Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM TOÁN DOANH THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN AASC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.87 KB, 14 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM
TOÁN DOANH THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM
TOÁN AASC
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện kiểm toán doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính
3.1.1. Những tồn tại trong kiểm toán doanh thu
Hiện nay, kiểm toán là một ngành mới trong nền kinh tế nước ta, song không phải là
một ngành hoàn toàn xa lạ với thế giới và một ngành nghề trừu tượng. Tuy nhiên do là
ngành mới xuất hiện ở Việt Nam trong hơn một thập kỷ trở lại đây nên hoạt động kiểm
toán còn nhiều vấn đề tồn tại.
Trước hết về trình độ, năng lực quản lý, kinh nghiệm hành nghề của nhân viên trong
Công ty còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là cạnh tranh
với các công ty kiểm toán quốc tế. Cụ thể, trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính cho
các tổ chức tín dụng, Công ty mới chỉ ký kết hợp đồng kiểm toán với các ngân hàng
thương mại cổ phần, còn các ngân hàng lớn như ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng
100% vốn nước ngoài phần lớn lại do các công ty kiểm toán nước ngoài thực hiện.
Trong kiểm toán doanh thu, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm
toán AASC đã xây dựng được một chương trình kiểm toán cho từng khách hàng khác nhau
và đó cũng là một trong những điểm nổi bật của Công ty.
Trên thực tế cho thấy, tuy có cả một chương trình kiểm toán riêng cho từng khoản
mục trên bảng cân đối kế toán song công việc thực hiện kiểm toán doanh thu vẫn có những
tồn tại cần phải khắc phục.
Trình độ năng lực của các kiểm toán viên trong Công ty vẫn còn nhiều hạn chế, đặc
biệt là các nhân viên có trình độ kinh nghiệm còn ít, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
của các cuộc kiểm toán và danh tiếng của Công ty.
Trong công tác đào tạo, mặc dù các nhân viên của Công ty đều được đào tạo chính
quy, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về kiến thức kiểm toán, đòi hỏi phải tiếp tục
được đào tạo. Thực tế cho thấy việc tổ chức tập huấn, ôn thi kiểm toán viên, việc liên kết
phối hợp với các tổ chức, hội nghề nghiệp quốc tế xây dựng các chương trình đào tạo mở
rộng vẫn còn hạn chế cả về số lượng và thời lượng.
Về điều kiện và trang thiết bị làm việc, mỗi phòng nghiệp vụ chỉ được trang bị một
số lượng hạn chế về máy tính xách tay và thiết bị chuyên môn, so sánh với lượng nhân viên


trong Công ty thì số lượng đó là quá nhỏ. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, phòng ban làm việc
của các phòng nghiệp vụ quá chật hẹp ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, hiệu quả làm
việc của nhân viên trong Công ty.
Trong tiến trình kiểm toán doanh thu nói riêng và toàn bộ cuộc kiểm toán nói chung
còn có những hạn chế như: chưa ứng dụng công nghệ thông tin nhiều trong chương trình
kiểm toán, kiểm toán viên vẫn phải thực hiện nhiều thủ tục thủ công, làm giảm năng suất
làm việc của kiểm toán viên.
Ngoài ra, trong hồ sơ kiểm toán vẫn còn hạn chế, như việc ghi chép giấy tờ làm việc
của kiểm toán viên còn chưa thống nhất và phụ thuộc vào cách thức làm việc của mỗi nhân
viên kiểm toán, như việc ghi ký hiệu các công việc kiểm toán viên đã thực hiện và đặc biệt
là trong cách đánh tham chiếu. Do Công ty chủ yếu tiến hành với các công ty kinh doanh
thông thường và ít thực hiện với các ngân hàng và các Công ty chứng khoán nên cách đánh
tham chiếu còn chưa thống nhất và chưa có sự thống nhất từ trước giữa các nhóm kiểm
toán, do các công ty kinh doanh chứng khoán và các ngân hàng có hệ thống tài khoản nhiều
và chi tiết hơn rất nhiều so với các công ty kinh doanh thông thường. Chính vì vậy gây khó
khăn cho công tác kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán và mất nhiều thời gian trong công
việc tổng hợp kết quả kiểm toán.
Ngoài ra, trong công tác kiểm toán giữa các chi nhánh chưa có sự kết hợp với nhau
một cách thực sự nhuần nhuyễn và do các chi nhánh còn nhỏ, trong khi nhu cầu kiểm toán
ngày càng lớn, nên ảnh hưởng đến công việc kiểm toán giữa ba miền.
3.1.2. Nguyên nhân
3.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Công ty đã phải từ chối nhiều hợp đồng kiểm toán do một thực tế là nếu ký quá
nhiều hợp đồng kiểm toán, Công ty sẽ không đảm bảo được chất lượng cuộc kiểm toán.
Một trong những nguyên nhân này là do trong quá trình hoạt động, Công ty đã xây
dựng cho mình quy trình hành nghề nghiêm ngặt với sự tuân thủ các chuẩn mực chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp, luôn lấy chất lượng dịch vụ làm thước đo, làm nền tảng cho
sự tăng trưởng và phát triển của đơn vị. Song lại có một số công ty lấy chỉ tiêu doanh thu
và lợi nhuận làm tiêu chí hàng đầu để đánh giá sự lớn mạnh và phát triển. Chính sự khác
biệt về tiêu thức đánh giá đó đã để lại một lỗ hổng trong chất lượng kiểm toán trên thị

trường. Ngoài ra, do xu hướng chi phí ngày càng cao, phí kiểm toán giảm đã đưa các công
ty kiểm toán, đặc biệt là các công ty nhỏ cắt giảm chi phí đào tạo nhân viên, chi phí giám
sát chất lượng, không tuân thủ hoặc thiếu quy trình kiểm toán, quy trình soát xét các file hồ
sơ một cách nghiêm chỉnh để thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, không thể không kể đến
tâm lý của khách hàng chỉ cần một giá phí kiểm toán thấp, bất chấp chất lượng dịch vụ
được cung cấp và áp lực từ phía công chúng, kể cả các cơ quan chức năng, chỉ mong muốn
có một báo cáo kiểm toán “sạch” đã làm tính độc lập của kiểm toán viên bị ảnh hưởng, đôi
khi vi phạm đạo đức nghề hành nghề. Tuy có chương trình kiểm toán cho mỗi khoản mục,
song chương trình kiểm toán vẫn còn chưa hoàn thiện và đầy đủ.
3.1.2.2. Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý: Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến những hạn chế của kiểm
toán viên là do môi trường pháp lý. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất.
Mặc dù tại kỳ họp thứ ba Quốc hội ngày 17/06/03, Luật Kế toán đã được ban hành, nhưng
nhìn chung, khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động dịch vụ kế toán kiểm toán vẫn chưa
thực sự đồng bộ và đầy đủ.
Chưa có những quy định thật cần thiết cho các hoạt động kiểm toán độc lập như:
quy định mua bảo hiểm nghề nghiệp hoặc lập quỹ dự phòng bắt buộc, xây dựng các chế tài
trong việc đánh giá chất lượng kiểm toán; hình thành và phát triển các tổ chức nghề nghiệp
kiểm toán để thực hiện chức năng quản lý hành nghề và kiểm soát kiểm toán.
Trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động nghề
nghiệp các công ty kiểm toán, nhưng chỉ là kiểm tra về mặt quản lý Nhà nước. Việc quản
lý chất lượng kiểm toán hiện nay chủ yếu là tập trung vào ban điều hành của doanh nghiệp
kiểm toán và ý thức của từng doanh nghiệp đó chứ chưa thực sự đi vào kiểm tra kiểm soát,
đánh giá chất lượng chuyên môn – một công việc vốn là của các tổ chức nghề nghiệp chứ
không phải của cơ quan Nhà nước.
Các Chuẩn mực Kế toán, Kiểm toán Việt Nam đã được công bố song các cơ quan
quản lý Nhà nước vẫn chưa kịp thời đưa ra những thông tư hướng dẫn cụ thể áp dụng đối
với các Chuẩn mực này nhằm đảm bảo tính khả thi. Mặt khác, giữa các Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam và các Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế có sự khác biệt đáng kể. Điều này đã
khiến cho nhiều công ty kiểm toán độc lập gặp khó khăn trong việc áp dụng các chuẩn mực

kiểm toán và phải vận dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế dù biết có nhiều
điểm không phù hợp với nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi.
3.2. Phương hướng hoàn thiện quy trình kiểm toán doanh thu
3.2.1. Kết quả đạt được trong công tác kiểm toán
Về mặt tổng quan, Đảng uỷ Công ty đã thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt
hoạt động của Công ty, Chi nhánh, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cho
cán bộ Đảng viên, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước,
kịp thời có những chủ trương, phương hướng giải quyết các công việc phù hợp đảm bảo
kinh doanh có kết quả.
Ban Giám đốc Công ty đã thể hiện sự nhạy bén trong việc nắm bắt các chủ trương,
chính sách mới của Đảng, Nhà nước, của các Bộ, ngành, trên cơ sở đó thực hiện tiếp cận
với các loại hình dịch vụ chuyên ngành mới và thực hiện có hiệu quả như xác định giá trị
doanh nghiệp để cổ phần hoá cho các đơn vị của Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn và các doanh nghiệp khác.
Công ty luôn chú trọng, quan tâm đúng mức đến công tác tuyển chọn và đào tạo cán
bộ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của các đội ngũ nhân viên, qua đó đảm bảo nâng
cao chất lượng dịch vụ cung cấp.
Công ty đã thường xuyên nghiên cứu, rà soát và sửa đổi bổ sung, ban hành một số
quy chế, quy định nội bộ, quy trình thực hiện công việc như ban hành mẫu giấy làm việc
về kiểm toán quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành, ban hành mẫu soát xét ba
cấp, bảng câu hỏi hoàn thiện các Chuẩn mực Kiểm toán, mẫu thư quản lý và thư xác nhận
công nợ… nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc và phù hợp với từng giai đoạn thực tế,
nâng cao hiệu quả công tác quản lý và xây dựng.
Công ty đã quan tâm tăng cường công tác kiểm soát chất lượng, kịp thời chấn chỉnh
những sai sót trong việc thực hiện quy trình làm việc, việc áp dụng các Chuẩn mực Kiểm
toán trong công tác chuyên môn, tránh được rủi ro và đảm bảo chất lượng dịch vụ cung
cấp.
Ban lãnh đạo và hầu hết cán bộ nhân viên công ty đã nỗ lực, tích cực, hăng say làm
việc, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao của phòng, Chi nhánh và của
Công ty.

3.2.2. Ý kiến đề xuất trong công tác kiểm toán doanh thu tại Công ty Dịch vụ Tư vấn
Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC
Kiến nghị 1: Cơ cấu tổ chức dịch vụ cung cấp cho khách hàng
Trong việc tổ chức dịch vụ cung cấp cho khách hàng, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài
chính Kế toán và Kiểm toán AASC đã đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp và có xu
hướng mở rộng thị trường hoạt động của mình. Song trong quá trình mở rộng thị trường,
Công ty vấp phải một khó khăn là còn thiếu quá nhiều nhân lực, chính vì vậy mà mặc dù
muốn mở rộng thị trường và tăng số lượng khách hàng, song Công ty vẫn phải lựa chọn
khách hàng.
Ngoài ra, dịch vụ của Công ty chưa mở rộng sang lĩnh vực tư vấn mà mới chỉ trong
lĩnh vực kiểm toán, kèm theo báo cáo kiểm toán là thư quản lý, nên dịch vụ tư vấn vẫn
chưa phải là một trong những dịch vụ cung cấp chính của Công ty.
Chính vì vậy, trong tương lai Công ty nên mở rộng quy mô của mình, do nhu cầu
kiểm toán của các doanh nghiệp Nhà nước và các công ty hoạt động trên thị trường bắt
buộc phải kiểm toán báo cáo kết quả kinh doanh. Mặt khác Công ty có thể mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình sang lĩnh vực tư vấn.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Công ty vẫn chưa đặt tên, thương hiệu cho sản
phẩm của mình, mà mới chỉ dừng ở việc tư vấn và ký các hợp đồng làm phần mềm kế
toán, tư vấn về công nghệ thông tin cho khách hàng.
Kiến nghị 2: Về công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán
doanh thu nói riêng và trong cả cuộc kiểm toán nói chung
Trong cả cuộc kiểm toán, việc ứng dụng công nghệ thông tin vẫn chưa được triệt để.
Các nhân viên của Công ty vẫn thực hiện kiểm toán thủ công và tốn nhiều công sức. Các
giấy tờ làm việc của kiểm toán viên đều được ghi chép bằng tay và lưu vào trong hồ sơ kiểm
toán. Các file hồ sơ kiểm toán của khách hàng chủ yếu là thu thập các giấy viết tay của kiểm
toán viên mà không được đánh máy và in ra giấy.
Chương trình kiểm toán trên máy tính là chưa có và với mỗi một khách hàng khi
thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên đều phải in chương trình kiểm toán ra và điều chỉnh
cho phù hợp với từng khách hàng, chính vì vậy, Ban Giám đốc Công ty nên khuyến khích
các nhân viên trong phòng tin học phối hợp với các nhân viên tại các phòng nghiệp vụ thiết

lập một chương trình kiểm toán riêng trên máy tính, nhằm tiết kiệm nguồn nhân lực tham
gia kiểm toán.
Kiến nghị 3: Công tác tổ chức hồ sơ tài liệu trong kiểm toán
Trong việc tổ chức hồ sơ tài liệu, kiểm toán viên trong Công ty đã thực hiện tốt quy
chế chung của Công ty. Tuy nhiên do số lượng khách hàng của Công ty quá nhiều, nên

×