Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.73 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT XÂY LẮP TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1.1. Đặc điểm của sản phẩm xây lắp trong ngành xây dựng
Khác với phần lớn các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây dựng có nhiều
đặc điểm riêng biệt,những đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây
lắp,chúng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý chi phí sản xuất trong doanh
nghiệp xây dựng, cụ thể :
1.1.1.1. Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định
Sản phẩm xây dựng sau khi hoàn thành thì không thể di chuyển từ nơi này sang
nơi khác mà nơi sản xuất đồng thời là nơi sử dụng công trình sau này nên lực lượng
sản xuất của nghành xây dựng thường xuyên di chuyển từ công trình này sang công
trình xây dựng khác.Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định đời sống người lao
động, đến chi phí cho khâu di chuyển .
1.1.1.2. Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài
Sản phẩm của xây dựng cơ bản thường tồn tại và hoạt động trong nhiều năm và
có thể tồn tại vĩnh viễn. Đặc điểm này đòi hỏi việc quản lý và tổ chức sao cho chất
lượng công trình phải đảm bảo và phản ánh đúng theo từng thời điểm phát sinh
1.1.1.3 Sản phẩm xây lắp có qui mô lớn, kết cấu phức tạp
Đặc điểm này đòi hỏi: khối lượng vốn đầu tư, vật tư lao động, máy thi công
nhiều, giải pháp thi công khác nhau.Do vậy trong quản lý xây lắp phải chú trọng kế
hoạch khối lượng, kế hoạch vốn đầu tư, lập định mức kinh tế - kỹ thuật và quản lý
theo định mức.
1.1.1.4. Thời gian xây dựng công trình thường dài
Sản phẩm của xây dựng là các công trình xây dựng hoàn chỉnh, thời gian sản
xuất ra chúng thường dài, phải tính theo tháng, theo năm. Đặc điểm này làm chi vốn
đầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng thường bị ứ đọng
lâu tại công trình. Các tổ chức xây dựng có thể gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên theo


thời gian như: thời tiết, lãi suất, giá cả, tỷ giá... Công trình xây dựng xong dễ bị hao
mòn vô hình do sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ.Do vậy đòi hỏi công tác
quản lý kinh tế tài chính trong xây dựng phải chú ý đến yếu tố thời gian, lựa chọn
phương án tiến độ xây dựng hợp lý cho từng hạng mục công trình cũng như toàn bộ
công trình để sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng, nhằm giảm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm.
1.1.1.5. Sản phẩm xây lắp mang tính chất đơn chiếc theo đơn đặt hàng
Trong xây dựng cơ bản mỗi sản phẩm đều có một thiết kế riêng, dự toán riêng,
vì mỗi sản phẩm có yêu cầu riêng về công nghệ, về mỹ quan và an toàn.Do vậy
không thể nào tiến hành sản xuất hàng loạt mà sản xuất từng chiếc một theo đơn đặt
hàng thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu (hoặc giao thầu trong
trường hợp chỉ định thầu). Đặc diểm này dẫn đến yêu cầu công tác quản lý kinh tế trong
xây dựng phải xác định giá cho từng sản phẩm theo qui định của nhà nước và quản lý
theo giá đó. Mặt khác do sản xuất đơn chíêc, riêng lẻ nên năng suất lao động trong xây
dựng không cao.
1.1.1.6. Hoạt động xây dựng chủ yếu ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất lớn của các
yếu tố tự nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc
Điều kiện tự nhiên như: mưa, gió, bão lụt.... đều ảnh hưởng đến quá trình xây
dựng. Ảnh hưởng này thường làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực của các
doanh nghiệp không được điều hoà, ảnh hưởng đến sản phẩm dở dang, đến vật tư thiết
bị thi công và sức khoẻ của người lao động. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp
xây dựng phải lập tiến độ thi công tổ chức sản xuất hợp lý để tránh thời tiết xấu, giảm
tổn thất do thời tiết gây ra, phải quan tâm phát triển phương pháp xây dựng. Đồng thời
phải tổ chức tốt việc quản lý vật tư, sản phẩm dở dang để tránh hư hỏng mất mát do
thiên nhiên gây ra.
Từ những đặc điểm của sản phẩm xây lắp trong các đơn vị sản kinh doanh xây
dựng mà công tác kế toán ở các đơn vị kinh doanh xây dựng nói trên vừa phải đảm
bảo yêu cầu phản ánh chung của một đơn vị sản xuất: ghi chép tính toán đầy đủ chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm, vừa phải thực hiện phù hợp với nghành nghề,
đúng chức năng kế toán của mình, nhằm cung cấp số liệu chính xác, kịp thời, đánh giá

đúng tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, cố vấn cho lãnh đạo trong
việc tổ chức, quản lý để đạt mục đích kinh doanh của công ty
1.1.2. Yêu cầu của công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây
lắp trong doanh nghiệp xây dựng:
Do đặc điểm của xây dựng và sản phẩm xây lắp rất riêng nên việc quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản khó khăn phức tạp hơn một số ngành khác. Vì vậy trong quá trình
quản lý đầu tư xây dựng phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Phải tạo ra những sản phẩm xây lắp được thị trường chấp nhận cả về giá cả,
chất lượng, đáp ứng được mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất từ các nguồn đầu tư trong và ngoài
nước.
- Xây dựng phải đúng theo qui hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý thẩm mỹ, xây
dựng đúng tiến độ đạt chất lượng cao.
Thực tế trong nhiều năm qua xây dựng cơ bản là một ngành làm thất thoát một
phần không nhỏ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Nguyên nhân cơ bản là do quản lý
vốn đầu tư chưa được chặt chẽ.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp đấu
thầu, giao nhận thầu xây dựng. Doanh nghiệp muốn trúng thầu một công trình phải
xây dựng một giá thầu hợp lý cho công trình đó dựa trên cơ sở xác định mức đơn giá
xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành trên cơ sở giá thị trường và bản thân doanh
nghiệp. Giá trúng thầu không vượt quá giá tổng dự toán được duyệt.Mặt khác phải
đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi.
Để thực hiện tất cả các yêu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường công
tác quản lý kinh tế đặc biệt là quản lý về tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành.Trong đó trọng tâm là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
1.1.3. Nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Việc giảm chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có ý nghĩa rất
lớn đối với mỗi doanh nghiệp xây dựng. Vì vậy, việc xác định đúng đắn đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với điều kiện hiện tại của

doanh nghiệp và thoả mãn mọi yêu cầu quản lý đặt ra hết sức cần thiết. Cụ thể:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với tổ chức sản
xuất ở doanh nghiệp, đồng thời xác định đúng đối tượng tính giá thành.
- Kiểm tra đối chiếu thường xuyên việc thực hiện các dự toán chi phí vật tư,
nhân công,máy thi công và các dự toán chi phí khác.Từ đó đưa ra các biện pháp ngăn
chặn kịp thời.
- Tính giá thành sản phẩm xây lắp chính xác kịp thời theo đúng khoản mục giá
thành.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành theo từng khoản mục chi phí
của các công trình,hạng mục công trình.Từ đó đề ra các biện pháp hạ giá thành sản
phẩm một cách liên tục.
- Xác định đúng đắn, bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây lắp
hoàn thành.
- Kiểm tra định kỳ và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc qui
định. Đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp ở từng công trình,
bộ phận thi công... và lập báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
một cách kịp thời.
1.1.4. Ý nghĩa kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
Trong doanh nghiệp xây dựng, kế toán chi phí sản xuất và giá thành có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nó cung cấp các số liệu một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời phục
vụ cho việc phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất của doanh
nghiệp. Từ đó có biện pháp quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước chặt
chẽ và hiệu quả hơn.
1.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP.
1.2.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây
dựng
1.2.1.1. Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây dựng:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào, dù lớn hay nhỏ, dù sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực nào đi nữa thì quá trình sản xuất đều nhất thiết phải có sự kết hợp của ba yếu tố

cơ bản đó là : Đối tượng lao động, tư liệu lao động, và sức lao động.
Các yếu tố về tư liệu lao động, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thể là hao phí về
lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động(biểu hiện là hao phí
về lao động sống), qua quá trình biến đổi sẽ tạo nên các sản phẩm lao vụ, dịch vụ .
Để đo lường hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong từng thời kỳ hoạt động là bao
nhiêu, nhằm tổng hợp và xác định kết quả đầu ra phục vụ cho nhu cầu quản lý, thì mọi
hao phí cuối cùng đều được biểu hiện bằng tiền gọi là chi phí sản xuất
Như vậy , chi phí sản xuất của doanh nghiệp là toàn bộ hao phí về lao động sống,
lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh mghiệp đã bỏ ra trong một
thời kỳ nhất định, được biểu hiện bằng tiền.
1.2.1.2.Phân loại chi phí sản xuất
Với mỗi loại doanh nghiệp, Chi phí sản xuất có nội dung kinh tế khác nhau, công
dụng khác nhau và yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Để lập kế hoạch
và tính chính xác giá thành sản phẩm, để khống chế và thống nhất các loại chi phí,
nhằm nghiên cứu các yếu tố trong giá thành sản phẩm, yêu cầu khách quan là phải
phân loại chi phí sản xuất thành từng nhóm riêng theo tiêu thức nhất định.
Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau:
a) Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế là việc sắp xếp các chi phí có
nguồn gốc kinh tế ban đầu đồng nhất, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh
vực nào của qúa trình sản xuất.Theo cách phân loại này chi phi sản xuất sản phẩm
xây lắp bao gồm các yếu tố sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu :là toàn bộ chi phí về các đối tượng lao động bao
gồm : chi phi về nguyên vật liệu chính ,vật liệu phụ ,công cụ , dụng cụ...
+ Chi phí nhân công :bao gồm toàn bộ tiền lương, tiền công, phụ cấp, các khoản
trích theo lương của công nhân xây lắp.
+ Chi phí về khấu hao: bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao trong kỳ của tất
cả các tài sản cố định trong doanh nghiệp.
+Chi phí dịch vụ mua ngoài : bao gồm toàn bộ số tiền chi trả về các loại dịch vụ
mua ngoài, thuê ngoài, phục vụ cho hoạt động xây lắp của doanh nghiệp.

+Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi trực tiếp bằng tiền nhưng không
thuộc bốn yếu tố trên.
Cách phân loại này giúp ta có thể xác định được kết cấu, tỷ trọng của từng loại
chi phí trong tổng số chi phí đã chi ra, từ đó lập các kế hoạch cung ứng về vật tư, huy
động về lao động, tiền vốn. Nó còn là cơ sở lập thuyết minh báo cáo tài chính và là cơ
sở để kiểm tra tình hình thực hiện các dự toán chi phí sản xuất, là cơ sở để lập dự toán
chi phí sản xuất.
b) Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành :
Cách phân loại này căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí để sắp xếp các
khoản chi phí có cùng một mục đích, một công dụng vào cùng một khoản mục chi phí
mà không quan tâm đến nội dung kinh tế ban đầu của nó. Theo cách phân loại này, chi
phí xây lắp bao gồm :
+Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp :Là tất cả những chi phí về các loại nguyên
vật liệu chính , nguyên vật liệu phụ , vật kết cấu , vật liệu luân chuyển cần thiết để cấu
tạo nên thực thể công trình. Trong khoản mục chi phí vật liệu không bao gồm các vật
liệu phụ, nhiên liệu dùng cho máy móc thi công, các loại vật liệu làm công trình tạm,
các chi phí vận chuyển vật liệu trên công trường ngoài cự ly định mức lao động và
định mức sử dụng máy thi công
+Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ lương cơ bản và các khoản phụ cấp
cho người lao động trực tiếp xây lắp theo chế độ hiện hành .
+Chi phí sử dụng máy thi công:Là toàn bộ chi phí sử dụng máy thi công trực
tiếp tham gia hoàn thành các khối lượng công tác xây lắp , bao gồm: chi phí khấu hao
cơ bản, chi phí sửa chữa lớn, chi phí sửa chữa thường xuyên, chi phí nguyên vật liệu,
nhiên liệu động lực , tiền lương của công nhân lái máy , chi phí quản lý máy và chi
phí khác của máy.
+Chi phí chung: Là những chi phí không liên quan trực tiếp đến việc hoàn
thành các khối lượng công tác và kết câú xây lắp của công trình nhưng rất cần thiết
cho quá trình thi công,bao gồm: Các khoản tiền lương, phụ cấp lương, lương phụ, phụ
cấp lưu động phải trả cho nhân viên quản lý đội xây dựng ; khoản trích BHXH,
BHYT, KPCĐ được tính theo tỷ lệ phần trăm qui định hiện hành trrên tiền lương phải

trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và nhân viên
quản lý đội ;chi phí dụng cụ sản xuất; chi phí khấu hao TSCĐ; chi phí dịch vụ mua
ngoài; chi phí bằng tiền khác.
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp và phương pháp lập dự toán trong
xây dựng cơ bản là dự toán được lập cho từng đối tượng xây dựng theo các khoản
mục gía thành, nên phương pháp này là phương pháp đựơc sử dụng phổ biến nhất
trong các doanh nghiệp xây dựng.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ và khả năng qui nạp chi phí vào
các đối tượng kế toán chi phí
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được phân làm hai loại :
+ Chi phí trực tiếp :là những khoản chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình
sản xuất và tạo ra một công trình , một hạng mục công trình .Những chi phí này có thể
tập hợp trực tiếp cho từng từng công trình, hạng mục công trình độc lập như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp ,chi phí nhân công trực tiếp ...
+ Chi phí gián tiếp : đây là loại chi phí liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau
nên phải tập hợp qui nạp cho từng đối tượng bằng phưong pháp phân bổ gián tiếp
Cách phân loại chi phí sản xuất này có ý nghĩa thuần tuý về kỹ thuật hạch
toán.Trường hợp có phát sinh chi phí gián tiếp,bắt buộc kế toán phải áp dụng phương
pháp phân bổ,lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. Mức độ chính xác của chi phí gián
tiếp tập hợp cho từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý khoa học của tiêu thức phân
bổ chi phí được chọn .
d/Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm xây lắp
+ Chi phí bất biến ( định phí ) là các chi phí không thay đổi về tổng số khi có sự
thay đổi khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Chi phí khả biến (biến phí ) là các chi phí thay đổi về tổng số khi có sự thay
đổi khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
+ Chi phí hỗn hợp : là loại chi phí bao gồm cả hai yếu tố trên .
Cách phân loại trên có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý, giúp cho
việc lập kế hoạch, phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh .
1.2.2. Giá thành sản phẩm xây lắp và phân loại giá thành sản phẩm trong doanh

nghiệp xây dựng:
1.2.2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng:
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản
xuất theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp là những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất
lượng hoạt động sản xuất, quản lý của doanh nghiệp, kết quả của sử dụng các loại vật
tư, tài sản trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh
nghiệp thực hiện nhằm đạt mục đích sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhiều nhất với
chi phí thấp nhất. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh
tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng:
Do đặc điểm riêng biệt của các sản phẩm xây lắp nên giá thành được chia làm
ba loại:
1.2.2.2.1. Giá thành dự toán (Zdt)
Sản phẩm xây dựng có giá trị lớn, thời gian thi công dài, mang tính đơn chiếc...
nên mỗi công trình, hạng mục công trình đều có giá dự toán riêng. Giá thành dự toán
của công trình, hạng mục công trình là giá thành công tác xây lắp được xác định trên
khối lượng thiết kế được duyệt, các định mức dự toán và đơn giá XDCB do cấp có
thẩm quyền ban hành và dựa theo mặt bằng giá cả thị trường.
Giá thành dự toán công trình,hạng mục công trình khác với giá trị dự toán xây
lắp ở điểm sau: Giá thành dự toán công trình,hạng mục công trình nhỏ hơn giá trị dự
toán công trình,hạng mục công trình ở phần thu nhập chịu thuế tính trước và thuế giá
trị gia tăng đầu ra. Do dó căn cứ vào giá trị dự toán của từng công trình, hạng mục
công trình ta có thể xác định được giá thành dự toán của chúng:
Giá thành dự toán
của công trình,hạng
mục công trình
=
Giá trị dự toán
công trình,hạng

mục công trình
sau thuế
-
Thu nhập chịu
thuế tính trước
-
Thuế giá trị gia tăng đầu
ra
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp nên giá thành dự toán công trình,hạng mục
công trình mang tính chất xã hội, nó phán ánh trình độ tổ chức kỹ thuật nói chung của
toàn xã hội vì cơ sở để xác định là khối lượng từ thiết kế được duyệt, cả định mức dự
toán và đơn giá xây dựng cơ bản hiện hành. Thông qua tổng dự toán công trình,hạng
mục công trình(Zdt) chúng ta có thể đánh giá được thành tích của doanh nghiệp. Nó là
hạn mức chi phí cao nhất mà doanh nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi, là tiêu
chuẩn phấn đấu hạ định mức thực tế. Giá thành dự toán công trình,hạng mục công
trình là căn cứ để kế hoạch hoá giá thành công trình,hạng mục công trình và vạch ra
các biện pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật nhằm đảm bảo nhiệm vụ hạ giá thành công
trình,hạng mục công trình được giao.
1.2.2.2.2. Giá thành kế hoạch (Zkh):
Giá thành kế hoạch công công trình,hạng mục công trình là một loại giá thành
được xây dựng trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định
mức,đơn giá,biện pháp thi công.Giá thành kế hoạch nhỏ hơn giá thành dự toán ở mức
hạ giá thành.
Giá thành kế hoạch của công trình,hạng mục công trình được xác định theo
công thức (tính cho từng công trình, hạng mục công trình):
Giá thành kế hoạch
công trình,hạng
mục công trình
=
Giá thành dự toán

công trình,hạng
mục công trình
-
Mức hạ giá thành
kế hoạch
1.2.2.2.3. Giá thành thực tế (Ztt)
Giá thành thực tế công trình,hạng mục công trình là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ
chi phí thực tế để hoàn thành khối lượng xây lắp.Giá thành này được tính trên cơ sở số
liệu kế toán về chi phí sản xuất đã tập hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện
trong kỳ.Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào
lắp đặt,bởi vì thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp
nhận thầu xây lắp.
Muốn đánh giá được giá trị chất lượng hoạt động sản xuất thi công của
doanh nghiệp xây dựng thì ta phải tiến hành so sánh các loại giá thành trên với nhau.
Giá thành dự toán mang tính xã hội cho nên việc so sánh giá thành thực tế với giá
thành dự toán cho phép ta đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém trong doanh nghiệp xây
dựng trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý của
bản thân doanh nghiệp. Trong việc so sánh này cần đảm bảo tính thống nhất và có thể
so sánh được, tức là được thực hiện trên cùng một đối tượng tính giá thành (từng công
trình, hạng mục công trình, hoặc khối lượng xây lắp hoàn thành nhất định).
Về nguyên tắc thì mối quan hệ giữa các loại giá thành trên phải đảm bảo như
sau : Zdt > Zkh > Ztt.
Đây cũng là nguyên tắc khi xây dựng giá thành và tổ chức thực hiện kế hoạch
giá thành. Có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, có tích luỹ cho Nhà nước và
cho doanh nghiệp.
1.2.3. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp xây dựng:
1.2.3.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây dựng phát sinh luôn gắn liền với nơi
diễn ra hoạt động sản xuất và với sản phẩm được sản xuất ra.Vì vậy, kế toán cần xác

định được đối tượng để tập hợp chi phí sản xuất, trên cơ sở đó thực hiện việc tập hợp
chi phí sản xuất, kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm hay để tổng hợp chi phí
sản xuất của toàn doanh nghiệp
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí là phạm vi,giới hạn để tập hợp chi phí nhằm
đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm .
Giới hạn hoặc phạm vi để tập hợp chi phí sản xuất có thể là :
- Nơi phát sinh chi phí như đội trại sản xuất
- Nơi gánh chịu chi phí như công trình , hạng mục công trình
Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định nơi
các chi phí đã phát sinh và các đối tượng gánh chịu chi phí
Xác định đối tượng tập hợp chi phí là khâu đầu tiên, rất quan trọng của kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Khi xác định đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất, kế toán phải dựa vào và cân nhắc hàng loạt các nhân tố sau:
- Đặc điểm và công dụng của chi phí trong quá trình sản xuất
- Đặc điểm cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp

×