ngân hàng. Lý do của những khoản chậm trả này kà
do khách hàng vay vốn đang gập khó khăn tạm thời về tài chính, khả năng thanh
toán.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (nợ quá hạn khó đòi) là những khoản
nợ mà người vay rất ít có khả năng trả nợ Ngân hàng, Ngân hàng bị mất hoàn toàn
khoản vốn và lãi cho vay. Nguyên nhân có thể là do người vay cố tình lừa đảo
Ngân hàng hoặc do bị phá sản không trả được nợ.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp
vụ tín dụng. Các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín
dụng cao của mình và ngược lại. Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn <= 5% thì tốt.
Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của

một Ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những Ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý
do đã thực hiện tốt các khâu trong qui trình tín dụng còn có những Ngân hàng có
được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá
hạn theo đúng qui định .
* Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng ( vòng quay vốn tín dụng )
Doanh số thu trong năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm = 
Dư nợ bình quân trong năm
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của Ngân hàng được sử dụng cho vay
mất lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của
Ngân hàng đã luân chuyển nhanh tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà Ngân hàng chưa thu được
và như vậy, chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều Ngân hàng
cũng đã sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc
tuân thủ các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
1.1.2.4. Hiệu quả của việc nâng cao chất lượng tín dụng
Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tín dụng luôn chiếm
một tỷ trọng lớn, các khoản cho vay thường chiếm từ 60-80% trong tổng số các tài
sản có và tạo ra phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng.Tuy nhiên, trong hoạt động tín
dụng yếu tố rủi ro luôn thường trực và ở mức tỷ lệ khá cao, do đó mà tại các Ngân
hàng người ta luôn dành sự chú ý đặc biệt đến việc kiểm soát cũng như những biện
pháp để chống đỡ, hạn chế rủi ri tín dụng. Một trong những biện pháp hữu hiệu là
việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng. Đảm
bảo chất lượng tín dụng đem đến lợi ích cho cả các NHTM, các doanh nghiệp nói
riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Xét riêng về phía Ngân hàng, nâng cao
chất lượng tín dụng có thể đem lại một số kết quả tích cực sau:
- Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần bảo đảm và làm gia tăng lợi
nhuận cho Ngân hàng, bởi tín dụng là nghiệp vụ mang lại doanh lợi chủ yếu cho

Ngân hàng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc Ngân hàng có khả năng
thu hội nợ đầy đủ và đúng hạn. Nhờ đó, Ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng
cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ Ngân hàng khác do tạo được thêm nguồn
vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng thu hút được nhiều
khách hàng hơn bằng các hình thức và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, qua đó
tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của Ngân hàng, nâng cao khả năng
cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
- Nâng cao chất lượng tín dụng cũng sẽ làm tăng khả năng sinh lợi của các
sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ,
chi phí quản lý và các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay.
Các kết quả thu được từ việc nâng cao chất lượng tín dụng kể trên sẽ góp
phần cải thiện tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân
hàng trong quá trình cạnh tranh. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một
tất yếu khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của bản thân các NHTM.
1.1.2.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là kết quả của cả một quá trình từ khi khoản tín dụng
được Ngân hàng xét duyệt, phát ra cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có
rất nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc Ngân hàng không thu hồi được
vốn và phải chịu thua thiệt. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ đòi hỏi phải
hiểu rõ về các nhân tố gây ảnh hưởng tới nó.
a. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó
có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Để đảm bảo
và nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù
hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, đồng thời kết hợp được lợi ích
của người gửi tiền, của Ngân hàng và người vay tiền.
b. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các nội dụng kỹ thuật nghiệp

vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một
giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo Ngân hàng
có liên quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ chức khoa
học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng.
• Kiểm soát nội
Đây là hoạt động mạng tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi Ngân
hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng thường
xuyên, càng chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện
đúng các nguyên tắc, các yêu cầu thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như qui trình
tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những
sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều
kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng.
1.1.3) Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất trong Ngân hàng thương mại vậy
trong quan hệ tín luôn luôn hàm chứa rủi ro.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra các tổn thất mà Ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ vồn và lãi cho Ngân
hàng.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến
khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên khoản vay đó luôn luôn hàm chứa rủi ro.
Có những nguyên nhân gây ra rủi ro cho Ngân hàng.
Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan: Khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc kém
hiệu quả, chủ động lừa đảo cán bộ Ngân hàng. Rât nhiều người vay sẵn sàng
mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao để đạt được mục đích họ sẵn sàng
tìm mọi thủ đoạn để đối phó với ngân hàng.
Nguyên nhân thứ 2: Nguyên nhân bất khả kháng tác động đến người vay
làm cho họ mất khả năng thanh toán với Ngân hàng như là lũ lụt hạn hán chiến
tranh hoặc là do chính sách kinh tế của chính phủ. Làm cho khả năng trả nợ của
họ bị suy giảm, ngoài ra còn nguyên nhân do Ngân hàng chất lượng cán bộ tín
dụng yếu kém không đủ trình độ để đánh giá khách hàng, hoặc là chủ quan đánh

giá không tốt, cố tình sai lầm.
Biện pháp đề ra: Ngân hàng để ra Ngân hàng phải quản lý tốt rủi ro tín
dụng với các chỉ tiêu sau. Hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn nợ

×