Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Tải Phân tích thiên nhiên và cảnh ngộ của Thúy Kiều trong 6 câu đầu bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" - Bài văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.13 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích thiên nhiên và cảnh ngộ của Thúy Kiều trong 6 câu đầu</b>
<b>bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích"</b>


<b>Bài làm 1</b>


Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là
chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về
tả cảnh mà cịn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ơng, hai
yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho
nhau.


Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một
cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi
cơ đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha
mẹ.


Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới
thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cơ đơn
buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn
của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn
ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía
trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát
vàng trải dài vơ tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc
sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:


Trước lầu Ngưng Bích khố xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung


Bốn bề bát ngát xa trông


Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia


Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt
Kiều. Khơng gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:


Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.


Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa
chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây
sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình
nửa cảnh như chia tấm lịng. Bức tranh thiên nhiên khơng khách quan, mà có
hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cơ đơn ở lầu Ngưng
Bích.


Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng
là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây
liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng
của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của
Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong
cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu
thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi
cơ đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha
mẹ.


Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới


thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn
buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn
của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích. Gợi tả hịan cảnh cơ
đơn của Kiều


Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xn”.


Khóa xn là khóa kín tuổi xn, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho
thấy Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi
giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , khơng một bóng người :


“Vẻ non xa tấm trăng gần soi chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.


Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một khơng gian
rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ và
mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa
trơng bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhơ như sóng lượn , bên thì
những đám bụi hồng trải khắp dặm xa.


Cảnh thiên nhiên mênh mơng hoang vắng đó càng làm nổi bật hơn nỗi niềm cô
đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẻ bàng chua xót :


“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng”


Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là từ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và
ngày Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc


nàng cô đơn tuyệt đối.


Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra người
yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương
Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận ,nàng cảm thấy
như mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trơng ngóng, đau khổ,
mịn mõi “rày trơng mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình.


“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ”.


</div>

<!--links-->

×