Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lễ hội cầu ngư làng thai Dương Hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LẺ HỘI CẦU NGƯ </b>


<b>LÀNG THAI DƯƠNG HẠ</b>



<i><b>Nguyễn Thị Tâm Hạnh</b></i> *


<b>Lỗ hội: tín nguỡng và khát vọng</b>


<i>Lễ hội là., một khoáng thời gian của một hoạt động có tính thiêng </i>


<i>liêng và/hoặc thế tục; thu hoạch một vụ mùa đặc biệt; một loạt diễn </i>
<i>xướng trong nghệ thuật tạo hình, ky niệm một tác gia hoặc một nhóm </i>
<i>người, một phương tiện thông tin đại chủng (như Shakespear, âm nhạc, </i>
<i>điện ánh); hay là cuộc đình đám và sự hân hoan . Cách hiểu tương đổi </i>
<i>rộng này khiến người ta nghĩ đến việc chia lễ hội thành: lễ hội thế tục </i>


(secular festival) và lễ hội tôn giáo (religious festival); lễ hội nông thôn
(rural festival) và lễ hội thành thị (urban testival), dù trên thực tế, loại lễ
hội này luôn chứa đựng những yếu tố của loại kia2.


<i>Le hội cầu ngư làng Thai Dương Hạ3 là một lễ hội nghề nghiệp </i>


<i>với sự đan xen của các yếu tố nơng thân lẫn lơn giáo được hình thành</i>


' Th.s, P h â n viện Văn hóa Nghệ t h u ậ t Việt N a m tại Huế.


1 A lessandro Falassi (2005), “ L ễ hội” , trong Frank P roschan, N g ô Đ ứ c T hịnh, <i>Polklore</i> -


<i><b>một số thuật ngữ đương đại,</b></i><b> Hà N ội, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 130 - 131.</b>


2 Một đặc điểm dễ nhận thấy của <i>lễ hội thế tục</i> và <i>lễ hội thành thị</i>, nhất là những lễ hội



<b>mới hình thành trong thời kỳ hiện đại, là thường hướng đến thương mại, giải trí hoặc </b>
<b>phục vụ cho mục đích nào đó của nhà cầm quyền. </b><i><b>Festival Huế</b></i><b>, </b><i><b>Festival hoa Đ à Lạt</b></i><b>, </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

dựa trên một nền tảng xã hội lâu đời, mà mục đích cốt lõi của sự kiện
được thể hiện ngay ở tên gọi của nó - CẦU NGƯ. Thông quá các hoạt
động thờ cúng, diễn xướng, những kỹ năng và tài năng được phơ diễn...,
người ta nhìn thấy ở đây những mô hình ứng xử của cuộc sống hàng
ngày, những thông điệp về thế giới của NGƯ DÂN - NGƯ NGHIỆP -
LÀNG CHÀI 1 như nó vốn có. Những thông điệp ấy gắn liền với trải
nghiệm của họ trong quá khứ, trong hiện tại lẫn những ước mơ và khát
vọng trong tương lai. Đấy là dịp để họ bày tò lòng tri ân với những bậc
tiền nhân mở làng dựng nghiệp, để cầu phong điều vũ thuận, mát mái
xuôi chèo; là dịp để củng cố tinh thần gắn kết và để mỗi cá nhân thể hiện
vai trị của mình trong cộng đồng.


Tất cả những biểu hiện trên đây có thể nhìn thấy khi tiến hành
phân tích cấu trúc sự kiện trong lễ hội cầu ngư làng Thai Dương Hạ.
Cũng từ những gì cịn hiện tồn trong lề hội này, chúng ta sẽ ít nhiều có
được những kinh nghiệm cho công tác tổ chức, quản lý trong bối cảnh
<i>“nở rộ” lễ hội và xu hướng xã hội hoả lễ hội ở nước ta hiện nay.</i>


<b>Cấu trúc sự kiện của lễ hội cầu ngư làng Thai Dương Hạ</b><sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>o </sub> <sub>o </sub> <sub>o </sub> <sub>I</sub>


Khi nghiên cứu hình thái học của lễ hội, các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra một số đơn vị lặp đi lặp lại và giữ vai trò hết sức quan trọng, và là
<i>những nhân tố tạo thành cấu trúc của lễ hội. Đó là: nghi lễ tạo bối cảnh </i>
<i>(íraming ritual); nghi thức chuyển tiếp (rites of passage); nghi thức </i>


<i>hoán vị (rites o f riversal); nghi thức phô trương rực rỡ (rites of </i>



<i>conspicuous display); nghi thức tiêu thụ phung p h ỉ (rites of </i>
<i>conspicuous); kịch nghi lễ (ritual dramas); nghi thức trao đổi (rites of </i>
<i>exchange); nghi thức tranh tài (rites of competition); nghi thức tan hội </i>
(rites of devaloiation)2 . Hay trong một cách phân chia khác, cấu trúc lễ
<i>hội bao gồm: cấu trúc sự kiện (nghỉ thức mở đầu, nghi lễ, kịch và thi</i>


H ư ơ n g T rà ) v à x ã Phú T h u ậ n (h u y ệ n Phú V ang). <b>Chính ng u ồ n th ủ y hải sàn hết sức dồi </b>
<b>dào có được từ vị trí địa lý thuận lợi là một trong những nhân tố quan trọng khiến </b>
<b>người Việt đã chọn Thai Dương Hạ làm một trong những điểm tụ cư từ rất sớm trong </b>


hành trình Nam tiến cùa mình. Theo đó, những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần cùa


<b>người Thai Dương Hạ đã không ngừng bồi tụ theo năm tháng .</b>


<b>1 Trần Quốc Vượng (1996), “Lê hội cầu ngư ở Thuận An”, tạp chí </b><i><b>Huế </b>Xưa <b>& Nay,</b></i><b> số 16, </b>
<b>tr.25.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>tranh tài, yến tiệc, múa và âm nhạc, sự kiện kết thúc) và cấu trúc thành</i>


<i>phần tham dự (người giàu, người nghèo, nam, nữ, già, trẻ...) </i> Tất
nhiên, không phải lúc nào các nhân tố này cùng hiện diện một cách đầy
đủ trong cùng một lễ hội.


Căn cứ vào thao tác lý luận này, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu các
“đơn vị” trong lễ hội cầu ngư làng Thai Dương Hạ.


<i><b>Nghi thúc tạo bối cảnh hay nghi thức mở đầu</b></i>


Trong một cách diễn đạt khác, nghi thức tạo bối cành là những
hoạt động nhập lễ/valoiation. Từ rất nhiều tháng trước ngày nhập lễ.


ban tế tự của làng đã chuẩn bị những công việc cần thiết, như: quyên
góp kinh phí, chọn người làm chủ lễ, lên danh sách khách mời, đặt ra
những quy định đối với người vãng lai v.v... Mồi người tự làm cơng
việc của mình khơng chỉ bằng lịng nhiệt tình, tự nguyện mà cịn bằng
sự kính cẩn với tổ tiên, bằng trách nhiệm với dân làng, con cháu. Dặc
biệt, các thiết chế tín ngưỡng, nhất là đình làng được họ chú trọng tu sửa,
làm mới, phát quang, trang hoàng như là một hành động thiêng liêng
hố (sacralization) khơng gian lễ hội.


Không chỉ không gian, thời gian lễ hội cũng là thời gian thiêng
bởi đó là ngày cố định theo chu kỳ, không phụ thuộc vào tác nhân của
<i>con người hay thời tiết. Với người Thai Dương Hạ, tam niên đáo lệ (Tý</i>
- Mão - Ngọ - Dậu), vào ngày 11 và 12 tháng giêng, mọi sinh hoạt sản
xuất và lề thói hằng ngày tạm thời gác lại để bước vào lễ hội. Không chỉ
là ngày đầu Xuân, đây còn là ngày nước sinh (câu nước) - thời điểm có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngư dân để bát đầu một vụ cá.


Lúc này, cả không gian, thời gian thế tục đã được biến đổi thành
không gian, thời gian lễ hội. Mọi hoạt động thường nhật tạm thời gác lại,
thời gian cũng được đo bằng trình tự của nghi thức vốn tuân theo một
quy trình đã định hình qua nhiều thế hệ.


Như đa số những lễ hội khác của các ngôi làng Việt, lễ hội cầu
ngư được bắt đầu bàng đám rước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Khoảng 3, 4 giờ chiều ngày 11 tháng giêng, sau khi nghe âm
thanh của những hồi phèng la vang lên từ đình làng1, các vị bô lão, tộc
trưởng, người dân trong địa phương đều tề tựu đơng đủ tại đình làng.
Đám rước bắt đầu, các bô lăo áo dài khăn đóng cùng một số thanh niên
trang phục chỉnh tề (đội cung nghinh thành hoàng) mang kiệu, lọng, đến


miếu thành hoàng, kính cẩn, trang nghiêm thính các ngài về đình làng
dự hội cùng cháu con, giữa tiếng trống kèn réo rắt. Từ sân đình, các đội
rước cịn lại mang theo với cờ xí. lỗ bộ, chiêng trống, dàn nhạc bát âm
nhập vào đoàn rước, diễu hành khắp làng. Ngoài ý nghĩa cung nghinh
hồn thiêng của các bậc tiền nhân du xuân, thăm thú quê hương, chứng
kiến cuộc sống thay da đổi thịt của dân làng, đám rước cũng phần nào
thể hiện cấu trúc xã hội của cộng đồng, thông qua trang phục, biểu
tượng mà họ mang theo. Tuy nhiên, trong đoàn người ấy, dường như
ranh giới giữa người trên kẻ dưới, giữa người giàu và người nghèo, giữa
nam và nữ, thậm chí là giữa người sống và người khuất mặt đã bị xố
nhồ. Tất cả đều cộng hưởng trong niềm háo hức, trong cảm xúc rộn
ràng của ngày hội. Không gian, cảnh sắc trần tục của xóm làng, nơi
đồn người đi qua cũng trở nên thiêng liêng bởi niềm tin thần linh của
quá khứ xa xăm đang về hiện ngự.


<i>Tế lễ</i>


Đám rước kết thúc cũng là lúc trời vừa sẩm tối. Trước sân dinh,
giữa hai dàn bát bửu, một hương án với đầy đủ hương hoa phẩm vật
<i>được thiết trí hướng ra phía cổng, để ban tế tự chuẩn bị làm lễ túc yết, để </i>
cáo yết với thần linh biết rằng mọi việc đã được chuẩn bị đầy đù, xong
xuôi và mời chư thần về chứng kiến lòng thành tâm và phù hộ cho
những khẩn cầu, ước vọng của dân làng.


Lễ túc yết có thế ví như một cánh cửa tâm linh mở ra sự liên thơng,
quyện hồ giữa âm và dương, giữa thần và người, giữa quá khứ và hiện
tại. Lẽ đương nhiên, ban tế tự2 những người giữ trọng trách mở ra sự


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

liên thông này được làng chọn lựa hết sức cẩn thận. Ngồi lịng nhiệt
tình, họ phải hội đủ các yêu cầu: là bậc cao niên, thông thạo việc tế tự.


có đạo đức và uy tín; con cái có gái có trai, chồng vợ thuận hồ, nhà
khơng có tang và thân thể không khuyết tật.


Nghi thức lễ túc yết gồm một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần
trà và nghi thức đọc văn tế. Mỗi bước nghi thức đều gắn liền với vũ
nhạc trang nghiêm, long trọng. Sau ba hồi kiểng khới lệnh, ban tế tự
mỗi người một việc, củ soát tế vật, quán tẩy và vào vị trí. Ba hồi chiêng
trống ứng lệnh dóng lên. Đàn, nhị, kèn bóp, sênh phách, trống tiểu hoà
theo. Từ thời điểm này, dàn nhạc sẽ ln đi theo q trình lễ nghi, với
các bài bản ảnh hưởng từ âm nhạc cung đình như cổ bản, phú lục, xuân
phong, long hổ... Chiêng vẫn tiếp tục giữ chức năng chủ lệnh, trống đại
cùng hoà phối nhưng chỉ thi thoảng điểm cầm trịch cho lễ nghi. Ngồi
nhạc, tính chất vũ của lễ tế còn được thể hiện trong cách mà các vị chấp
sự dâng hương trầm, trà rượu1.


Sau lễ túc yết, lỗ chánh tế sẽ diễn ra lúc giao thời giữa đêm 11 và
sáng 12. v ề cơ bản, lễ chánh tế cũng diễn ra tuần tự như lễ túc yết, chỉ
khác nội dung của bài chúc. Lúc chủ tế bắt đầu thực hiện nghi thức dọc
chúc, mọi âm thanh của phường nhạc đều lắng xuống. Nhân danh làng
<i>trên, xóm dưới, chủ tế bày tỏ những lời ca ngợi công lưo lác hoủ, bao </i>


<i>quát quần sanh, vạn tuế lưu truyền của các bậc tôn thần uy linh. Đồng </i>


thời, cầu khẩn chư thần trong giang sơn hải nhạc ban cho con dân của
làng hồng phúc, mạnh khoẻ, người vật đều tươi vui.


Trong lúc chủ tế đọc văn chánh tế thì bồi tế cũng đọc văn cúng cô
hồn ở bàn thờ cô bác thiết trí trước sân đình, bày tỏ lịng cảm thông đối
với những linh hồn là chí sĩ chiến tranh, liệt sĩ mất thân, nhân dân nạn
<b>và Tây Xướng), hai vị nội tán (giúp việc cho chủ tế), mười hai vị chấp sự giúp việc </b>


<b>dâng hương, tiến tửu. N goài ra, mỗi bàn thờ cịn có hai vị thị lập đứng hai bên.Tất cà </b>
<b>đều trang phục chinh tề: Chánh tế mặc áo thụng đỏ, đội mũ mơi có giải, đi hia; Bơi tế </b>
<b>áo xanh, mũ xanh; nội tán, chấp sự áo dài khăn đóng màu đen. N gồi ra cịn có ban </b>
<b>nhạc, gồm: một người đánh trống đại, một người đánh chiêng núm, một người đánh </b>
<b>thanh la và một bộ nhạc gồm 2 kèn, một nhị, một trống quân.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

vong, oan hồn uống tử. Chia sẻ với họ chút lễ mọn áo cơm; nguyện cầu
<i>họ ban cho dân làng cuộc sống tốt tươi phồn thịnh, bình an khang thúi, </i>


<i>lộc tài thịnh lợi, phước thọ lăng lung.</i>


Có thể thấy, các nghi lễ diễn ra trong lễ hội cầu ngư là một cuộc
đối thoại giữa người sống với người đã khuất. Đó không chỉ là cách để
bày tô tấm lòng bất vong bản, ý thức nguồn cội thiêng liêng mà còn thể
<i>hiện thế giới tâm linh của cộng đồng. Đó là: Tín ngưỡng thờ kính tổ tiên; </i>


<i>Tín ngưỡng thờ kính thành hồng; Tín ngưỡng thở kính nghiệp lơ và tín </i>
<i>ngưỡng thờ kính quỷ thần. Và, xét cho cùng, đây là một loạt nghi lễ cầu </i>


xin của ngư dân những người luôn phải lo lắng về những điều bất định
mà họ thường xuyên đối mặt trên biển cả.


<i><b>Kịch và thi tranh tài</b></i>


Nếu như nghi lề có thể ví như một cuộc tiếp xúc giữa người sống
và người chết thì phần hội, cụ thể là kịch và thi tranh tài, là một cuộc
giao tiếp lề hội giữa nhừng người sống với nhau. Ớ đó, họ cùng nhau
sáng tạo, thi tài và củng cố tinh thần đoàn kết.


- Hát bội: Đây là hình thức nghệ thuật khá phổ biến trong lễ hội


các làng Trung Bộ và Nam Bộ. Giải thích hiện tượng này, có ý kiến


cho rằng: “Các chúa Nguyễn trước đó, sau đó là các vua nhà Nguyễn,
đều muốn xoá bò ảnh hưởng phong kiến nhà Lê áp đặt mạnh văn hố
chính thống trên miền đất mới. Bời thế xây chầu1 và hát bội trong văn


<b>1 "Xây chầu gọi là khai tràng (trường), khai thiên lập địa, khai thông thái cực. Lễ xây chầu </b>
<b>vốn bát nguồn từ lễ đại bội diễn ra trong cung đình nhà Nguyễn. Lễ xây chầu được bắt đầu </b>
<b>từ ông Chánh tế khai trống hướng ra bốn hướng đông tây nam bắc xướng to: "Nhất cầu </b>
<b>thiên linh giáng phước; Nhị câu địa sát trừ ương; Tam câu nhân an vật thịnh; Tứ câu quỉ </b>
<b>diệt trừ tai .</b>


<b>Sau đó tiến hành sáu lễ, đó là:</b>


<b>- Lễ Khai thiên địa tịch: tượng trưng cho Thái cực, do một ồng già đóng, quằn áo thụng, </b>
<b>râu dài, tượng trưng cho ông Bàn cồ, tay cầm bó hương cháy, tay về bốn hướng múa </b>
<b>hát:"Càn khôn giáo hoá; Vũ trụ triển khai; Lưỡng nghi tam tài; Ngũ hành bát quái".</b>


<b>- Lễ sang nhật nguyệt: một diễn viên nam đóng, tay cầm đĩa trịn bọc vải đỏ (nhật), diễn </b>
<b>viên nữ tay cầm đĩa tròn bọc vải trắng (nguyệt) cùng tiến ra sân khấu múa hát: "Càn khôn </b>
<b>giao thời thế gian quan; Âm dương tương hợp thị bình bang”.</b>


<b>Cứ như thế 3 lần hát, 3 lần 2 đĩa chạm nhau gọi sang mặt, tượng trưng âm dương giao </b>
<b>hồ sinh mn vật.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

hố cung đình nhà Nguyễn càng áp đặt mạnh trong các làng ấp...”1.
Làng Thai Dương Hạ duy trì việc mời các đoàn hát bội xướng vũ tiêt
mục “Phúc Lộc Thọ” cho đến ngày nay có thể là những vết tích ảnh
<i>hưởng của lễ Đại bội trong cung đình vào văn hoá dân gian. Ý nghTa </i>
cốt lõi của buổi trình diễn khơng gì khác là chúc cho dân làng được


bình yên, khang thái. Dĩ nhiên, trước những thay đổi của cuộc sống,
các diễn viên đã có những ứng tác thích họp hơn, khơng kém phần
sáng tạo và thú vị.


- <i>Làm trò bùa lưới: Đây là mục ấn tượng và nổi bật nhất của hội </i>


cầu ngư, được tiến hành ngay sau lễ chánh tế. Lúc này, trời vừa tảng
sáng. Sân đình người về chật kín. Bến đình, thuyền ghé đơng vui.
Không gian tràn ngập sắc màu. Người người rạng rỡ đón chờ phút giây
khai hội.


Khơng đơn thuần chì để chơi đùa, “làm trò” là một hình thức
kịch nghi lễ, trong đó, mồi hình tượng, mỗi hành động đều tái hiện
sinh động cuộc mưu sinh đầy thử thách gian nan của người làm nghề
sông nước, biển khơi. “Làm trò”2 cũng khơi gợi mối liên tưởng về tinh


<b>- Lễ Thiên Vương: do 4 kép nam đóng, tượng trưng tứ tượng (Thái âm, Thiếu dương, </b>
<b>Thái dương, Thiếu âm) chung nhau vui múa, lần lượt hát: Đông phương Giáp Át Mộc; </b>
<b>Tây phương Canh Tân Kim; Nam phương Bính Đinh Hoả; Bẳc phương Nhâm Ọuý Thuý. </b>
<b>Sau đó cùng chúc quốc thái dân an, giang sơn trường cửu. Điệu này tương tự như điệu </b>
<b>trinh, trường, tập, khánh trong cung đình Huế.</b>


<b>- Lễ đứng cái: tượng trung ngũ hành, một diễn viên nam, 4 diễn viện nữ đóng, múa hát </b>
<b>chúc tụng nhà vua, chúc ban vãn vồ, chúc tụng trời đất muôn loài từ ngũ hành mà nên.</b>


<b>- Lễ bát tiên chúc thọ: tượng trưng bát quái, tám hướng trời đất, 8 diễn viên nam đóng </b>
<b>thể hiện 8 ơng tiên, múa hát chúc thánh thần, chúc thọ dân làng. Múa hát xong, bát tiên </b>
<b>dâng lễ dân làng, dân làng tiếp nhận lễ, đặt lên bàn thờ hội đồng ngoại, dân làng thưởng </b>
<b>bát tiên, lễ chấm dứt” (Nguyễn Đăng Duy, </b><i><b>Các hình thái tín ngưỡng tôn giảo ở Việt Nam</b></i><b>, </b>
<b>HàNội^Nxb. Văn hoa Thông tin; (2001), tr. 143 - 144.</b>



<b>1 Nguyễn Đăng Duy, </b><i><b>Các hình thái tín ngưỡng tơn giáo</b></i><b>, sđd, tr. 146.</b>
<b>2 Theo truyền thống, đội làm trị gồm có:</b>


<b>+ Đoàn mồi (50 - 60 người): Là các loài cá, tôm, mực do các em nhỏ hố trang </b>
<b>thành.</b>


<b>+ Đồn chài: gồm thuyền trưởng, thuyền phó, hai người chèo: chèo nhất và chèo nhì </b>
<b>(hay chèo mũi và chèo lái), </b><i><b>một người phụ trách kẻo dây, một người phụ trách phao </b></i>
<i><b>nôi và một người phụ trách phao chìm.</b></i>


<b>+ Đồn rồi (12 người): những người mang triên gánh trên vai, tượng trưng cho nghề </b>
<b>buôn. Họ được hoá trang rất vui nhộn, hài hước.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thần lạc quan và ước mơ tôm cá đầy thuyền, vụ mùa bội thu của người
dân nơi đây.


Mặc dù các nhân vật đều do các diễn viên dân gian đảm nhận
nhưng nội dung “làm trò” gắn liền với cuộc sống thường nhật của họ
nên cũng không mấy khó khăn để luyện tập. Các vai diễn, cũng ln
tốt lên vẻ hồn hậu chất phác, gần gũi. Song, khơng vì thế mà vở kịch
khơng có chuẩn tắc riêng. Ngồi việc phải có đu các nhân vật, tất cả các
diễn viên phải là nam giới, ngay cả đoàn mồi cũng phải do các bé trai
nhập vai; phụ nữ không được đi lại nơi thuyền chài đi qua. Sự kiêng kỵ
này cũng phần nào phản ánh tính thiêng liêng, chất kịch lễ nghi của
“làm trò”


Tuy nhiên, “làm trò” hiện nay đã giản lược ít nhiều. Các nhóm
nhân vật có thế nhiều hơn hay ít hơn, phụ nừ cũng có thể tham gia làm
trị. Đó hẳn là điều dễ hiểu khi xã hội đã có nhiều điều đổi thay. Tất


nhiên, ý nghĩa của lễ hội cầu ngư, bao gồm cả làm trò vẫn giữ nguyên
giá trị của nó trong từng chi tiết.


“Làm trị” bắt đầu bằng đám rước thuyền - biểu tượng chính của
lễ hội. Từ một vị trí cách xa đình khoảng 30m, một chiếc thuyền nan
trang hoàng rực rỡ, trên thuyền có sẵn một vàng lưới bủa và một ít trấu,
được hàng chục thanh niên trai tráng gánh về phía đình. Trước khi “ra
khơi”, thuyền trưởng sẽ làm chủ lễ cử hành lễ “xuất thuyền”, cầu mong
thần linh phù hộ để thuyền thu được nhiều tơm c á . Sau đó, thuyền được
từ từ gánh ra đình. Theo quan niệm dân gian, trên đường đi gặp đàn bà
thì thuyền sẽ gặp rủi ro. Vì vậy, làng cấm đàn bà qua lại trong lúc
thuyền xuất hành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Chính hề cũng là người dẫn dắt người xem hội trở về với cội
nguồn, tổ tiên; đồng thời, truyền cho họ niềm lạc quan, tin tưởng vào
một ngày mai tươi sáng khi đọc lưu chúc1 của thành hồng.


Khơng khí lễ hội càng lúc càng rạo rực, rộn ràng giữa tiếng thúc
của trống hội, thanh la, bù rù; giữa cả tiếng kèn nhị giòn vang. Mọi người
thấp thỏm đợi chờ phiên đoạn hấp dẫn nhất, thú vị nhất của “làm trò”.


Một hồi trống lệnh vang lên, một vị cao niên của làng bước ra,
tung từng nắm mồi để nhử cá tôm. Lúc này, sân đình được ước lệ thành
khơng gian biển cả; còn mồi là bánh kẹo hoặc có khi là tiền thật gói
trong từng mảnh giấy màu. Trẻ con trong vai tôm cá cũng bắt đầu nhào
ra sân để ăn mồi. “Lưới mần đầu, câu mần dọi”, đang lúc say mồi, đàn
cá tượng trưng bị vàng lưới tung lên, bất trọn. Các tay câu cũng diễn trò
phụ hoạ thêm.


Mồi càng lúc một nhiều, cá càng lúc càng đông, lễ hội càng lúc


càng rộn ràng, sôi nổi. Đúng vào lúc ấy, một chiếc ghe nan, cốt bằng tre
phất giấy do mười người gánh chạy với ngư cụ, có mấy ngư phủ ngồi
trên, tất cả đều phục trang gọn gàng, đầu chít khăn đỏ, di chuyển quanh
sân đình. Khi thuyền đi được một vịng cũng là lúc lưới quây trọn đàn cá.
Một số chủ thuyền làm động tác gọi cá, bắt cá, chuyến cá lên thuyền;
một số khác giữ lưới để ngăn “cá khơn” thốt ra ngồi. Đàn cá vẫy vùng,
hiếu động; lưới thu hẹp vòng vây.


“Con cá” to nhất được bắt lên để dâng lên bàn thờ thành hoàng.
Các "con" khác đều bị bắt bỏ vào thúng, vào trạc, gánh xuống phá (bến
đình) để rửa và diễn những trò trên nước ngộ nghĩnh, vui tươi trước


<b>1 N ội dung lưu chúc:</b>


<i><b>Xin chúc trước thôn xã</b></i>
<i><b>Sau các làng ngư nghệ</b></i>


<i><b>Nhât niên nhị kê do tại yên xuân</b></i>
<i><b>Ra sức mà mần</b></i>


<i><b>Mần đâu đặng đỏ</b></i>
<i><b>Một giờ như gió</b></i>
<i><b>Cá ruốc hằng hà</b></i>
<i><b>Chuyên chở vào nhà</b></i>


<i><b>Rối đà chực sẵn </b></i>
<i><b>Chúc cho đăng đăng </b></i>
<i><b>S ỹ nông ngư thương </b></i>


<i><b>Xin chúc các làng bỉnh, tướng </b></i>


<i><b>Đ ời đời bắt tuyệt </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

khi đem ra chợ bán. Một số "cá" sau đó được gánh đi bán cho... "rổi"1.
<i>Các bà roi mặc cả, trả tiền, đặt cá vào quang gánh, gánh ra chợ.</i>


Một góc sân đình lại được ước lệ thành chợ cá đế trò rổi bộ diễn ra.
Từng đồn rối đặt cá tơm vào thúng, trạc, rồi gánh đi bán. Tiếng hô giá
náo nhiệt, tiếng mặc cả ồn ào, cảnh tranh giành vui nhộn. Tất cả diễn ra
nhộn nhịp và sinh động y như cuộc sống thật của những người hoá thân
vào vở diễn.


Trên mặt phá Tam Giang, ngư dân cũng chèo ghe thuyền biểu diễn
các trò kéo rớ, bủa lưới, xúc khuyết, câu mực. Đánh xong họ đưa lên cúng
thành hoàng, số còn lại đem bán và cùng chia nhau tiền. Khi giữa chủ
thuyền và rối, giữa các chủ thuyền thoả thuận xong việc chia tiền tương
ứng với thành quả lao động của mỗi người cũng là lúc “làm trò bủa lưới”
kết thúc.


- <i>Bơi trải - đua tranh tài: Khi lùm trò kết thúc cũng là lúc mọi </i>


người hướng ra bến đình để bắt đầu chứng kiến đua trải cầu ngư trên
phá Tam Giang. Đây là trò chơi được xác định như một nghi thức tranh
tài để biểu thị và khích lệ các kỹ năng cần thiết của một dân chài: sức
mạnh, sự dẻo dai và tính chính xác. Trước ngày lễ hội, các thôn trong
làng đều chuẩn bị đội hình, thuyền đế tham gia. Bên cạnh các trải của
làng , cịn có trải đua của các làng lân cận. Kéo dài từ 5 giờ sáng đến 6
giờ chiều, đua trải được chia làm 10 trộ (tráo): 1 trộ cúng, 8 trộ tuần và


1 trộ phá.



<i>Trộ cúng là trộ m ở đầu, mang tính chất lễ nghi nên chỉ có 1 vịng </i>


nhung trải qua tất cả 4 chặng. Ở mỗi chặng, các trải đua phải lấy được


<b>1 Rối: những người gánh cá đi bán dạo.</b>


<b>- R ối bò': những người mua bán cá trên bờ. Họ mua lại của các chù tàu - thường là </b>
<b>với số lượng nhỏ, các chủ nậu, vựa hoặc của những người rối nước rồi đem bán lại. </b>
<b>Những người đem cá đi bán ở các chợ lân cận trong vùng gọi là rối bán lẻ, những </b>
<b>người chuyển cá đi bán ở các chợ nơi xa gọi là rồi đường dài.</b>


<b>- R ối nước: những người chèo thuyền ra xa cảng cá, đón các tàu đánh cá trở về mua </b>
<b>cá cùa họ ngay trên biển đem về đất liền bán lại cho những người làm roi bờ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thẻ chúc đặt sẵn trên một bè tre, có khi bao gồm cả tiền thưởng. Bốn thẻ
này tượng trưng cho cấu trúc nghề nghiệp cơ bản trong xã hội truyền
<i>thống: sỹ - nông - công - thương với bốn câu chúc lần lượt là: văn <b>l ấ n</b></i><b>, </b>
<i>vổ thăng; hoà cốc phong đăng', ngư hà lợi lạc và nhất bổn vạn lợi. Phải </i>
có đủ 4 thẻ (hoặc 4 cờ hiệu), các trải mới có thể tiếp tục các trộ tiếp theo.
Trải nhanh nhất trong tráo cúng thường được thường mâm cau trầu
rượu. Phần phần thưởng này được đem cúng tại vè rốn để cảm tạ thần
linh cùng thành hoàng đã phù hộ.


<i>Khác với trộ cúng, mồi trộ tuần (trộ tiền) phải chèo đủ 3 vòng sáu </i>
tráo. Xuất phát xong, các trải đua phái lộn vè rún để lên thượng lưu,
xong, chạy về hạ lưu. Được ba vịng thì lộn vè rún trước khi vào giật
giải. Kết quả của mỗi trộ đua được tính độc lập với nhau. Ngoài phần
thường của làng, từng cá nhân cũng có thể treo thêm giải để khuyến
khích khí thế đua bơi. Trải nào thắng liên tục 3 tráo sẽ được nhận thêm
<i>giải tam thẳng - ngồi tiền có thể có thcm một con lọn chừng 50kg.</i>



<i>Sơ đồ đường đua trải - làng Thai Dương Hạ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đem dải lụa này treo lên các câv tre bên bờ phá, thuộc địa phận của thơn
xóm mình. Phướn cũng là biêu tượng của cuộc đua. Treo phướn lên là
cuộc đua đang tiếp diễn, hạ phướn là cuộc đua kết thúc.


<i><b>Yến tiêc</b></i>


Cùng với tế lễ, âm nhạc, múa hát, kịch nghi lễ và nghi thức tranh
tài. ẩm thực cũng đóng vai trị hết sức quan trọng trong lễ hội.


Thức ăn là phương tiện để giao tiếp với tổ tiên. Tương truyền, lúc
sinh thời, Trương Q Cơng rất thích bánh khối và mật ong nên chúng
là những lễ vật không thể thiếu trên bàn thờ của Ngài trong những dịp tế
lễ như thế này. Chủng cũng không cịn là món ăn thuần t mà trở thành
biểu tượng của lòng thành và mối hoài niệm của người sống đối với
người đã khuất.Thức ăn cũng là một phương tiện trao đối công bàng.
Từng thành viên, từng gia đình trong từng xóm ngõ quyên góp để có
phẩm vật dâng lên các thần linh thì các vị cũng phải có trách nhiệm chc
chờ, phù trợ cho dân làng.


Thức ăn cũng cách để thể hiện và hưởng thụ sự phong phú, màu
mỡ, phồn thịnh; là cơ hội để mọi người có thể thể hiện tài năng. Đặc biệt,
khi mọi người cùng ăn những thức ăn nhất định vào những khoảng thời
gian nhất định, họ sẽ cùng nhau hấp thụ truyền thống, do đó, dần dần
khẳng định bản sắc cùa cộng đồng. Tinh thần đoàn kết, gắn bỏ cũng được
cũng cố từ những buổi yến tiệc gần gũi này.


<i><b>S ự kiện kết thúc hay nghỉ thức tan hội</b></i>



Lễ hội cầu ngư làng Thai Dương Hạ kết thúc khi trên sông, các
đội trải đã hoàn thành tráo phá - trộ đua cuối cùng. Cây phướn được hạ
xuống. Ban nghi lễ của làng làm nhiệm vụ rước thành hoàng trở lại
miếu, đốt hết vàng mã và chấm dứt hội.


Đối lập với nghi lễ mở đầu, nghi thức tan hội đánh dấu sự kết thúc
của lễ hội, mọi người trở về với không gian và thời gian của cuộc sống
thường nhật như nó vốn có. Ngư dân bắt đầu một năm mới với những
công việc thường nhật của mình trên đầm phá biển khơi.


<b>Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

một cách đậm nét. Các hình thức, các sự kiện diễn ra trong lễ cầu ngư
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động đến tất cả các thành viên trong
cộng đồng.


Qua các nghi thức thờ cúng, tế lễ, mọi người có thể gặp nhau
trong ý thức về nguồn cội ở quá khứ. Đó là lòng biết ơn đối với các bậc
tiền nhân trong hành trình dựng làng, lập nghiệp đầy thử thách gian nan,
cũng như sự phò trợ của các nhiên thần lẫn nhân thần trong cuộc vật lộn
của con người với thiên nhiên để tồn tại, phát triển và bồi đắp những giá
trị văn hoá vật chất lẫn tinh thần.


Lễ hội cầu ngư là một dịp sáng tạo văn hoá của người Thai Dương
Hạ. Những bước chuẩn bị cho không gian đền miếu, những dám rước,
các món ăn, trang phục, diễn xướng, dua bơi... chính là cơ hội cho mọi
người thế hiện tài năng của mình. Bản sắc của cộng đồng cỏ cơ hội
được củng cố, những kinh nghiệm cũng dược đúc rút. Tất cả khích lệ
con người vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ hơn.



Cũng từ những hoạt động diễn ra trong lễ hội, tinh thần đoàn kết
cộng đồng cũng không ngừng được củng cố. Tất cả đều có cơ hội thế
hiện tình cảm và trách nhiệm với cộng đồng. Thông qua giao tiếp lễ hội,
những tỵ hiềm, mâu thuẫn dường như cũng tan biến, mọi người sống
gần gũi hơn, chan hoà và thân thiết hơn. Tinh thần đoàn kết được củng
cố sau mỗi dịp lễ hội là cội nguồn của sức mạnh, để mọi người có thể
cùng nhau hoá giải những thử thách chung mà cộng đồng phải đối mặt.


Có thể nói rằng, đời sống đạo đức, đời sống trí tuệ và tinh thần
của ngư dân vùng biển được hàm chứa một cách đầy đủ và sâu sắc trong
lễ hội cầu ngư - một hiện tượng văn hoá khá phổ biến trong hầu hết các
làng biển dọc vùng duyên hải Việt Nam. Với tầm quan trọng cùa nó
trong đời sống tâm linh của những người mà cuộc sống, sự mưu sinh
vừa phải nương tựa vừa phải đối mặt, vật lộn với biển khơi, lễ hội cầu
ngư vẫn giữ nguyên giá trị của nó ngay trong cuộc sống hiện đ ạ i.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>- về phương thức tỏ chức: Chính quyền địa phương đã hồ trợ tích </i>
cực cho tồn bộ q trình lễ hội: chuẩn bị lực lượng và phương tiện đê
giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; tô chức cho các cơ quan,
đoàn thể, các đơn vị xóm thơn tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục
thể thao... Song, cơ quan quản lý không can thiệp quá sâu. Người dân
làng Thai Dương Hạ vẫn là những chú thế tham gia tự nguyện, tích cực
và chủ động như đã nhìn thấy trong cấu trúc sự kiện xuyên suốt lễ hội.


<i>- về tính biếu trưng: Nội dung lễ hội không phải là một chương </i>
trình có sẵn vay mượn từ các lễ hội khác hay do một số cá nhân dàn
dựng theo ý muốn chủ quan của mình. Các tình tiết (đặc biệt hoạt động
tế lễ, kịch và thi tranh tài) thực sự gắn chặt với lịch sử, bản sắc của cộng
đồng ngư dân làng biển. Các thiết chế tín ngưỡng (đình, miếu) cũng làm


đúng chức năng là không gian sinh hoạt văn hố của cộng đồng.


<i>- về nguồn kinh phí: Được huy động chủ yếu từ nguồn dóng góp </i>
tự nguyện của dân làng. Đặc biệt, là một làng có nhiều người xuất ngoại,
số Việt kiều vốn là con dân làng Thai Dương Hạ về thăm quê trong
những dịp có lễ hội cầu ngư (3 năm 1 lần) tăng đột biến. Trong số họ, có
những Mạnh Thường Quân hỗ trợ đáng kế cho lễ hội. Tuy nhiên, điểm
đáng nói ở dây khơng phái là yếu tố vật chất mà chính là sức hút của lễ
hội. Chính tính chất linh thiêng, sự tiếp nối truyền thống tự hao đời đã
gọi mời những người con xa xứ trở về quê hương như một nhu cầu tâm
linh của họ.


- <i><b>về </b>môi trường lễ hội: v ố n được cộng đồng tham gia với tinh </i>


thần tự nguyện cao, ở Thai Dương Hạ người ta có thể cảm nhận ở đây
một sự cộng cảm lớn giữa những người đi lễ hội, cả trong các hoạt động
nghi lễ thiêng liêng lẫn những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật mang hơi
thở cùa đời thường./.


N.T.T.H


<i><b>Tài liêu tham khảo</b></i>


<i>1. Frank Proschan, Ngô Đức Thịnh chú biên, (2005), Folklore - một </i>


<i>số thuật ngữ đương đại, Hà Nội, Nxb. Khoa học Xã hội.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>3. L. Cadière (1997), Vê văn hoá tín ngưỡng írun thơng người </i>


<i>Việt, H.: Nxb. Văn hố Thơng tin.</i>



<i>4. Lê Quang Nghiêm (1970), Tục thờ củng của ngư phù Khánh </i>


<i>Hóa, Trung tâm văn bút Việt Nam.</i>


<i>5. Lê Quý Đôn (bản dịch Lê Xuân Giáo) (1773), Phù biêu tạp lục, </i>
Tủ sách cổ văn, ử y ban dịch thuật, Phụ quốc vụ khanh đặc trách văn
hóa xb.


<i>6. Lê Văn Kỳ (chủ biên) (2000), Văn hóa truyền thống vùng biến </i>


<i>Thuận An, (lưu hành nội bộ), H.: Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian.</i>


<i>7. Lương An (1983), Vè chống Pháp: thất thù kinh đô, thất thu </i>


<i>Thuận An, Huế.: Nxb. Thuận Hóa.</i>


<i>8. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ơ </i>


<i>Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Văn hố Thơng tin.</i>


9. Nguyễn Quang Trung Tiến (1998), “Biến động địa lý cửa Thuận An
<i>và các dự án đập sông Hương trước 1975”, tạp chí Thơng tin Khoa học vù </i>


<i>Cơng nghệ, số 2 (20).</i>


10. Nguyễn Tri Nguyên (2004), “Di sản văn hoá - cội nguồn sáng
<i>tạo và phát triển ở miền Trung”, trong Văn hoá nghệ thuật miền Trung, </i>


<i>thành tựu và vấn đề (Ký yếu hội thảo khoa học), Huế: Viện Văn hố </i>



Thơng tin - Phân viện Nghiên cứu văn hố thơng tin tại Huế.


<i>11. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cíni văn hóa </i>


<i>Việt Nam (2 tập), H.: Nxb. Khoa học Xã hội.</i>


<i>12. Phan Thuận An (1996), “Lễ hội cầu ngư ở Thuận An”, tạp chí Huế </i>


<i>xưa & nay, số 16.</i>


<i>13. Phan Thuận An, Lê Khai, Phan Trọng Phiếm (2004), Địa chí </i>


<i>làng Thai Dương Hạ, bản lưu tại nhà ông Phan Công Ải, thôn An Hải.</i>


<i>14. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần người đất Việt, H.: Nxb. Văn </i>
hóa Thơng tin.


15. Trần Quốc Vượng (1996), “Lễ hội cầu ngư ở Thuận An”, tạp chí


</div>

<!--links-->

×