Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Quan niệm của I.Kant về tự do

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631 KB, 53 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>



<b>NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN </b>



<b>QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT </b>


<b> VỀ TỰ DO </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


<b>NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN</b>


<b>Khoa:Triết học </b>


<b>Mã sinh viên : 16031924 </b>



<b>QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT </b>


<b> VỀ TỰ DO </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP </b>



<b>Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>



Tôi xin cam đoan :



Khóa luận “Quan niệm của I. Kant về tự do” là do tôi viết và chưa cơng
bố. Các trích dẫn trong khóa luận đều là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>LỜI CẢM ƠN </b>



Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp : “ Quan niệm về tự do của
Immanuel Kant” bằng tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Khoa Triết học – trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em có mơi trường học tập tốt trong
suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại trường.


Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới cô PSG.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền đã
giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tơi hồn
thành đề tài luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lịng cảm ơn tới
thầy cơ và bạn bè trong Khoa đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt q
trình học tập và hồn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>MỤC LỤC </b>



Phần mở đầu ... 1


Phần nội dung ... 6


Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do ... 6


1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa ... 6


1.2. Quan niệm về tự do trước Kant: ... 11



1.3. Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant ... 15


1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Kant ... 21


Chương 2 . Nội dung cơ bản quan niệm của Kant về tự do ... 24


2.1. Khái niệm của I. Kant về tự do ... 24


2.2. Quan niệm của I.Kant về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu ... 26


2.3. Tự do thực hành ... 29


2.4. “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao ... 35


2.5. Đánh giá quan niệm về tự do của Kant ... 40


2.5.1. Giá trị của quan niệm tự do của Kant ... 40


2.5.2. Hạn chế của quan niệm tự do của Kant ... 42


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

1


<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>
<i><b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b></i>


Kể từ thời cổ đại đến nay, tự do vẫn ln là cái đích mà loài người
hướng đến, con người đã trải qua các cuộc đấu tranh phá bỏ gông cùm, xiềng
xích về mọi mặt để vươn mình đến với tự do theo nghĩa đầy đủ nhất. Với tư
cách là một phạm trù triết học, khái niệm tự do không ngừng vận động, phát
triển qua từng thời kì, gắn với quan điểm của các nhà tư tưởng khác nhau. Tự


do là khát vọng thường trực trong mỗi con người. Tự do đã trở thành bản chất
tự nhiên, bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng
ao ước nó. Chính vì thế, khơng một


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

2


Trong bối cảnh xã hội hiện nay, thì tự do vẫn luôn là vấn đề quan trọng
trong xã hội. Do sự phát triển ngày càng cao của xã hội, nên nhận thức về tự do
cũng ngày càng khác biệt. Ở nước ta, nhận thức về tự do cũng có sự khác nhau
giữa các tầng lớp người trong xã hội, xuất hiện những quan niệm đặc biệt ở lớp
trẻ về việc Việt Nam khơng có tự do, hay quyền tự do bị xâm phạm. Để có cái
nhìn đúng về vấn đề này thì việc nâng cao nhận thức cho mỗi người về tự do
có ý nghĩa quan trọng. Việc trở lại nghiên cứu quan niệm của các nhà triết học
trong lịch sử về vấn đề tự do sẽ giúp chúng ta có được một cơ sở lý luận cho
cách hiểu về tự do. Với những lý do trên, tôi chọn: “Quan niệm của I.Kant về
tự do” làm đề tài khóa luận của mình.


<b>2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

3


học của Kant vẫn là đề tài hấp dẫn các nhà nghiên cứu, các triết gia . Tuy
nhiên, những vấn đề , những tài liệu liên quan đến Kant không được dịch ra
tiếng Việt nhiều, trong chương trình giảng dạy có đưa vào giảng dạy nhưng
nó cịn q ít để tầng lớp trẻ ngày nay hứng thú và tìm hiểu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

4


hóa thơng tin tái bản lần thứ ba năm 2005, tác giả đã trình bày khá đầy đủ và
hệ thống về đạo đức học của Kant. Tác giả cũng dành phần lớn công sức của


mình để luận giải về “tự do” và “sự tự chủ” , “tự do” và đối tượng của đạo đức
học ( Sự Thiện hoàn hảo), chứ chưa đi sâu vào phân tích nội hàm của khái
niệm “ tự do” cũng như nguồn gốc ra đời của khái niệm này trong đạo đức học
Kant.


Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của học giả Việt Nam đã đề cập
và luận giải được những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của Kant. Tuy
nhiên, tôi thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu dành
riêng để luận giải về “tự do” cũng như nội hàm của nó . Vì vậy , luận văn này
tơi sẽ bổ sung những luận giải cũng như nội hàm giá trị mà quan niệm “tự do”
của Kant mang lại.


<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>


Mục đích nghiên cứu: Khóa luận tập trung làm rõ quan niệm của I.Kant
về tự do, từ đó đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm đó.


Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:


Thứ nhất, trình bày điều kiện, tiền đề ra đời quan niệm của I.Kant về tự
do.


Thứ hai, phân tích nội dung cơ bản của quan niệm tự do của I.Kant.
Thứ ba, đưa ra đánh giá về những giá trị cũng như hạn chế của quan
niệm của I, Kant về tự do.


<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>


Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: quan niệm về tự do của I. Kant


Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung
chủ yếu của quan niệm tự do của I.Kant.


<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b>
<b>5.1. Cơ sở lý luận </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

5
<b>5.2. Phương pháp nghiên cứu </b>


Khóa luận sử dụng các phương pháp cơ bản sau: phân tích, so sánh, tổng
hợp, kết hợp giữa lơgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp…


<b>6. Đóng góp của khóa luận: </b>


Khóa luận tìm hiểu những khía cạnh của quan niệm tự do trong triết học
Kant để từ đó làm sáng tỏ những giá trị đặc biệt cũng như những hạn chế ở
quan niệm “tự do” của ông.


<b>7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận: </b>
<b>7.1. Ý nghĩa lý luận </b>


Luận văn đã trình bày những quan niệm về tự do của Kant ở những khía
cạnh mới hơn không chỉ đơn thuần là chỉ trong mối quan hệ với đạo đức


<b>7.2. Ý nghĩa thực tiễn </b>


Bài luận có thể dung làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và học tập về
triết học cũng như quan niệm tự do của Kant


<b>8. Kết cấu của khóa luận: </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

6


<b>PHẦN NỘI DUNG </b>


<b>Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do </b>
<b>1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa </b>


Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren
và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng
lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm
quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên
lỗi thời.


Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh,
Pháp... đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Cách
mạng công nghiệp Anh như một biến cố kinh tế quan trọng nhất trong đời sống
kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy vọt của sản xuất,
làm tăng trưởng mạnh mẽ trình độ, khối lượng và nhịp độ sản xuất. Bên cạnh
đó, các cuộc Cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở đường cho phát triển
các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng Tư sản Pháp (1789 –
1794).


Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại:
“Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người
trong nhận thức thế giới, cách mạng Tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo
thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh
công nghiệp” [12, 8].



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

7


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

8


chính trị cùng với sự bảo thủ độc đốn của triều đình Phổ là lực cản lớn của
nước Đức trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.


Về kinh tế: nền kinh tế thị trường bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế sản
xuất phong kiến lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ,
những tàn dư của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự phụ thuộc
lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị phản
động…đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm tăng thêm mức độ lạc hậu của
nước Đức so với các nước phát triển tư bản chủ nghĩa. Năng suất lao động
thấp, đời sống của đại đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo nàn,
cùng cực. Toàn cảnh nền kinh tế nước Đức lúc bấy giờ hết sức manh mún, trì
trệ và phân tán.


Về chính trị: Vua Friedrich Wilhem II đứng đầu triều đình Phổ lúc bấy
giờ vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ
chuyên chế hà khắc, muốn nhân dân mình quay trở về thời trung cổ, ngăn cản
đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy, song giai cấp tư
sản nước Đức lúc đó vẫn cịn non nớt và yếu đuối, chưa có đủ điều kiện chín
muồi cho việc nổi dậy giành chính quyền. Chính vì thế, cả nước Đức bao
trùm một bầu khơng khí ngột ngạt, bất bình của nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

9


thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp
sụp đổ, thậm chí chẳng cịn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc
thậm chí khơng cịn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”


[4, 754].


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

10


tưởng, trong triết học…Triết học Đức là sự tiếp tục của lịch sử Đức trong ý
niệm” [4, 557]. “Cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng
triết học Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước một cuộc cách mạng chính trị”[5,
39], nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư
sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ
đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết vấn đề
phát triển đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

11


để dành chỗ cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu hình học” [15, 55]
Tóm lại, triết học I.Kant nói chung và quan niệm về tự do nói riêng là sản
phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội Đức đầu thế kỷ XVIII; nó phản
ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu thuẫn phát sinh
trong lịng xã hội đó. Đồng thời triết học I.Kant cũng là sự khai phá tiến bộ trên
<i>lĩnh vực tư tưởng, được coi là “lý luận Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp” </i>
<b>1.2. Quan niệm về tự do trước Kant: </b>


Trong triết học xã hội, “Tự do” với tư cách một phạm trù được quan
niệm là cái cần cho con người trong việc tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần
để thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn bộ khả năng và thiên hướng của
mình. Ý thức về tự do và vươn tới tự do chỉ có trong xã hội lồi người. Tồn
bộ kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ rằng, tự do là giá trị thiêng liêng và là đặc tính
bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống. Phạm trù “Tự do”
dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt động phù
hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp hay cản


trở từ bên ngồi. Đó mới chỉ là định nghĩa tương đối và đơn giản về tự do.
Trên thực tế, tự do là một phạm trù mở, hiểu và thể hiện tự do trong đời sống
là một q trình mâu thuẫn và có tính hai mặt. Vì thế trong lịch sử nhân loại đã
có nhiều nhà triết học bàn về vấn đề này, từ Arixtốt, Êpiquya đến C.Mác, từ
phái Khắc kỷ đến chủ nghĩa Hiện sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

12


cái tối ưu từ nhiều cái tốt, khắc phục cả sự bất cập lẫn sự thái quá. Và, do vậy,
“trung dung” khác với “ba phải”, lưng chừng, lại càng khác với thái độ lãnh
đạm, dửng dưng trong cuộc sống [8,215]. Êpiquya cũng là một đại diện của
nền triết học Hy Lạp cổ đại, ông đã đem lại những suy nghĩ mới về vấn đề tự
do. Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người
khỏi mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời
sống cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc,
tránh mọi khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường.
Và, tự do như thế mới là tự do mang tính người. Rằng, tự do là khơng bị lệ
thuộc vào thói quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, khơng bận tâm đến cái
chết, khơng thừa nhận vai trị của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

13


hàm chứa ý nghĩa khác trước. Khi đó, thay vì tranh luận để tìm kiếm chân lý,
các đại diện của tư tưởng Kitơ giáo địi hỏi tranh luận làm sáng tỏ những chân
lý sẵn có. Lấy Kinh thánh làm nền tảng, làm chân lý bất biến, tuyệt đích, các
Giáo phụ xem lý trí chỉ là kẻ phụng sự đức tin. Lactantius còn đưa ra lời
khuyên nên quàng vào cổ của lý trí một cái ách để định hướng nó. Tự do được
<i>giải thích theo quan điểm thần trí học (Theosophy), nhận thức và hành động tự </i>
do gắn liền với nhận thức về sự sáng tạo bởi chúa Trời. Đại diện tiêu biểu cho
triết học Kitô giáo là Ơâgtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tơmát Đacanh trong


triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên
chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh
thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị
biến thành nơ lệ thì sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tơmát
Đacanh cho rằng, tự do với tư cách một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng
buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế
là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực, biện minh cho tự do ảo tưởng,
phi hiện thực. Phục hưng là sự kết thúc đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là
sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitô giáo về tự do, chỉ cịn giữ lại tính hình
thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà Chúa ban cho con
người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn phương thức
sống và tín ngưỡng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể
hiện ra ở cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết
Thần là trung tâm được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa
thầy tu khổ hạnh được thay bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được
thay bằng thuyết tự do cá nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

14


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

15


vai trị hết sức quan trọng của bình đẳng, với tư cách là điều kiện tiên quyết để
có được tự do như là quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người.


Từ đó ta thấy được quan niệm về tự do trước Kant vẫn là tự do mà phần
nhiều hướng đến tự nhiên, vẫn hướng đến tự do không theo một nguyên tắc
nào mà chỉ do theo chính bản thân con người hoặc có theo những quy tắc
thống nhất thì nó cũng mới là bước đầu xây dựng .



<b>1.3. Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant </b>
Từ trước đến nay, vấn đề con người được đặt ra và nghiên cứu trong
triết học từ rất sớm trước Kant. Chẳng hạn, Protagore khẳng định: "Con người
là thước đo của mọi vật". Socrate đưa ra mệnh đề nổi tiếng: "Con người hãy tự
nhận thức chính mình". Aristote cho rằng, "con người là động vật chính trị".
Các nhà triết học kiêm thần học thời trung cổ coi con người như là sản phẩm
của Thượng đế, cịn đời sống của nó là sự thực hiện mệnh trời. Các nhà khai
sáng Pháp xem con người như là giá trị cao nhất sáng tạo ra tất cả mọi giá trị
văn hoá trên trái đất, là thực thể có lý tính của vũ trụ mà tất cả phải xuất phát
từ đó và quay về đó. Khi tiếp thu những thành quả nghiên cứu về con người
của các nhà triết học tiền bối, Kant đã nhận ra rằng, vấn đề con người trong
siêu hình học cũ mới chỉ dừng lại ở mức độ chung . Kế thừa những quan điểm
triết học tiền bối về con người và những ý tưởng nhân đạo trong huyền thọai và
cả trong Kinh thánh, bằng những hiểu biết của mình, Kant đã thực sự định hình
một hướng mới trong nghiên cứu triết học - triết học nhân học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

16


hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có thể
đạt tới (cịn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm).


Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo I. Kant, đó là giới tự nhiên.
Cịn thế giới mà trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do là khả năng tiên
nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy
luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách
tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động
và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối
bởi tính thực tiễn. Lý tính được gọi là thực tiễn, theo I. Kant, là lý tính mà ý
nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con người. Động lực của lý tính
thực tiễn khơng phải là tư duy, mà là ý chí của con người. I. Kant gọi ý chí của


con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con người được quy
định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên nhân
thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về
Thượng đế. Theo I. Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy
luật, luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt
ra cho bản thân mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

17


lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội,
triết học lịch sử”.[ 27]


Tư tưởng đề cao tính đặc thù của con người, coi con người là một thực
thể bí ẩn, độc nhất vơ nhị, vượt ra ngồi khả năng khám phá của các cơng cụ
nhận thức truyền thống, kể cả bản thể luận và nhận thức luận, kể cả logic học,
đạo đức học và thẩm mỹ học, kể cả triết học tự nhiên, triết học xã hội và triết
học lịch sử… là một tư tưởng rất độc đáo, trước I. Kant chưa từng được phát
biểu một cách tường minh trong kho tàng tri thức nhân loại (Diogiene và
Socrate tuy dường như cũng có nói đến sự bí ẩn của đời sống con người, song
các ông hướng tới khám phá sự bí ẩn đó bằng các cơng cụ duy lý của tư duy
trừu tượng). Với I. Kant, tính bí ẩn và độc nhất vô nhị của sự tồn tại người
được khẳng định là vượt ra ngồi khn khổ của nhận thức duy lý; bởi vậy,
nhận thức con người là nhằm luận giải những hiện tượng cá nhân đầy bản sắc,
những hành vi và hoạt động phức tạp của con người trong các thiết chế xã hội
đã từng tồn tại trong lịch sử. Tư tưởng này về sau được S.Kierkegaard, F.
Dostoievski, M. Heidegger, H. Rickert, M. Scheler, J. Sartre cùng một số nhà
triết học hiện sinh khác khai thác và phát triển thêm làm lộ ra rõ hơn tính hợp
lý của nó. Với sự ứng dụng ngày càng sâu hơn của thông diễn học
(heurmernetics), tư tưởng này càng được thể hiện và được chứng minh là một
hướng đi rất chủ yếu trong nhận thức con người với tất cả tính phức tạp của đối


tượng này - con người, một thực thể vừa sinh học vừa xã hội, vừa cá nhân vừa
tộc loại,vừa vật chất trần tục vừa tinh thần thiêng liêng…


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

18


Trong toàn bộ triết học của Kant , các tác phẩm của ông chủ yếu trả lời
ba câu hỏi lớn


1. Tơi có thể biết được điều gì ? câu hỏi này được trả lời trong tác
<i>phẩm Phê phán lý tính thuần túy </i>


2. <i>Tơi cần phải làm gì ? Câu hỏi này được trả lời trong tác phẩm Phê </i>
<i>phán lý tính thực tiễn </i>


<i>3. </i> Tơi có thể hy vọng vào cái gì ? Ơng trả lời câu hỏi này trong tác
<i>phẩm Phê phán khả năng phán đoán </i>


Trả lời ba câu hỏi trên nhằm lý giải cho vấn đề cơ bản nhất trong triết học :
Con người là gì ?


Kant cho rằng con người bao gồm thân xác và lý tính. Thân xác con
người thuộc về thế giới hiện tượng , còn lý tính là năng lực tinh thần tiên
nghiệm thuộc về thế giới vật tự nó . Bản thân lý tính cũng được phân đơi
thành lý tính lý luận ( lý tính thuần túy ) và lý tính thực tiễn .


Lý tính lý luận là năng lực tinh thần tiên nghiệm thể hiện ở khả năng
nhận thức của con người . Nhờ năng lực tinh thần tiên nghiệm :cảm năng , trí
năng , lý năng , vối những công cụ nhận thức tiên thiên , con người có được tri
thức về đối tượng .



Lý tính thực tiễn là năng lực tinh thần giúp ra lệnh cho con người hành
động trong quan hệ của con người với thế giới. Lý tính thực tiễn là khả năng
tiên thiên, sẵn có ngang nhau ở tất cả mọi người .


Theo Kant, con người có lương tri, lương tâm, ý thức đạo dức là do con
người hành động theo sự chỉ dẫn của lý tính thực tiễn. Hành động này của con
người khơng phụ thuộc vào cái gì bên ngồi mà chỉ theo sự “lệnh bảo” của lý
tính thực tiễn phụ thuộc và chính mình. Trong quan niệm của Kant , ý thức đạo
đức là cái hoàn tồn dựa tren lý tính , chứ khơng phải dựa trên tình cảm và
những toan tính dục vọng và tư lợi .


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

19


Ông gọi là mệnh lệnh tuyệt đối để phân biệt với Mệnh lệnh giả thiết- là mệnh
lệnh được thực hiện vì một mục đích, một quyền lợi có tính nhân quả nào đấy.
Nói tóm lại mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh khuyến khích hoặc ngăn chặn các
hành vi đạo đức của con người một cách có điều kiện. Cịn mệnh lệnh tuyệt đối
là mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiêm ân trong
trái tim, khối óc, mang tính phổ qt tất yếu. Mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện khá
năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà khơng vụ lợi, khơng tính
tốn thiệt hơn.


Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung, đòi hỏi mọi
người trong xã hội phải thực hiện.


Trong cách nhìn của Kant thì hành động của con người cũng bị phân
thành hai. Con người hành động theo sự chỉ đạo của lý tính thuần t là hành
động mất tự do vì lệ thuộc vào mục đích của chủ thể, đó là hành động không
đưa tới hạnh phúc và đạo đức chân chính. Hành động của con người theo sự
lệnh truyền của lý tính thực tiễn là hành động khơng lệ thuộc, con người trở


thành tự do và hành động đó là hành động đạo đức : “con người chỉ có thể hy
vọng vươn tới cái Thiện đích thực, cái Thiện tự nó khi hướng hoạt động, hành
động của mình theo sự mách bảo của lý tính thực tiễn”.[13]


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

20


dục bởi vì lý tính đạo đức khơng phải là cái có thể học được ở người khác hay
có thể làm cho người khác , nó là khả năng tiên thiên có sẵn ở mọi người , nó
đọc lập vối hoạt động tri thức , hoạt động nhận thức của con người .


Con người khi sống trong thế giới hiện thực luôn bị chi phối bởi các
quy luật nhân quả , tất yếu nên con người chỉ có tự do theo nghĩa tương đối.
Nhưng về mặt bản chất con người là một thực thể tự do, vì vậy tinh thần và lý
tính con người ln hướng tới tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kant cho rằng con
người hồn tồn có thể hy vọng đạt được điều đó nhờ vào năng lực năng lực
phán đốn tiên thiên. Khả năng phán đoán là cầu nối đưa con người đến với tự
do, dù đó là tự do tinh thần. Tinh thần tự do đó chính là tự do trong khả năng
phán đoán thẩm mỹ, nghĩa là tự do xác định, cảm nhận cái đẹp , tự do sáng tạo
nghệ thuật, tự do tưởng tượng và tự do tín ngưỡng . Như vậy , con người có
quyền hy vọng rằng , bên ngồi thế giới mà nó đang sống cịn tồn tại một thế
giới ở đó con người sẽ có tự do theo nghĩa chân chính của từ này. Vấn đề này
<i>được Kant giải quyết trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đốn . </i>


Có thể thấy về mặt phương pháp, Kant đã bắt đầu một cách nhìn khác về
chất so với các nhà triết học trước ơng, nhìn bất luận đối tượng nào cũng thành
hai.Và từ cách nhìn ấy, Kant là người đã đặt ra. cho lý tính con người một giới
hạn nhận thức. Nhưng cách nhìn ấy của ơng cũng mới chỉ là bắt đầu và hạn chế
của Kant là đã đặt giữa Vật tự nó và Hiện tượng luận một hố sâu ngăn cách
không thể vượt qua.Trong triết học, Kant là người chấm dứt cho phương thức
tư duy cũ và mở đầu cho phương thức tư duy mới, nhưng ông không tránh khỏi


phương pháp tư duy siêu hình. Trong cách nhìn của Kant, bất luận sự vật nào
cũng bao gồm hai mặt, nhưng là hai mặt biệt lập nhau, giữa chúng có một hố
sâu khơng thể vượt qua. Vì thế dẫn đến quan niệm bất khả trị cho rằng Vật tư
nó khơng thể nhận thức được. Vật tư nó khơng phải là lĩnh vực của tri thức mà
đó là lĩnh vực của đức tín thơng qua lý tính thực tiễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

21


lập, tĩnh lại. Tuy nhiên , quan điểm duy tâm tiên thiên của kant về tự do, đạo
đức mang nhiều yếu tố đạo đức nhân đạo sâu sắc, đối lập với các quan điểm
ích kỷ, thực dụng một cách hẹp hòi.


<b>1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Kant </b>


Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Konigberg, trong
một gia đình thợ thủ cơng khơng mấy giàu có, gốc Scotland tại Koniberg - một
thành phố thuộc vùng đông bắc nước Phổ, nay là Kaleningnad. Năm 1740,
I.Kant học triết tại trường Đại học tổng hợp Konigsberg. Tại đây, Kant có dịp
làm quen với cơ học, thiên văn học, toán học của các nhà khoa học nội tiếng
đương thời như Niuton, Đề các tơ, Lép nít, Wolff và tư tưởng chính trị của các
nhà khai sáng Pháp. Ông nghiên cứu kỹ năng và các hệ thống triết học của tiền
nhân. Ông đặc biệt quan tâm tới các nhà triết học Anh như Lốccơ và Hium.
Ơng tìm hiểu hệ thống triết học Lép nít và nghiên cứu kỹ các tác phẩm của
Vônphơ . Những tư tưởng của các triết gia này có ảnh hưởng sâu sắc trong hệ
thống của triết học của ông sau này.


Năm 1746 Kant tốt nghiệp loại xuất sắc với luận văn: “Những suy nghĩ
về sự đánh giá đúng đắn của lực sống”. Trong đó, ơng đã trình bày nguyên tắc
sống của mình : “ Đối với chúng ta điều đáng quý nhất không phải là đi theo
lối mịn đã có , mà phải biết đi theo con đường mà loài người cần đi” [19,24].


Suốt đời I.Kant đã sống theo nguyên tắc đó và ông đã khá thành công trong sự
nghiệp. Sau khi tốt nghiệp đại học, Kant phải làm gia sư cho các gia đình q
tộc ở ngoại ơ 10 năm . Đây là khoảng thời gian quý giá để ông tích lũy kiến
thức cho sự nghiệp khoa học sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

22


đã để lại cho nhân loại một hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc . Đầu tiên
triết học của ông gắn với khoa học tự nhiên và sau đó càng ngày càng quan
tâm tới những vấn đề con người, tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự chuyển biến
<i>đó là Phê phán lý tính thuần túy. </i>


Năm 1797 Kant về nghỉ hưu để có thời gian dành cho việc hồn thành
các dự án khoa học của mình. Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái
nhiều thành công: năm 1786 ông được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa
học Hoàng gia Phổ tại Béclin; năm 1794, ông trở thành Viện sỹ danh dự Viện
hàn lâm Khoa học Saint Peterburg; năm 1798 cả hai Viện hàn lâm khoa học
Italia và Paris đều bầu ông làm viện sỹ của mình.


Ngày 12 tháng 2 năm 1804, Kant trút hơi thở cuối cùng với nụ cười trên
mơi và câu nói “Thế là tốt rồi” ông mất ở tuổi 80 khi đang viết dở tác phẩm
khác.


Mặc dù ông ra đi nhưng ông đã để lại cho thế giới cơng trình tác phẩm
đồ sộ với hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như : Phê phán lý tính thuần túy
(1781), Phê phán lý tính thực tiễn (1788), Phê phán năng lực phán đốn
(1790),… ngồi ra còn rất nhiều các tác phẩm triết học khác có giá trị quan
trọng trong sự nghiệp phát triển của nền triết học thế giới nói chung.


Triết học Kant được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ tiền phê phán và thời


kỳ phê phán :


Thời kỳ tiền phê phán (1745-1769), Kant chủ yếu nghiên cứu vấn đề
toán học, cơ học, thiên văn học. Bên cạnh những quan niệm duy vật thời kỳ
này tư tưởng của ơng cịn xuất hiện sự bế tắc trong việc tìm kiếm và giải quyết
vấn đề triết học. Lối thoát cho sự bế tắc này được ông giải quyết trong “thời kỳ
phê phán”


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

23


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

24


<b>Chương 2 . Nội dung cơ bản quan niệm của Kant về tự do </b>
<b>2.1. Khái niệm của I. Kant về tự do </b>


Immanuel Kant là đại diện tiêu biểu của nền triết học phương Tây cận
đại , trong một bài tiểu luận có tiêu đề Lý thuyết và Thực hành, Kant đưa ra
một cái nhìn tổng quan về lý thuyết chính trị của mình. Khi một nhà nước dân
sự đã được thành lập để bảo đảm các quyền của chúng tôi, ông nói : “Khơng ai
có thể ép buộc tơi hạnh phúc theo quan niệm của anh ấy về phúc lợi của người
khác, vì mỗi người có thể tìm kiếm hạnh phúc của mình theo bất cứ cách nào
anh ấy thấy phù hợp, miễn là anh ấy không xâm phạm quyền tự do của người
khác để theo đuổi một kết cục tương tự. có thể được hịa giải với sự tự do của
mọi người khác trong một luật khả thi chung - tức là anh ta phải đồng ý với
người khác quyền như anh ta thích.”. Ơng tán thành luật tự do bình đẳng, rằng
mọi người nên có quyền tự do tối đa để theo đuổi hạnh phúc phù hợp với tự do
của mọi người khác, hoặc điều mà một số người theo chủ nghĩa tự do đã gọi là
Nguyên tắc Không xâm phạm. Nguyên tắc này được áp dụng theo chính phủ,
không chỉ trong trạng thái tự nhiên.



Tự do trong triết học của Kant khơng có nghĩa đơn thuần như chúng ta
hiểu hằng ngày là “thích làm gì thì làm”, hoặc trạng thái có được khi khơng bị
kẻ khác giam cầm (thân thể). Tự do, theo Kant, là tự do của ý chí, và tự do này
là tự do trong những quy luật đạo đức và tự do thực hiện các quy luật đạo đức,
hay nói khác hơn tự do là đạo đức. Ý chí tự do là những ý chí có thể được quy
định độc lập với những xung động cảm tính, tức chỉ từ những động cơ của lý
tính.


<i>“Tự do là một ý niệm thuần tuý siêu nghiệm”. Tự do khơng chứađựng </i>
một cái gì vay mượn từ kinh nghiệm cả, và đối tượng của nó khơng thể mang
lại một cách xác định trong bất kì kinh nghiệm nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

25


khi thực hành mà đơn thuần cịn bị những cảm năng này thúc bách thì ý chí
này bị gọi là thú tính (bản năng). Và hiển nhiên, ý chí con người vẫn là dựa
trên cảm năng nhưng nó khơng là ý chí cảm năng đơn thuần mà là tự do, nghĩa
là những cảm năng đó khơng thể bắt buộc con người phải tn theo, trái lại,
con người có khả năng tự quyết định, độc lập với những thúc bách của cảm
năng. Tự do, với ý nghĩa này, là tự do siêu nghiệm. Nếu ý niệm tự do tự nhiên
(theo bản năng) chiếm lĩnh thì ý niệm tự do siêu nghiệm sẽ bị triệt tiêu, khi ấy,
tự do thực hành (đạo đức) cũng bị triệt tiêu.


Thực hành (đạo đức) là tất cả những gì đạt được bằng tự do của ý chí.
Nhưng nếu ý chí này là thường nghiệm (kinh nghiệm mang sẵn những ý niệm
về mục đích đạt hạnh phúc…) thì nó khơng thể là thuần tuý thực hành mà vẫn
nằm trong vòng kiềm toả của giác quan và cảm năng khuyến khích thực hiện.
Đây hồn tồn khơng phải là mục đích của quy luật thực hành (đạo đức) – mục
tiêu tối hậu – trả lời cho câu hỏi “Tơi phải làm gì?”.



Vậy thì, điều gì sẽ đặt cơ sở cho ý chí để nó là một ý chí tự do? Đó là
quy luật đơn thuần (không phải quy luật nhân – quả tất yếu đã được kinh
nghiệm) của các châm ngơn. Vì dựa vào quy luật này, ý chí sẽ hoạt độngđộc
lập, khơng bị chi phối bởi bất kì quy luật nào khác. Một sự độc lập như thế là
sự tự do chặt chẽ, hoàn hảo và là siêu nghiệm. Thực hành (đạo đức) là tất cả
những gì đạt được bằng tự do của ý chí. Nhưng nếu ý chí này là thường
nghiệm (kinh nghiệm mang sẵn những ý niệm về mục đích đạt hạnh phúc…)
thì nó khơng thể là thuần t thực hành mà vẫn nằm trong vòng kiềm toả của
giác quan và cảm năng khuyến khích thực hiện. Đây hồn tồn khơng phải là
mục đích của quy luật thực hành (đạo đức) – mục tiêu tối hậu – trả lời cho câu
hỏi “Tơi phải làm gì?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

26


<b>2.2. Quan niệm của I.Kant về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu </b>


Kant gọi những quy luật của sự vật đang tồn tại là những “quy luật của
Tự nhiên”, còn gọi những quy luật của “Cái Phải” là “những quy luật của Tự
do” . Nghe thì có thấy đây là hai quy luật nghịch lý vì ta thường quen hình
dung rằng đã là quy luật thì cịn gì là tự do! Kant thì cho rằng chính trong u
sách về cái Phải là, ta mới nhận ra sự tự do đích thực. Vậy, tất cả tùy thuộc vào
việc hiểu “Tự do” như thế nào, và có thể nói, cách hiểu về tự do của Kant là
chìa khóa để hiểu đạo đức học của ơng, thậm chí, để hiểu toàn bộ triết học
Kant.


Kant đã đưa ra một định nghĩa về Tự do: “Tự do theo nghĩa thực hành là sự
độc lập của ý chí trước sự cưỡng chế do các xung động của cảm năng gây ra
[…] Tự do thực hành giả định tiên quyết rằng, dù một điều gì đó khơng xảy ra,
nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế, nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện
tượng khơng phải có tính quy định nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta


khơng có một tính nhân quả nào tạo ra được một cái gì độc lập với những
nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự
nhiên, tức bị quy định bên trong trật tự thời gian theo những quy luật thường
nghiệm, do đó khơng thể hồn tồn tự mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện”
Rõ ràng mơ hình về Tự do ý chí khơng thể tương hợp với ngun tắc nhân quả,
tức với nguyên tắc rằng tất cả những gì xảy ra đều “ở trong trình tự thời gian
[trước/sau] theo những định luật thường nghiệm”. Trong khuôn khổ đó, khơng
có chỗ cho Tự do ý chí. Như thế, quan niệm về Tự do thực hành phải tiền giả
định một khả thể khác về nguyên tắc: khả thể của một nguyên nhân mà bản
thân không phải là kết quả của một nguyên nhân thường nghiệm. Kant gọi khả
thể này là “sự Tự do siêu nghiệm” (transzendentale Freiheit).


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

27


lý ấy như sau : Chính đề: tính nhân quả theo những định luật của Tự nhiên
khơng phải là cái duy nhất để từ đó giải thích được những hiện tượng trong thế
giới. Tất yếu phải giả định thêm một tính nhân quả từ Tự do để giải thích
những hiện tượng này.


Phản đề: khơng có Tự do, trái lại, tất cả những gì xảy ra trong thế giới đều chỉ
tuân theo những định luật của Tự nhiên.


Cả hai lập trường đều có lý lẽ vững chắc: nếu khơng có ngun nhân đầu tiên,
tự do ắt chuỗi nguyên nhân sẽ đi đến vô tận, khiến mọi việc diễn ra đều khơng
có một “nguyên nhân được xác định một cách đủ tiên nghiệm” vốn là đòi hỏi
của bản thân nguyên tắc nhân quả. Nhưng ngược lại, nếu cho phép tồn tại sự
Tự do siêu nghiệm dù chỉ trong một trường hợp duy nhất thì cũng tức là phá
hủy giá trị hiệu lực của nguyên tắc nhân quả và qua đó, đe dọa đến khả thể của
khoa học nói chung. Vậy có thể thấy Tự nhiên và Tự do siêu nghiệm khác
nhau như giữa tính hợp quy luật và tính vơ quy luật



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

28


hành động ấy một “tính cách khả niệm”, qua đó chủ thể là nguyên nhân của
những hành vi trong thế giới hiện tượng mà bản thân không phải là hiện tượng
và không phục tùng những định luật tự nhiên. Trong mơ hình này, tính cách
khả niệm và tính cách thường nghiệm quan hệ với nhau giống như giữa Vật-tự
thân và hiện tượng Kant đặc biệt lưu ý rằng đây không phải là sự chứng minh
lý thuyết về sự tồn tại hiện thực của Tự do; nó chỉ nói lên khả thể để suy tưởng
về Tự do thực hành trên cơ sở giới hạn giá trị phổ quát của quy luật nhân quả
vào phạm vi thế giới hiện tượng mà thơi. Ơng kết luận rằng nghịch lý này chỉ
dựa trên một ảo tượng đơn thuần, và cho thấy ít ra Tự nhiên khơng mâu thuẫn
gì với tính nhân quả từ “Tự do”, đó là điều duy nhất mà chúng ta đã có thể làm
được, và đó cũng là điều duy nhất chúng ta thực sự quan tâm ở đây
<i>Với kết luận ấy trong quyển Phê phán lý tính thuần túy, Kant cho thấy: Chính </i>
sự phân biệt giữa Vật-tự thân và hiện tượng mới làm cho ta có thể suy tưởng
được về sự Tự do thực hành.


Sự phân biệt ấy cũng là dấu hiệu cho thấy tính hữu hạn của lý tính con người,
nghĩa là sự Tự do thực hành chỉ có mặt trong khn khổ của một lý tính hữu
hạn, tức trong sự giằng co giữa tính chất khả niệm (chỉ đơn thuần có thể suy
tưởng) và tính chất thường nghiệm (có thể nhận thức được) của chủ thể hành
động. Nếu giả sử ta là những hữu thể thuần túy lý tính, tức chỉ hồn tồn thuộc
về thế giới khả niệm, ắt ý chí của ta khơng phục tùng động cơ nào ngoài động
cơ thuần lý và ta chỉ ham muốn những gì lý tính thực hành đề ra cho ta. Song,
khổ nỗi chúng ta đồng thời là “thành viên của thế giới cảm tính”, và ý chí của
ta cũng phải phục tùng những động lực cảm tính và phản lý tính, do đó chúng
ta là hữu hạn, bất tồn, có thể phạm sai lầm; nói khác đi, chúng ta là những
hữu thể có năng lực lý tính (vernunftbegabt) chứ khơng phải lúc nào cũng có lý
tính (vernunftig). Chính sự giằng co và phân đôi ấy thể hiện ra trong cái Phải


là: là do con người đồng thời được xét như một mắt xích hay một thành viên
của thế giới cảm tính


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

29


siêu nghiệm”. Nếu trong lĩnh vực lý thuyết, Tự do siêu nghiệm chỉ có thể được
suy tưởng chứ khơng thể được nhận thức, thì chính ý thức về cái Phải là làm
cho ta có thể “nhận thức” thực sự về sự Tự do thực hành, nghĩa là nhận ra
mình có năng lực “hồn tồn tự mình” làm ngun nhân cho một chuỗi sự kiện
thường nghiệm.


Chính trong quyển Phê phán lý tính thực hành này, để bác lại sự phê phán về
tính thiếu nhất quán khi cho rằng trong lĩnh vực thực hành, ta có thể “nhận
thức” được sự Tự do trong khi chỉ có thể “suy tưởng” về nó trong lĩnh vực lý
thuyết, Kant cho thấy sự gắn bó qua lại một cách mật thiết giữa Tự do và cái
Phải là: “Tự do” là cơ sở tồn tại của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là cơ
sở nhận thức về “Tự do”. Bởi nếu quy luật luân lý không được suy tưởng một
cách minh bạch từ trước thì ắt ta khơng bao giờ xem bản thân ta là có lý do
chính đáng để giả định một sự vật như thế như là “Tự do” (dù nó khơng tự mâu
thuẫn). Nhưng, nếu giả sử khơng có “Tự do” thì cũng tuyệt nhiên khơng thể
bắt gặp quy luật luân lý ở trong ta


Tóm lại, theo Kant, Tự do khơng thể có nếu khơng có cái Phải là, nhưng cái
Phải là phải lấy Tự do làm cơ sở tồn tại của nó, bởi cái Phải là sẽ vô nghĩa nếu
không có tiền đề là năng lực có thể tự do hành động. Kant viết: ai đó phán
đốn rằng mình có thể làm một việc chỉ vì có ý thức rằng mình phải làm việc
ấy, và nhận ra sự “Tự do” nơi chính mình, – một điều mà nếu khơng có quy
luật luân lý ắt anh ta không bao giờ nhận ra được.


<b>2.3. Tự do thực hành </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

30


tự do là có thực. Nên, có thể nói, Phê bình Lý tính Thực hành là một luận đề về
tự do.


Với quan năng này [lý tính thuần tuý thực hành], sự tự do siêu nghiệm
từ nay cũng được xác lập vững chắc, và là sự tự do được nắm lấy theo nghĩa
tuyệt đối mà lý tính tư biện [thuần tuý lý thuyết] đã cần đến trong khi nó sử
dụng khái niệm về tính nhân quả nhằm thốt khỏi nghịch lý vốn không thể
tránh nếu lý tính tư biện muốn suy tưởng về cái vô-điều kiện trong chuỗi nối
kết nguyên nhân và kết quả.


Kant định nghĩa tự do thực hành như sau:


Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự thúc bách do
các xung động của cảm năng gây ra. […] Tự do thực hành giả định tiên quyết
rằng, dù một điều gì đó khơng xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế,
nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng khơng phải có tính quy định
nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta khơng có một tính nhân quả nào tạo
ra được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi
ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật
tự thời gian theo những quy luật thường nghiệm, do đó khơng thể hồn tồn tự
mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện.


Nếu trong lãnh vực lý trí thuần tuý, tự do siêu nghiệm chỉ có thể được
suy tưởng, chứ khơng được nhận thức, thì trong lãnh vực của lý trí thực hành,
Kant đề cập đến “cái phải là” như là điều thiết yếu làm cho ta có nhận thức
thực sự về sự tự do thực hành, nghĩa là con người có năng lực hồn tồn tự
mình làm ngun nhân cho một chuỗi sự kiện thường nghiệm.“Cái phải là”


chính là quy luật thực hành hay quy luật luân lý, đạo đức trong mỗi người. Ơng
khẳng định: Ai đó phán đốn rằng mình có thể làm một việc chỉ vì có ý thức
rằng mình phải làm việc ấy thì nhận ra sự tự do nơi chính mình – một điều mà
nếu khơng có quy luật ln lý ắt anh ta không bao giờ nhận ra được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

31


điều lành điều ác người ta mới chứng nghiệm rằng con người là hữu thể tự
do. Một cách hàn lâm hơn, tự do là ratio essendi (cơ sở bản chất) của quy luật
đạo đức, còn quy luật đạo đức là ratio cognoscendi (cơ sở nhận thức) về tự do.
Nghĩa là, tự do đặt cơ sở hay điều kiện cho quy luật đạo đức tồn tại; trái lại, ta
chỉ có thể nhận thức về tự do khi ta ý thức về quy luật đạo đức.


Trong hệ thống triết học của Kant,ông dành vị trí trung tâm trong đạo
đức học là vươn tới sự tự do. Ông cho rằng khơng có đạo đức thì khơng có tự
do, cũng như thiếu tự do thì khơng thể có đạo đức. “Tự do và quy luật thực
hành tuyệt đối liên hệ chặt chẽ với nhau đến nỗi khơng thể có cái này mà
khơng có cái kia”[8,tr.234].


Câu “khơng có đạo đức, sẽ khơng có tự do” được Kant chứng minh khá
tỉ mỉ. Ông chứng minh luật đạo đức là gì, nếu khơng phải là gì, nếu khơng phải
là bản thân tự buộc mình hành động theo lẽ phải, kể cả hành động đó có sinh
thiệt hại cho bản thân . Nhưng lại phải hành động ,vì lẽ phải dạy thế, vì bổn
phận làm người buộc phải hành động như thế. Như vậy chính quy luật đạo
đức, dưới hình thức những mệnh lệnh tuyệt đối, đã chứng nghiệm một cách
tuyệt đối chắc chắn rằng mỗi người đều tự do. Tự do chính là có thể làm hay
không làm, hành động theo mệnh lệnh của quy luật đạo đức hay hành động
theo những xúi giục của bản năng: bản thân con người được chọn làm một hữu
thể “thành phần của thế giới khả niệm” hay chọn làm sự vật của thế giới thiên
nhiên khá giác. Sự chọn này được đặt ra trước mắt một cách hiển nhiên nơi


quy luật đạo đức, nhân đó Kant viết: “Vậy chính quy luật đạo đức mà chúng ta
cũng có ý thức một cách trực tiếp thoạt khi chúng ta nêu lên những tơn chỉ của
ý chí: chính quy luật đạo đức được đặt ra trước mắt ta và dẫn ta tới quan niệm
tự do, xét như tự do được biểu tượng như một nguyên tắc quyết định cho ý chí
của ta, một nguyên tắc không bị chi phối bởi một điều kiện khả giác nào hết,
nhưng hoàn toàn độc lập đối với những điều kiện khả giác” [8, tr.234-23].


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

32


nhiều trường hợp cho những thứ hành động đó, nhưng lý trí chỉ là một. Bởi
vậy mỗi khi chúng ta quyết định về bất cử hành động nào, ta cũng thấy quy
luật đạo đức hiện ra với hình thức tổng quát này: “Anh hãy hành động làm sao
để anh có thể ước muốn hết mọi người hành động như vậy”[3,tr.234]. Ta có ý
thức trực tiếp về quy luật đạo đức này. Kant còn quyết rằng chính quy luật
đạo đức chứng tỏ cho biết ta tự do: ta biết ta tự do, vì hành động của ta khơng
bị kích động bởi những sự kiện khá giác, nhưng ta quyết định một cách hồn
tồn theo lý trí. Cái gì bị kích thích bởi những điều kiện khá giác, thì thuộc loại
các hiện tượng tất định của thiên nhiên. Còn cái gì khơng hành động do sức
thúc đẩy của những điều kiện khá giác, thì ta phải cơng nhận rằng nó đã hoạt
động như một vật tự thân: nó đã tự động. Đó là tự do.


Nhưng tự do cũng do tự nhiệm: nếu ta nhận mình là hữu thể tự do, ta có
bổn phận phải thực hành những mệnh lệnh của quy luật đạo đức. Đơi khi, ta sẽ
chữa mình, muốn lẩn trốn trách nhiệm, lấy lẽ rằng những hành vi kia bắt ta hy
sinh nhiều quá. Thế rồi ta cho rằng mình khơng có thể… Thử hỏi ta có lý luận
như vậy đối với người khác khơng hay trái lại ta nghĩ rằng họ có bổn phận thì
nhất định họ phải làm. Bởi vậy Kant viết: “Người ta quyết rằng mình có thể
làm một việc, bởi vì người ta ý thức rằng mình có bổn phận phải làm việc đó:
cũng nhân đó con người nhận thấy mình có tự do thực, vì nếu khơng có quy
luật đạo đức thì có lẽ con người sẽ khơng biết mình tự do”[8,tr.234]. Các học


giả thường diễn tả tư tưởng này của Kant một cách gọn hơn bằng câu: “Anh có
thể làm vì anh phải làm”. Khi ta lấy lý trí để nhận rằng ai cũng phải làm như
vậy vì quy luật đạo đức truyền như thế, thì chắc con người ta ai cũng buộc
mình làm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

33


điều hành bằng những định luật chặt chẽ như các định luật của khoa học thực
nghiệm. Họ tỏ ra còn quá xa với lãnh vực tinh thần và sinh hoạt tự do: họ
muốn cái gì cũng phải được xác định rõ ràng và họ chỉ tin vào thực nghiệm.
Đối với Kant, chặt chẽ là điển hình của tốn học, - thực nghiệm là điển hình
của vật lý học, cịn sinh họat con người khơng có gì giống với hai phương thức
đó. Bản chất của sinh hoạt đạo đức phải là một sinh hoạt tự do mà tự do là
không bị chi phối bởi dư luận hoặc gương sáng của người khác. Tự do có
nghĩa là khi quyết định, tơi chỉ nhìn vào hình thức tuyệt đối của quy luật đạo
đức, chỉ nhìn vào lý trí thơi. Hơn nữa tự do bao giờ cũng có nghĩa là một bắt
đầu tự mình, một tự quyết, một điều phải làm (tức chưa làm, chưa có). Nhân
đỏ, quy luật đạo đức ln mặc cái hình một mệnh lệnh, nghĩa là một lệnh
truyền phải làm điều gì.


Từ đó , ta thấy Kant nói ở ĐỊNH LÝ III “con người có lý trí phải nghĩ
đến tơn chỉ hành động của mình như là những quy luật thực hành phổ quát, và
đừng nhìn vào chất thể của những nguyên tắc điều hành ý chí, nhưng phải nhìn
vào hình thức những ngun tắc đó”. Nhìn vào hình thức của quy luật đạo đức:
đó là cái bảo đảm cho sự tự do. Tất nhiên tự do đây khơng có nghĩa tầm
thường của tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do đi lại. Tự do đây có nghĩa
siêu hình học: tự do là hồn tồn tự mình quyết định, không bị chi phối bởi tự
ái hay tự lợi, bởi tâm tình hay dư luận. Cho nên, Kant viết: “Lý trí thuần túy, tự
nó thực hành, trực tiếp ra luật cho ta. Chúng ta quan niệm ý chí phải hoàn toàn
độc lập với những điều kiện thực nghiệm, nhân đó nó được coi như ý chí thuần


túy. Ý chí thuần túy hồn tồn quyết định theo hình thức của quy luật đạo đức:
đó là điều kiện cao nhất của tất cả các tôn chỉ hành động”[8,tr.238]. Khơng thể
nào nói rõ hơn về tính chất khả niệm của ý chí cũng là sự ý chỉ hoàn toàn độc
lập đối với những điều kiện của kinh nghiệm, Kant đã dùng tới chữ “ý chí
thuần túy” để nói lên sự siêu việt của nó đối với những gì là hiện tượng của
lĩnh vực tất định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

34


đạo đức, tức của những quyết định đạo đức của mình, đồng thời con người ý
thức về sự hiển nhiên của quy luật đạo đức. Kant đã gọi tính chất hiển nhiên
này bằng một thành ngữ thoat nghe có vẻ mâu thuẫn: “sự kiện của lý trí”. Nói
sự kiện là nói một cái gì xảy ra và ta kinh nghiệm được thực sự. Nói lý trí là
nói lãnh vực khả niệm, vượt quá tầm kinh nghiệm của ta. Nhưng Kant không
tự mâu thuẫn mà ông đã cân nhắc nhiều trước khi dùng, và ông đã dùng nhiều
lần thành ngữ này để nói lên cái kinh nghiệm duy nhất của con người về một
thực tại khả niệm. Như vậy con người đồng thời có kinh nghiệm về hai thực
tại: kinh nghiệm rằng quy luật đạo đức có bản chất thuần túy và tính cách
mệnh lệnh, và kinh nghiệm mình tự do trong sự quyết định cũng như trong sự
thi hành những mệnh lệnh kia. Kant viết: “Có thể gọi ý thức ta có về quy luật
đạo đức nền tảng đó là một sự kiện của lý trí, bởi vì người ta khơng thể nào rút
nó ra từ những luận lý hoặc từ những dữ kiện nào đó của lý trí (chẳng hạn rút
từ ý thức ta có về tự do, bởi vì ý thức này thì ta khơng có trước ý thức về quy
luật đạo đức), nhưng nó đã tự nó đến với ta như một mệnh đề tổng hợp tiên
thiên, không dựa trên một trực giác nào, dầu là trực giác thuần túy hay trực
giác thường nghiệm”[8,tr.239]. Hồn tồn khơng có trực giác tham gia vào
kinh nghiệm này, một thứ kinh nghiệm siêu hình: sự kiện của lý trí là thế. Ta
khơng do luận lý hay kinh nghiệm thường nghiệm mà nhận ra nó, nhưng nó đã
được ban cho ta từ nguyên thủy như một mệnh đề căn bản. Sau đó Kant lưu ý
ta đừng lộn ý nghĩa của chữ sự kiện: tuy đây là một sự kiện, nhưng là sự kiện


của lý trí, một kinh nghiệm nhưng là kinh nghiệm siêu hình. Ơng viết: “Để
khỏi lầm lẫn khi cơng nhận tính chất dữ kiện của quy luật đạo đức, chúng ta
cần nhớ rằng đây không phải là một sự kiện thường nghiệm, nhưng là sự kiện
duy nhất của lý trí thuần túy”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

35


<b>2.4. “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao </b>


Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, Kant khơng
chỉ nhìn nhận vấn đề tự do của con người với tư cách là tự do của một cá thể
tách biệt xã hội mà nhìn nhận vấn đề đó trong mối quan hệ với lịch sử phát
triển tự do của lồi người. Tư tưởng này được ơng trình bày thêm trong các tác
phẩm: “Ý niệm về lịch sử phổ biến trên bình diện cơng dân tồn cầu” (1784);
“Dự đoán ban đầu về lịch sử loài người” (1786); “Nhân chủng học” (1789);
“Bức thông điệp cho một nền hịa bình vĩnh cửu”(1795); “Siêu hình học và các
tập tục”(1797); “Bàn về giáo dục”(1803).


Theo Kant, trong thời đại nguyên thủy do lý tính chưa phát triển nên con
người khơng có khả năng lựa chọn, nó đành chịu làm nô lệ cho quy luật tự
nhiên, nghĩa là phục tùng tính tất yếu một cách mù quáng. Trạng thái lịch sử
đầu tiên của tự do là chuyển từ giai đoạn yên tĩnh hịa bình sang thời đại lao
động và bất hòa với tư cách là bước chuyển tiếp đến sự hình thành xã hội.
Trong trạng thái tự do con người là chủ thể lao động, cuộc sống săn bắt hái
lượm cơ bản đã chấm dứt, loài người chuyển sang nghề trồng trọt và chăn
nuôi, chế tác công cụ lao động và các phương tiện sinh hoạt khác. Sự xuất hiện
xã hội kéo theo sự hình thành con người xã hội – đó chính là bước ngoặt lớn
trong lịch sử nhân loại. Nhưng cũng từ đó làm phát sinh nhiều mâu thuẫn xã
hội mà hạt nhân cuối cùng là tính đối kháng. I.Kant cho rằng trong giao tiếp xã
hội, con người ln cảm thấy mình có tư chất bẩm sinh. Nhưng nếu hành động


của con người phù hợp với sự hiểu biết của nó thì tất yếu sinh ra sự phản
kháng của các cá nhân khác, và bản thân nó cũng chính là sự phản kháng. Kết
quả của sự đối kháng xã hội theo Kant chính là sự thiết lập một xã hội công
dân pháp quyền phổ biến, trong đó các thành viên có thể giành được tự do trên
cơ sở phải tôn trọng quyền tự do của người khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

36


thể có lý trí cho nên nó là vật tự thân. Với tư cách hữu thể lý trí tự thân, con
người có khả năng đặc thù hoạt động vượt ra bên ngoài thế giới hiện tượng,
thực hiện mục tiêu và khát vọng hoàn thiện con người. đây là hành vi thể hiện
khát vọng thực tiễn – đạo đức, vì vậy là hoạt động tự do.


<i>Có thể nói phê phán lý tính thực hành là luận đề tự do của con người, nó </i>
bàn nhiều đến tự do và quy luật của đạo đức, tự do và tự chủ, tự do và đối
tượng hoạt động của đạo đức. Ông viết các quy luật nhân quả bằng tự do tức
nguyên tắc thực tiễn thuần túy sẽ nhất thiết là thời điểm mà ở đó nó sẽ xác lập
cho ta những đối tượng mà nguyên tắc này được áp dụng. Điều đó có nghĩa là
ý chí tự do của con người là khởi điểm cho hoạt động đạo đức, hoạt động đạo
đức là vươn tới tự do.


Kant cho rằng khơng có đạo đức thì khơng có tự do; thiếu tự do thì
khơng có đạo đức. Và tự do và quy luật thực hành tuyệt đối liên hệ chặt chẽ
với nhau đến nỗi khơng có cái này mà khơng có cái kia. Giải thích về quy luật
đạo đức, Kant viết quy luật đạo đức là gì nếu như khơng phải là tơi tự buộc
mình hành động theo lẽ phải, dù hành động đó có thể gây tai hại với tơi. Chính
quy luật đạo đức dưới hình thức mệnh lệnh tuyệt đối đã cho tôi thấy chắc chắn
là tơi tự do. Ta biết ta tự do vì hành động của ta khơng bị kích động bởi những
sự kiện do cảm giác cảm tính đem lại, mà ta quyết định hành động hồn tồn
theo lý trí. Những hành động không bị thôi thúc bởi những cảm giác cảm tính


mà bằng lý trí thì phải cơng nhận rằng nó hoạt động như một “vật tự nó” – đó
chính là tự do! Là tự do bởi nó không bị chi phối bởi những sự kiện kinh
nghiệm. Khi phải giải quyết một hành động phải nhằm vào hình thức tuyệt đối
của quy luật đạo đức – của lý trí. Những hành động do tơi quyết định khơng bị
chi phối bởi tính tự ái, tư lợi, tình cảm, dư luận. Lý trí trực tiếp đề ra luật cho
nó và tự nó thực hành, lý trí hồn tồn quyết định theo hình thức của quy luật
đạo đức, đó là điều kiện tối cao, làm tơn chỉ cho mọi người hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

37


dựa trên bất kỳ nguyên tắc thường nghiệm nào; nói cách khác sự diễn dịch
về khái niệm này phải là có tính siêu nghiệm” . Kant cho rằng một khái
niệm có tính chất siêu nghiệm như vậy tất yếu phải là kết quả của tự do
siêu nghiệm” bởi lẽ tính nhân quả từ tự do bao giờ cũng phải được tìm ở
bên ngồi thế giới cảm tính, tức bên trong thế giới của cái khả niệm. Hay
có thể nói rằng tự do siêu nghiệm chính là nguồn gốc tạo ra sự Thiện – tối
cao. Ông còn nhấn mạnh rằng: “cần phải tạo ra sự Thiện – tối cao bằng sự
tự do của ý chí một cách tất yếu tiên nghiệm vì quy luật luân lý vì thế điều
kiện cho khả thể của nó chỉ được phép dựa duy nhất trên những nguyên tắc
tiên nghiệm của nhận thức mà thôi” .


Kant phê phán quan điểm đạo đức lấy tư lợi và hạnh phúc làm nền tảng
và tiêu chuẩn hành động. Ông cho rằng tư lợi và hạnh phúc là “những cố vấn”
nham hiểm xây cất nên những quan niệm đạo đức, ngay cả giả sử tất cả mọi
người cùng đồng tình lấy nguyên tắc tự ái và hạnh phúc bản thân làm quy luật
thực hành của đạo đức thì sự đồng tình đó cũng chỉ có tính chất ngẫu nhiên và
một nguyên tắc quyết định như thế vẫn chỉ có giá trị chủ quan khơng thể có
tính tất yếu của một quy luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

38



</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

39


của Kant – triết học hướng nhiệm vụ chính của nó vào việc giải quyết những
vấn đề mà con người luôn phải băn khoăn trăn trở trong suốt cuộc đời mình.
Đạo đức học của Kant hướng con người tới hoạt động cộng đồng, đòi hỏi con
người phải biết sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và tơn trọng mọi
người, sống theo lẽ phải và tôn trọng sự thật, xác định con người có một vị trí
xứng đáng trong thế giới.


Khi phê phán những quan điểm đạo đức chủ quan Kant lên án những
quan niệm xây dựng trên tình cảm mà ơng gọi là thuyết “tình cảm đạo đức”.
Theo ơng, đây là chủ trương của những người cho rằng “một thứ cảm giác đạo
đức định đoạt cho quy luật chân lý chứ không phải lý trí định đoạt: “ý thức đạo
đức của ta được gắn liền với sự thỏa thích cũng như ý thức tội ác gắn liền với
sự rối loạn và đau khổ của tâm hồn”. Ông cho rằng những người theo thuyết
này là do thiếu khả năng suy luận nên đã viện đến tình cảm để biện hộ cho lý
luận của mình. Kant khơng coi thường tình cảm mà chỉ chống lại việc lấy tình
cảm làm nguyên tắc cho hoạt động đạo đức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

40
<b>2.5. Đánh giá quan niệm về tự do của Kant </b>
<b>2.5.1. Giá trị của quan niệm tự do của Kant </b>


Trên cơ sở trình bày những luận giải của Kant về “tự do , có thể nhận
thấy , Kant đã có những đóng góp khơng nhỏ trong sự phát triển của con người
cũng như xã hội loài người. Điều này thể hiện ở những điểm sau:


Thứ nhất, “ tự do” mà Kant nói đến trong các tác phẩm đạo đức là “tự
do” tuân theo quy luật đạo đức, đối lập hoàn toàn với quy luật tất yếu hay còn


gọi là tùy tiện. Kant khẳng định rằng , chỉ khi nào con người hành động theo
nguyên tắc đạo đức : hãy chỉ hành động theo phương châm mà bởi đó bạn
đồng thời muốn rằng nó phải trở thành một luật phổ quát, như vậy , con người
mới có “ tự do” thực sự . Với Kant , nếu khơng có ngun tắc đạo đức thì
khơng có tự do”. Từ đó, “tự do” của mỗi cá nhân với tư cách cộng đồng của
xã hội đó bao hàm trong nó sự tong tại của những nguyên tắc đạo đức. Nói
cách khác, “tự do” của mỗi cá nhân ln gắn liền với hành vi đạo đức. Chính
vì thế, chúng ta có thể nói rằng: “tự do” của Kant là cơ sở cho việc xây dựng
một xã hội đạo đức và văn minh, trong đó bao gồm những con người luôn sống
và hành động theo nguyên tắc đạo đức.


Nếu so sánh với quan niệm của Mác, chúng ta thấy hai ông đều coi bản
chất của “tự do” là việc con người tuân thủ và làm chủ quy luật, nhờ đó có thể
cải tạo xã hội . Nhưng quy luật của Kant là quy luật đạo đức do lý tính của con
người thiết lập còn quy luật của Mác lại là quy luật của thế giới bên ngồi .
Chính điều đó tạo nên sự khác biệt trong quan niệm của hai ông về “tự do” .


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

41


Thứ hai về “tự do “ trong quan niêm của Kant địi hỏi con người khơng
ngừng tu dưỡng, rèn luyện các nguyên tắc đạo đức để làm chủ chính mình
trong mọi tình huống . Rõ ràng , với ông “tự do” không phải là con đường hay
cách thức để con người sung sướng , mà trái lại, đó là con đường của sự khổ
luyện để trưởng thành về mặt đạo đức và nhân cách. Theo đó, Kant quan niệm
hạnh phúc đồng nghĩa với phần thưởng quý giá và thiêng liêng dành cho sự
khổ luyện của con người, chứ không phải là sự sung sướng hay thỏa mãn nhu
cầu dục vọng của cá nhân . Không những thế , tự do của Kant còn đòi hỏi con
người phải thực hiện trách nhiệm đạo đức với tha nhân và xã hội . Ông cho
rằng, con người tự do là con người luôn nhận thức một cách rõ ràng về trách
nhiệm đạo đức của chính mình . Hơn thế, “tự do” của kant cũng đòi hỏi con


người phải tơn trọng “nhân tính” của bản thân và tha nhân theo nguyên tắc đạo
đức : hãy hành động sao cho việc sử dụng nhân tính nơi bản thân khơng phải
như là một phương tiện . Với tất cả lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng ,
khái niệm “tự do” của Kant có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục và phát
triển nhân cách con người. Việc không ngừng tu dưỡng nhân cách đạo đức thì
giúp chúng ta hồn thiện bản thân , khơng những thế nó cịn giúp xã hội ngày
một văn minh và phát triển .


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

42


<b>2.5.2. Hạn chế của quan niệm tự do của Kant </b>


Bên cạnh những giá trị như đã phân tích ở trên thì quan niệm về tự do
của Kant cũng có những hạn chế nhất định sau:


Tự do trong quan niệm của Kant chính là sự giải phóng con người khỏi
tất cả những ham muốn , dục vọng của bản thân , độc lập hoàn tồn với khơng
gian , thời gian và các quy luật nhân quả của thế giới tự nhiên. Kant coi đó là
sản phẩm thuần túy của thế giới bên trong con người ( thế giới siêu cảm tính),
do đó, con người khơng thể sử dụng những kinh nghiệm sẵn có để chứng minh
về sự tồn tại của nó . Theo ơng, cách duy nhât để con người nhận biết về “tự
do” là hành động theo mệnh lệnh của những nguyên tắc đạo đức mà lý tính
thiết lập , ơng gọi đó là “tự do siêu nghiệm” hay “tự do nội tâm”. Chính vì thế ,
chúng ta có thể nói rằng “tự do” của Kant là thứ tự do trừu tượng, phi lịch sử .


Hơn nữa, “tự do “ trong quan niệm của kant đòi hỏi con người hạn chế ,
hy sinh những ham muốn, sở thích , dục vọng cá nhân , dành toàn bộ sức lực
và tâm trí để ln tn thủ mệnh lệnh của những ngun tắc đạo đức. Nó cịn
địi hỏi con người phải sử dụng lý trí của bản thân vào việc thiết lập nên
những quy tắc đạo đức chung cho tồn xã hội . Với những u cầu đó, chúng ta


thấy “ tự do” của Kant không chỉ mang tính trừu tượng , phi lịch sử , mà cũng
phi thực thế . Bởi con người với tư cách những hữu thể cảm tính và hữu hạn
khơng bao giờ có thể trở thành những con người “tự do” như Knat mong muốn
–một khái niệm “tự do” mang tính chất lý tưởng .


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

43


<b>PHẦN KẾT LUẬN </b>


Có thể nói, triết học Kant thấm đượm tính nhân văn , chính tính nhân
văn đó biểu hiện sâu sắc nhất trong học thuyết của ơng về đạo đức, bởi vì ơng,
khát vọng đem lại cho con người cách nhìn mới hơn về thế giới và về chính
bản thân con người quyên với khát vọng thúc đẩy mạnh mẽ ý thức con người
vươn tới đạo đức. Đối với ông, một trong những yêu cầu chủ yếu của đạo đức
học là phải coi con người là mục đích chứ tuyệt nhiên không được coi con
người là phương tiện. Ông tin tưởng một cách chắc chắn rằng, dù cho con
người sinh ra có thiện hay có ác như thế nào chăng nữa, dù cho lồi người có
lúc thăng lúc trầm, dù cho con đường đi của nhân loại có khúc khuỷu, quanh
co ra sao thì con người bao giờ cũng vẫn cố gắng vươn lên nhằm hồn thiện
bản thân mình, vươn tới một cuộc sống hạnh phúc và một số. hoà bình vĩnh
cửu. Tinh thần nhân văn và lạc quan đó thể hiện. ra như là những tư tưởng
vượt thời đại nhằm hướng tới các giá trị toàn nhân loại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

44


không bị quy định bởi bất cứ cái gì ngoai bản thân mình và khơng phụ thuộc
vào bát cứ tác động từ bên ngoài.


Mệnh lệnh tuyệt đối gắn chặt với vấn đề tự do đạo đức của chủ thể cho
nên nó cũng có quan hệ mật thiết với các phạm trù nghĩa vụ đạo đức hay


bổn phận đạo đức.Các lĩnh vực nghĩa vụ đạo đức không phải là lĩnh vực xa
lá khác, đó chính là lĩnh vực tự do của con người, “vì lý tính thi hành mới
là kẻ duy nhất có quyền hướng dẫn những hành vi của ta, nên ta không
xem những hành vi đạo đức là bắt buộc phải làm , bởi vì đó là những mệnh
lệnh của Thượng đế, trái lại, ta xa chúng là những mệnh lệnh thiêng liêng
bởi vì ta thấy có nghĩa vụ phải làm từ trong nội tâm ta. Để từ đó, khi con
người thấy được nghĩa vụ phải làm và thực hiện được nghĩa vụ đó xuất
phát từ nội tâm của mình tức là con người tìm được sự tự do, có được sự tự
do, tức cũng có nghĩa là con người hành động một cách có đạo đức và trở
nên con người có đạo đức. Con người hành động một cách có đạo đức vì
bản thân con người tìm thấy nhân phẩm và giá trị cao cả, giá trị tuyệt đối ở
trong đạo đức, vì con người có lịng tin đạo đức.


“Mệnh lệnh tuyệt đối” đòi hỏi con người phải biết hành động ra sao khi
tiếp cận đạo đức để cho đạo đức trở thành đòi hỏi phổ biến, trở thành quy luật
phổ quát và tuyệt đối. Theo Kant, đạo đức phải mang tính phổ biến và tính
tuyệt đối chứ khơng vụ lợi, không xu thời, do vậy, con người phải thật sự và
nghiêm túc tuân theo các quy tắc ứng xử phổ biến, theo các quy tắc chủ quan
của lý tính thực tiễn. Quan niệm về đạo đức của Cantơ hồn tồn đối lập với
quan niệm ích kỷ, vụ lợi, thực dụng, hẹp hịi. Nó hướng tới những giá trị chung
tồn nhân loại. Nó thể hiện sự khát vọng của con người hướng tới cái thiện, tới
hạnh phúc cho mọi người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

45


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

46


<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


<i>1. </i> <i>Jason Sorens (2017) , bài viết Immanuel Kant and the Philosophy of </i>



<i>Freedom , </i>


<i> </i>


2. <i>Nguyễn Thanh An(2016) , Luận văn thạc sĩ Quan niệm về tự do trong </i>
<i>triết học hiện sinh vô thần và ý nghĩa đối với lối sống của sinh vien hà nội hiện </i>
<i>nay , Đại học Khoa học xã hội và nhân văn , Đại học quốc gia Hà Nội </i>


3. <i>Alexis de Tocqueville (2014), Nền dân trị Mỹ, bản dịch của Phạm Toàn, </i>
Nxb. Tri thức, Hà Nội.


4. <i>C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Tồn tập, tập 1, Nxb.Chính trị Quốc gia,Hà </i>
Nội.


5. <i>C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb.Chính trị Quốc gia,Hà </i>
Nội.


6. <i>Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện </i>
<i>thời của nó , Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận </i>
thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhânvăn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 433-440.


7. <i>Ngô Thị Mỹ Dung ( 2004) , Triết học đạo đức của Kant và ảnh hưởng </i>
<i>của nó đối với nền triết học phương Tây, Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: </i>
Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 441- 457.
8. <i>TRần Thái Đỉnh (2005), Triết học Hiện sinh , nxb .Văn học, Tp Hồ Chí </i>
Minh



9. <i>Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, nxb.văn hóa thơng tin </i>


10. <i>Trần Độ (chủ biên ) (1983) , Bàn về lối sống và nếp sống XHCN , </i>
nxb.Văn hóa, Hà Nội .


11. <i>G.G.Rútxơ. Bàn về khế ước xã hội (Thanh Đạm dịch), Nxb.TP Hồ Chí </i>
Minh, 1992, tr. 29.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

47


Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2004, tr 496-511.


13. <i>Nguyễn Văn Huyên (1996), Triết học Immanuel Kant, Nxb.Khoa học </i>
Xã hội


<i>14. </i> <i>Ths. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2004) , Bước đầu tìm hiêu cách nhìn </i>
<i>của Imanuen Kant về thế giới và con người, Hội nghị khoa học nữ lần thứ 9 , </i>
<i>Hà Nội </i>


15. <i>Immanuel Kant (2004), Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn </i>
dịch và chú giải), Nxb .Văn học


16. <i>Immanuel Kant (2007), Phê phán lý tính thực hành ( Bùi văn Nam </i>
Sơn dịch và chú giải ), nxb. Tri thức


17. <i>Dương Thị Liễu (2004), Định hướng phê phán duy hạnh phúc luận </i>
<i>trong đạo đức học Cantơ, Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển </i>
Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và


nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 629 – 638


18. <i>Nguyễn Thế Nghĩa(1997), Vấn đề tự do và tất yếu trong triết học Canto </i>
<i>,trong cuốn I.Canto Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, nxb. Khoa học </i>
xã hội ,Hà Nội


19. <i>Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức, Nxb.Thế giới, Hà Nội. </i>


20. <i>Lê Công Sự ( 2007), Học thuyết phạm trù trong triết học của I.Kant, </i>
Nxb.Chính trị quốc gia


21. <i>Đinh Ngọc Thạch (2004), bài viết : Về “tự do” với tư cách phạm trù xã </i>
<i>hội , Tạp chí triết học , số 2 ,tr.153. </i>


22. <i>Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nxb.Khoa học Xã </i>
hội.


23. <i>Từ điển triết học (1975), Nxb.Tiến bộ và Nxb.Sự thật </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

48


25. <i>Bùi Thị Kim Xuân (2013), Luận văn thạc sĩ triết học : Đạo đức học của </i>
<i>Kant trong tác phẩm phê phán lý tính thực hành , Đại học khoa học xã hội và </i>
nhân văn , Đại học quốc gia Hà Nội.


26. <i>Nguyễn Thị Hải Yến(2013), Luận văn thạc sĩ “ Quan niệm của I.Kant </i>
<i>trong phê phán lý tính thuần túy”, Đại học khoa học xã hội và nhân văn , Đại </i>
học quốc gia Hà Nôi.


27. <i>Hồ Sĩ Quý ( 2006), Bài viết : “ Nghiên cứu phức hợp về con người từ </i>


<i>M.Cheler đến E. Morin và I.T.Frolov”, Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội, số </i>
4,tr.9-18.


<i>28. </i> <i>Hồ Sĩ Quý(2006), Bài viết : “ Immanuel Kant từ triết học phê phán đến </i>
<i>nghiên cứu con người”, </i>


</div>

<!--links-->
NGIÊN CỨU NHO GIÁO VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI
  • 29
  • 1
  • 1
  • ×