Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.78 KB, 38 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH
PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
I - TIÊU THỤ THÀNH PHẨM, XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ VÀ YÊU
CẦU QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU
THỤ TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1-Tiêu thụ thành phẩm
1.1-Khái niệm thành phẩm
Theo quy luật tái sản xuất xã hội, quá trình hoạt động trong doanh nghiệp sản
xuất bao gồm: cung ứng vật tư, sản xuất và tiêu thụ thành phẩm. Các giai đoạn này
diễn ra một cách thường xuyên và liên tục. Sản phẩm của các giai đoạn sản xuất
chính là thành phẩm và bán thành phẩm, trong đó thành phẩm thường chiếm tỉ lệ
cao. Thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất là những sản phẩm được gia công
chế biến xong ở những bước công nghệ cuối cùng của quy trình công nghệ sản
xuất, sản phẩm đã được kiểm tra. Bán thành phẩm là những sản phẩm mới kết thúc
một công đoạn hay một số công đoạn trong quy trình công nghệ sản xuất (trừ công
đoạn cuối cùng), được nhập kho hoặc chuyển giao để tiếp tục chế biến, cũng có thể
bán ra ngoài với ý nghĩa như thành phẩm.
Bất kỳ loại thành phẩm nào cũng biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất
lượng. Mặt số lượng phản ánh quy mô, thành phần của đơn vị tạo ra nó và được đo
bằng đơn vị mét, kg, cái, chiếc... Chất lượng của thành phẩm phản ánh giá trị sử
dụng của thành phẩm và được xác định bằng tỷ lệ xấu, tốt hoặc phẩm cấp của sản
phẩm. Đây là hai mặt độc lập của một thể thống nhất và có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Đó là nguyên nhân giải thích tại sao khi nghiên cứu, quản lý và
hạch toán thành phẩm ta phải luôn đề cập đến hai mặt này.
1.2-Khái niệm về tiêu thụ thành phẩm
Tiêu thụ thành phẩm là việc chuyển quyền sở hữu thành phẩm cho khách
hàng (người mua), doanh nghiệp (người bán) thu được tiền hoặc được quyền thu
tiền, tức là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn thành phẩm (hiện vật)
sang vốn bằng tiền (giá trị) và hình thành nên kết quả sản xuất kinh doanh (kết quả
tiêu thụ). Ngoài thành phẩm là bộ phận chủ yếu, hàng đem tiêu thụ còn có thể là


hàng hoá vật tư hay lao vụ dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Tiêu thụ thành phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Việc tiêu thụ có thể thoả mãn nhu cầu của các đơn vị khác nhau
hoặc của các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp được gọi là tiêu thụ ra ngoài
(doanh nghiệp). Thành phẩm cũng có thể được cung cấp cho các đơn vị trong cùng
một Công ty, tổng Công ty, tập đoàn... đựơc gọi là tiêu thụ nội bộ.
Xét về mặt hành vi, quá trình tiêu thụ thành phẩm là việc đưa thành phẩm từ
lĩnh vực sản xuất vào lưu thông để thực hiện việc tiêu dùng theo những mục đích
đã định. Thông qua tiêu thụ giá trị sử dụng của thành phẩm được thực hiện thông
qua quan hệ trao đổi thoả thuận giữa người mua và người bán.
Xét về mặt bản chất kinh tế, doanh nghiệp sản xuất nào cũng mong muốn sản
phẩm của mình được tiêu thụ rộng rãi. Bởi vì có tiêu thụ được hàng mới có điều
kiện bù đắp được chi phí đã bỏ ra và thu được lợi nhuận.
1.3-Vị trí, vai trò của hoạt động tiêu thụ thành phẩm
Tiêu thụ thành phẩm là cơ sở để có kết quả kinh doanh, nó có vai trò vô cùng
quan trọng không chỉ đối với mỗi đơn vị mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
Đối với bản thân các đơn vị kinh tế, bán được hàng mới có thu nhập để bù đắp
chi phí bỏ ra và hình thành nên kết quả kinh doanh. Từ đó mới có điều kiện để tiến
hành tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội...
Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, tiêu thụ hàng hoá là điều kiện
để tiến hành tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng) có quan
hệ mật thiết với nhau, một khâu có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng tới các khâu cón lại.
Do đó tiêu thụ có vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường thì tiêu thụ là vấn đề cần được quan
tâm, chú trọng hơn cả và ngày càng trở nên quan trọng. Đặc trưng của nền kinh tế
thị trường là mỗi chủ thể kinh tế theo đuổi mỗi mục tiêu kinh tế nhất định. Một
doanh nghiệp được coi là kinh doanh đều được bù đắp bằng doanh thu bán hàng và
có lãi. Từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng doanh thu, mở rộng

thị trường kinh doanh, củng cố và khảng định vị trí của mình trên thương trường,
đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
2-Xác định kết qủa tiêu thụ
2.1-Khái niệm
Kết quả tiêu thụ hàng hoá, thành phẩm, lao vụ, dịch vụ trong doanh nghiệp
chính là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh chính và hoạt động sản xuất
kinh doanh phụ. Kết quả đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu
thuần với một bên là giá vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí quản lý.
Trong đó:
Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng - Các khoản giảm doanh thu
Doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã thu được hoặc được
khách hàng chấp nhận thanh toán do bán sản phẩm hàng hoá, cung cấp lao vụ dịch
vụ. Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi hàng đã xác định là bán, tức là đã được
chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua. Do đó, tại mỗi thời điểm xác
định là bán hàng (tiêu thụ) doanh nghiệp có thể thu được tiền hoặc chưa thu được
tiền vì người mua mới chấp nhận trả.
Doanh thu bán hàng = Khối lượng sản phẩm tiêu thụ x Giá bán sản phẩm
Trong quá trình tiêu thụ cũng có thể phát sinh các khoản như: chiết khấu
thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt (nếu có) và thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp phải nộp.
-Chiết khấu thương mại: là phần giảm trừ cho người mua khi mua nhiều với
số lượng lớn.
-Giảm giá hàng bán: là phần giảm trừ cho khách hàng trong các trường hợp
đặc biệt như giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất, mẫu mã, chất lượng ghi
trong hợp đồng, không đúng thời gian, địa điểm. Đây là những nguyên nhân chủ
quan do người bán.
-Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua từ
trối trả lại.
-Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp, thuế giá trị gia tăng tính theo
phương pháp trực tiếp. Chỉ tiêu này phản ánh tổng số thuế thụ đặc biệt hoặc thuế

xuất khẩu phải nộp, thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp cho kho bạc
Nhà nước theo số doanh thu phát sinh trong kỳ báo cáo.
+Giá vốn hàng bán là trị giá vốn thực tế của thành phẩm hàng hoá, lao vụ,
dịch vụ xuất bán trong kỳ.
+Chi phí bán hàng (CPBH) là các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm.
+Chi phí quả lý doanh nghiệp là những khoản chi phí quản lý kinh doanh,
quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên quan đến cả doanh nghiệp.
2.2-Vai trò của việc xác định kết quả tiêu thụ
Xác định kết quả tiêu thụ có ý nghía vô cùng quan trọng không những đối với
các doanh nghiệp, đối với các nhà đầu tư mà còn đối với cả các cơ quan chủ quản
của Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, để biết được trong kỳ kinh doanh của mình có đạt được
những mục tiêu đề ra không, doanh nghiệp cần phải có những thống kê về các
khoản doanh thu, các khoản chi phí và tính toán kết quả của các hoạt động kinh
doanh trong kỳ. Kết quả của quá trình tiêu thụ đánh giá một cách chính xác hiệu
quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, có vai trò quyết định đến sự tồn tại,
phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp. Dựa vào kết quả tiêu thụ, doanh nghiệp
có thể phân tích được loại sản phẩm nào sản xuất ra mang lại hiệu quả cao hay
thấp, để từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư mở rộng hay chuyển hướng kinh
doanh sang mặt hàng khác nhằm đem lại lợi nhuận cao hơn.
Đối với nhà đầu tư và các ngân hàng thì kết quả tiêu thụ chính là một chỉ tiêu
quan trọng để giúp họ đánh giá tính hiệu quả của doanh nghiệp, qua đó đưa ra các
quyết định đầu tư tiếp hay không đầu tư tiếp vào doanh nghiệp nữa.
Đối với các cơ quan chủ quản nhà nước như quả lý tài chính, thuế...nắm bắt
được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp để giám
sát việc chấp hành chính sách, chế độ kinh tế, tài chính được thuận lợi nhất.
3-Yêu cầu quản lý quá trình tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ
3.1-Đối với quá trình tiêu thụ
Để quản lý quá trình tiêu thụ được chặt chẽ và hiệu quả, kế toán cần

làm tốt công tác cung cấp các thông tin về quá trình này. Cụ thể như sau:
-Kế toán phải cung cấp các thông tin cần thiết để lập kế hoạch và mức hoàn
thành kế hoạch tiêu thụ cả về số lượng, chất lượng, giá trị sản phẩm...trong quá
trình vận động từ khâu xuất bán cho tới khi thu được tiền hàng. Dựa vào đó, các
nhà quản lý sẽ phải thường xuyên theo dõi, chỉ đạo quá trình bán hàng theo kế
hoạch đã lập, kịp thời phát hiện những biến động của thị trường để điều chỉnh hoạt
động kinh doanh sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
-Thường xuyên kiểm tra công việc và tình hình thực hiện hợp đồng bán hàng,
đôn đốc thanh toán tiền bán hàng.
-Quản lý giá cả từ khâu lập giá đến khâu thực hiện giá. Doanh nghiệp phải
xây dựng một biểu báo giá hợp lý cho từng mặt hàng, từng phương thức bán hàng
và từng địa điểm kinh doanh.
-Tổ chức hạch toán tiêu thụ một cách khoa học, chặt chẽ, hợp lý. Phản ánh
chính xác kịp thời tình hình xuất bán thành phẩm, tính chính xác các khoản giảm
trừ, các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ, các khoản phải nộp ngân sách.
3.2-Đối với qúa trình xác định kết quả tiêu thụ
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của việc xác định kết quả tiêu thụ, quá
trình này phải thực hiện đảm bảo tốt các yêu cầu sau đây:
-Thường xuyên kiểm tra công việc và tình hình thực hiện hợp đồng bán hàng,
tính toán xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
-Xác định kết quả kinh doanh cần phải chi tiết theo từng đối tượng cụ thể, để
xác định kết quả và cung cấp thông tin theo yêu cầu của quản lý.
-Phân tích những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến tình hình biến động lợi nhuận.
-Tổ chức phân tích báo cáo kết quả kinh doanh, từ đó tìm ra các biện pháp,
phương hướng giải quyết những vấn đề còn khó khăn và tư vấn cho Giám đốc lựa
chọn phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
4- Ý nghĩa, nhiệm vụ tổ chức hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ
tại doanh nghiệp sản xuất
Đối với doanh nghiệp, từ số liệu của công tác kế toán nói chung và kế toán

tiêu thụ thành phẩm nói riêng cung cấp, doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ
hoàn thành kế hoạch về sản xuất, giá của sản phẩm tiêu thụ và lợi nhuận. Dựa vào
đó, Giám đốc và các nhà quản trị có thể đưa ra các biện pháp tối ưu đảm bảo duy
trì sự cân đối giữa các yếu tố đầu vào của sản xuất với đầu ra là quá trình tiêu thụ.
Cũng dựa vào đó, Nhà nước có thể nắm bắt được tình hình tài chính, kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát
vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngoài mối quan hệ với nhà
nước còn có thể liên doanh, liên kết với các đơn vị bạn hoặc các Công ty nước
ngoài để thu hút vốn đầu tư, cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm,
mở rộng thị trường... Với những số liệu của kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác
định kết quả tiêu thụ, các đối tác có thể biết được khả năng sản xuất và tiêu thụ các
mặt hàng của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra các quyết định đầu tư, cho vay, hợp tác
kinh doanh với doanh nghiệp.
Vì thế, kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Do vậy, hoàn thiện công tác hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm,
xác định kết quả tiêu thụ là một vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng,
nhằm cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý.
Do đó, kế toán nói chung và kế toàn tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả
tiêu thụ nói riêng, muốn trở thành công cụ quản lý sắc bén, có hiệu quả, đáp ứng
được nhu cầu quản lý tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ nêu trên thì
cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
-Tổ chức theo dõi phản ánh, ghi chép chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám đốc
chặt chẽ về tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm hàng hoá
đã tiêu thụ trên các chỉ tiêu hiện vật và giá trị.
-Tổ chức theo dõi phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ, tính toán
xác định đúng đắn trị giá vốn thực tế của hàng đã bán, chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp, doanh thu bán hàng, các khoản giảm trừ doanh thu, số thuế
phải nộp cũng như chi phí và thu nhập hoạt động khác để từ đó xác định chính xác
kết quả, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.

-Kiểm tra, giám sát và phản ánh tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế
hoạch lợi nhuận, phân phối lợi nhuận và kỷ luật thanh toán.
-Cung cấp thông tin kinh tế chính xác, trung thực, đầy đủ kịp thời về tình
hình bán hàng, xác định kết quả và phân phối phục vụ cho việc lập báo cáo tài
chính và quản lý doanh nghiệp của các bộ phận có liên quan, đồng thời định kỳ
tiến hành phân tích kinh tế đối với các hoạt động về tiêu thụ.
Thực hiện tốt các yêu cầu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quản lý
chặt chẽ hoạt động tiêu thụ thành phẩm khoa học, hợp lý. Đồng thời cán bộ kế toán
phải nắm vững nội dung của việc tổ chức công tác kế toán đó.
II- HẠCH TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ
1-Hạch toán giá vốn hàng bán
1.1-Khái niệm giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán là trị giá vốn của sản phẩm, vật tư hàng hoá, lao vụ dịch vụ
đã tiêu thụ. Đối với sản phẩm, lao vụ, dịch vụ tiêu thụ, giá vốn là giá thành sản xuất
(giá thành công xưởng) hay chi phí sản xuất. Với vật tư tiêu thụ, giá vốn là giá thực
tế ghi sổ, còn với hàng hoá tiêu thụ giá vốn bao gồm trị giá mua của hàng tiêu thụ
cộng với chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
1.2-Các phương pháp xác định giá vốn hàng xuất kho
Tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, yêu cầu quản lý và trình
độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, có thể sử dụng một trong các phương pháp sau
theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán để tính giá vốn hàng tiêu thụ:
1.2.1-Phương pháp giá thực tế đơn vị bình quân
Theo phương pháp này, giá thực tế thành phẩm xuất kho trong kỳ được tính
theo công thức:
Giá thực
tế thành
=
Số lượng
thành
x

Giá đơn
vị
phẩm xuất
kho
phẩm xuất
kho
bình quân
Trong đó tuỳ vào thời điểm tính mà giá đơn vị bình quân có thể tính theo một
trong ba cách sau:
Cách 1: Phương pháp giá thực tế đơn vị thực tế đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
Giá đơn
vị bình quân
=
=
Giá thực tế thành phẩm tồn
đầu kỳ và nhập đầu kỳ
cả kỳ
dự trữ
Lượng thực tế thành phẩm tồn
đầu kỳ và nhập đầu kỳ
+Ưu điểm:Cách tính này đơn giản, dễ làm, giảm bớt công việc tính toán.
+Nhược điểm:Công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng tới việc
quyết toán cuối năm.
Cách 2: Phương pháp giá thực tế bình quân cuối kỳ trước (bình quân đầu kỳ
dự trữ). Theo phương pháp này thì:
Giá đơn vị
bình quân
=
Giá thực tế thành phẩm
tồn đầu kỳ

cuối kỳ
trước
Lượng thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ
(hoặc cuối kỳ trước)
+Ưu điểm: Cách tính này đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến động
thành phẩm trong kỳ.
+Nhược điểm: Độ chính xác không cao vì không tính đến sự biến động của
giá cả trong kỳ này.
Cách 3: Phương pháp giá thực tế đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập.
Theo phương pháp này, sau mỗi lần nhập kho thành phẩm, kế toán phải tính
lại giá đơn vị bình quân, từ đó căn cứ vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bình
quân vừa tính ta xác định được giá thực tế của thành phẩm tiêu thụ:
Giá đơn
vị bình quân
=
Giá thực tế thành phẩm tồn kho
sau mỗi lần nhập
sau mỗi
lần nhập
Lượng thực tế thành phẩm tồn kho
sau mỗi lần nhập
+Ưu điểm: Cách tính này khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp
trên, vừa chính xác, vừa cập nhật.
+Nhược điểm: Việc tính toán rất phức tạp, không thích hợp với việc làm kế
toán thủ công .
1.2.2-Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số thành phẩm nào nhập trước thì xuất
trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số
hàng xuất. Với phương pháp náy, kế toán phải mở sổ cho từng loại hàng hoá cả về
số lượng, đơn giá và số tiền từng lần nhập xuất hàng.

+Ưu điểm: Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc
có xu hướng giảm, thích hợp với những loại hàng cần tiêu thụ nhanh như: Đồ tươi
sống, hoa quả, phản ánh đúng gía trị thực của mỗi loại thành phẩm.
+Nhược điểm: Tính toán phức tạp, không có tính cập nhật cao.
1.2.3- Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO)
Theo phương pháp này, kế toán giả định về mặt giá trị những sản phẩm nào
nhập sau sẽ được xuất trước, xuất hết thứ nhập sau mới đến thứ nhập trước. Do
đó, phương pháp này thích hợp trong trường hợp lạm phát. Đảm bảo tính chính xác
về giá trị thành phẩm xuất kho và cập nhật với gía cả thị trường.
1.2.4-Phương pháp giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, theo dõi thành
phẩm theo từng lô hàng và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng( trừ
trường hợp điều chỉnh). Khi xuất thành phẩm nào sẽ tình theo giá thực tế của thành
phẩm đó. Do vậy, phương pháp này thường được sử dụng với các loại thành phẩm
có giá trị cao và có tính tách biệt.
+Ưu điểm: Phương pháp này phản ánh một cách chính xác giá thực tế của
từng loại lô hàng, từng lần nhập xuất.
+Nhược điểm: Công việc của thủ kho rất phức tạp.
1.2.5-Phương pháp giá hạch toán
Theo phương pháp này, toàn bộ thành phẩm biến động trong kỳ được tính
theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một loại gía ổn định trong kỳ). Cuối kỳ kế
toán sẽ điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá thực tế thành
=
Giá hạch toán thành
x
Hệ số giá
phẩm xuất kho phẩm xuất kho thành phẩm
Hệ số giá thành phẩm có thể tính cho từng loại, từng nhóm thành phẩm chủ
yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý.

Hệ số giá
=
Giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
thành phẩm Giá hạch toán thành phẩm tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá hạch toán có thể là giá thành kế hoạch hoặc giá thành nhập kho thống
nhất do doanh nghiệp quy định trong một kỳ kế toán.
+Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ tính, thuận lợi cho các doanh
nghiệp có tần số nhập xuất thành phẩm lớn, cho phép phản ánh kịp thời giá trị
thành phẩm nhập - xuất.
+Nhược điểm: Phương pháp này cung cấp số liệu không chính xác.
Trên đây là một số phương pháp để xác định giá vốn hàng tiêu thụ, tuỳ thuộc
vào từng loại hàng sản xuất kinh doanh và yêu cầu của mỗi doanh nghiệp mà áp
dụng một trong các phương pháp trên.
1.3- Phương pháp hạch toán
1.3.1-Tài khoản sử dụng
Để xác định, theo dõi trị giá vốn hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ xuất bán
trong kỳ, kế toán sử dụng tài khoản 632: "Giá vốn hàng bán"
TK 632
-Phản ánh giá vốn của sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ.
-Chi phí nguyên vật liệu,chi phí nhân công
vượt trên mức bình thường và chi phí sản
xuất chung cố định không phân bổ được, tính
vào giá vốn hàng bán của kỳ kế toán.
-Phản ành khoản hao hụt, mất mát hàng tồn
kho sau khi trừ đi phần bồi thường do trách
nhiệm cá nhân gây ra.
-Phản ánh chi phí xây dựng, tự chế TSCĐ
vượt trên mức bình thường không được tính
vào NGTSCĐHH tự xây dựng, tự chế.

-Khoản chênh lệch giữa số dự phòng giảm
giá phải lập năm nay lớn hơn khoản đã lập
dự phòng năm trước.
-Phản ánh hoàn nhập dự phòng
giảm giá hàng tồn kho cuối
năm tài chính (31/12) (Khoản
chênh lệch giữa số phải lập dự
phòng năm nay nhỏ hơn khoản
đã lập dự phòng năm trước).
-Kết chuyển giá vốn của sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã
tiêu thụ trong kỳ sang tài
khoản 911 "Xác định kết qủa
kinh doanh".
Tài
khoản 632 "Giá vốn hàng bán " không có số dư cuối kỳ.
1.3.2-Phương pháp hạch toán
Sơ đồ 1.1: Kế toán giá vốn hàng bán (TK 632)
(Doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 154, 155 TK 632 TK 155, 157
Gía vốn hàng tiêu thụ Trị giá vốn hàng bán
bị trả lại
TK 153, 152, 156, 138 TK 627
Khoản hao hụt, mất Chi phí chung cố định cao
mát hàng tồn kho hơn mức bình thường
TK 241, 154 TK 911
Chi phí xây dựng, tự Kết chuyển giá vốn hàng
chế TSCĐ vượt bình tiêu thụ trong kỳ
thường
TK 159

Số dự phòng giảm giá
hàng tồn kho được
lập thêm.
Hoàn nhập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho
Sơ đồ1.2: Kế toán giá vốn hàng bán ( TK 632)
(Doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai định kỳ)
TK 632
TK 155, 157 TK 155, 157
Đầu kỳ, kết chuyển trị giá thành Cuối kỳ, kết chuyển trị giá
phẩm, hàng gửi bán chưa tiêu thụ thành phẩm, hàng gửi bán
vào giá vốn hàng bán chưa tiêu thụ
TK 631 TK 911
Gía thành thành phẩm hoàn thành Kết chuyển giá vốn hàng bán
nhập kho hoặc đưa đi tiêu thụ để xác định kết quả kinh doanh
TK 159
Lập dự phòng giảm giá hàng tồn
kho, cả lập dự phòng bổ sung
Hoàn nhập dự phòng giảm giá
hàng tồn kho
2-Hạch toán doanh thu bán hàng
2.1-Khái niệm doanh thu và doanh thu thuần
-Doanh thu bán hàng là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản
phẩm, cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng. Doanh thu bán hàng được ghi
nhận khi hàng đã xác định là bán tức là hàng đã được chuyển quyền sở hữu từ
người bán sang người mua. Đối với doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng (GTGT)
theo phương pháp khấu trừ, doanh thu bán hàng là doanh thu chưa có thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp, hoặc sản xuất sản phẩm không chịu thuế GTGT thì
doanh thu bán hàng bao gồm cả thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) hoặc thuế GTGT.
-Doanh thu thuần là phần chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản

giảm giá hàng bán, doanh thu của hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất khẩu, chiết khấu thương mại, thuế GTGT đầu ra (doanh nghiệp tính thuế theo
phương pháp trực tiếp).
2.2-Hạch toán giảm giá hàng bán
2.2.1-Khái niệm
Giảm giá hàng bán: Là phần giảm trừ cho khách hàng trong các trường hợp
đặc biệt như giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất, mẫu mã, chất lượng ghi
trong hợp đồng không đúng thời gian, địa điểm. Đây là những nguyên nhân chủ
quan do người bán.
2.2.2-Tài khoản và phương pháp hạch toán
TK 532 "Giảm giá hàng bán".
TK này dùng để phản ánh các khoản giảm giá hàng bán cho khách hàng trên
giá bán đã thoả thuận. Các khoản giảm giá hàng bán bao gồm giảm giá, bớt giá, hồi
khấu.
Bên Nợ:
+Các khoản giảm giá hàng bán chấp nhận trong kỳ.
Bên Có:
+Kết chuyển toàn bộ số giảm giá hàng bán trừ vào doanh thu bán hàng trong kỳ.
TK 532 cuối kỳ không có số dư.
- Phương pháp hạch toán:
Khi có chứng từ xác định khoản giảm giá hàng bán cho người mua về số
lượng hàng đã bán, kế toán hạch toán theo sơ đồ sau:
Sơ đồ1.3: Kế toán giảm giá hàng bán (TK 532)
TK 111, 112 TK 532 TK 511, 512
Khách hàng được thanh toán
tiền mua hàng.
TK 3331
VAT
Kết chuyển giảm giá
TK 131 hàng bán

Khách hàng chưa thanh toán
tiền mua hàng
TK 3331
VAT

×