Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.56 KB, 86 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Viện khoa học xã hội Việt nam trường đại học khoa học xã hội và nhân văn


ViÖn triết học



<b>Triệu Quang Minh </b>



<b>Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, </b>


<b>giải phóng giai cấp và giải phóng con </b>



<b>ngi trong t tng h chớ minh </b>



Luận văn th¹c sÜ triÕt häc



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Viện khoa học xã hội Việt nam trương đại học khoa học xã hội và nhân văn


ViÖn triÕt häc



TriÖu quang minh



Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,


giải phóng giai cấp và giải phóng con người



trong tư tưởng h chớ minh



luận văn thạc sĩ triết học


<b>Chuyên ngµnh </b>

<b>: </b>

<b>TriÕt häc </b>



M· sè : 60 22 80



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Mục lục </b>




Mở đầu <sub>2 </sub>


Chương 1: Các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngi


8


<b>1.1. Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế </b>
<b>giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX</b>


8


<i>1.1.1. Truyn thng yờu nước, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Vit Nam </i>


8


<i>1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế kỷ XIX </i>
<i>đầu thế kỷ XX </i>


12


<b>1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn </b>
<b>đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người</b>


23


Chương 2: mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong tư Tưởng hồ chí minh và ý
nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay



35


<b>2.1 Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải </b>
<b>phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh </b>


35


<i>2.1.1. Đặt vấn đề dân tộc giải phóng trên lập trường của giai cấp công nhân</i>


35


<i>2.1.2. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa</i> <sub>41 </sub>
<i>2.1.3. Độc lập cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị áp bức</i> <sub>47 </sub>
<i>2.1.4. Giải phóng dân tộc gắn với mục tiêu phát triển toàn diện con người</i> <sub>52 </sub>


<b>2.2. ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải phóng </b>
<b>dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong sự nghiệp đổi </b>
<b>mới đất nước hiện nay</b>


59


KếT LUậN <sub>74 </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mở đầu



<b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>


Hiện nay, mặc dù hầu hết các quốc gia trên thế giới đã giành được
độc lập, nhưng trên thực tế cuộc đấu tranh vì một nền độc lập theo đúng


nghĩa vẫn chưa kết thúc. Các nước đang phát triển và chậm phát triển đang
phải nỗ lực để thoát khỏi sự lệ thuộc về nhiều mặt vào các nước tư bản phát
triển. Vấn đề chủ quyền dân tộc vẫn là vấn đề nóng bỏng gây nhiều tranh
cãi và thường bị lợi dụng, xuyên tạc dưới những hình thức khác nhau. Điều
này góp phần cho thấy vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp cách mạng của mỗi
nước. Sai lầm trong việc giải quyết mối quan hệ ba giải phóng này chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại và tổn thất cho cách mạng.


Riêng ở Việt Nam, trong lịch sử có những giai đoạn cách mạng nhờ
giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người mà chúng ta đã đạt được thắng lợi. Đó là chiến
thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Người đặt nền móng cho những thắng lợi đó là Hồ Chí
Minh với tư tưởng đặt cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người trong một thể thống nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

khác biệt về thành phần xuất thân, tơn giáo...để kích động và gây chia rẽ
trong nội bộ nhân dân ta, nhằm phá vỡ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thực
trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải xử lý thật hài hồ mối quan hệ
giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân để một mặt có thể
củng cố và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, mặt khác khơi dậy và tận
dụng được sức mạnh tiềm năng của mỗi giai cấp, cá nhân. Bên cạnh đó,
trong q trình nghiên cứu, vận dụng và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí
Minh, có nhiều cá nhân, tổ chức do không nắm vững bản chất, nội dung tư
tưởng của Người đã tuyệt đối hoá quan điểm dân tộc của Hồ Chí Minh
thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Họ còn cho rằng, trong kháng chiến Hồ
Chí Minh bỏ quên vấn đề giai cấp, giờ đây phải trở lại giải quyết vấn đề giai
cấp một cách triệt để.



Tất cả những lý do trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ phải trở lại
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Từ đó, thêm một lần nữa khẳng định ý
nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này và tìm ra những chỉ dẫn thích
hợp với giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, chúng tơi chọn vấn đề “Sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.


<b>2.Tình hình nghiên cứu đề tài </b>


Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường và mang lại thắng lợi cho cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam. Trong những năm qua đề tài tư tưởng Hồ Chí
Minh được rất nhiều nhà nghiên cứu, các học giả trong và ngoài nước quan
<i>tâm. Có thể liệt kê một số tác phẩm như: Hồ Chí Minh và con người Việt </i>


<i>Nam trên con đường dân giàu nước mạnh của Phạm Văn Đồng [16]. Tư </i>
<i>tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ Nguyên </i>


<i>Giáp [20]. Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí </i>


<i>Minh của Bùi Đình Phong [63]. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh Nguyễn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>1945- 1954 của Nguyễn Minh Đức [17] Các tác phẩm này đều khẳng định </i>


giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cập tới nhiều nội dung,
trong đó có nội dung giải phóng dân tộc, giai cấp, con người của Bác. Chẳng
<i>hạn, Phạm Văn Đồng trong Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con </i>


<i>đường dân giàu nước mạnh đánh giá một trong những cống hiến quý báu vào </i>



kho tàng tư tưởng cách mạng thời đại của Hồ Chí Minh là: “Tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người” 16,133. Còn Võ
<i>Nguyên Giáp trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt </i>


<i>Nam cũng khẳng định “ Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối </i>


quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Theo Người, đối với
Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề
dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có
giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao
hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp”
<i>20,91. Nguyễn Bá Linh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân </i>


<i>tộc và chủ nghĩa xã hội cho rằng, Hồ Chí Minh là một trong những người </i>


cộng sản đầu tiên của dân tộc thuộc địa đã sớm nêu ra luận điểm về sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng cá
nhân con người trong điều kiện một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Tác
giả cịn khẳng định, rằng Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hoà yếu tố dân tộc và
yếu tố giai cấp, đánh giá đúng và đầy đủ ảnh hưởng tích cực của yếu tố dân
tộc trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam...


Ngồi ra còn một số các bài viết chuyên khảo đã đăng tải trên các tạp
<i>chí như: Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vo </i>


<i>học thuyết Mácxít về giải phóng dân tộc và giải phãng giai cÊp cđa Lª </i>


<i>Ngọc, Tạp chí Thông tin lý luận, số 11/1993; Mối quan hƯ biƯn chøng gi÷a </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Duy Q, Tạp chí Triết học số 5/ 2004. Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp </i>


<i>với vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Duy Sơn, Tạp chí </i>


<i>Nghiên cứu lý luận số 10/1999. Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và </i>


<i>đấu tranh trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Sỹ Thắng, Tạp </i>


chí Triết học, 2/1993.... Các bài viết của các tác giả đều phân tích và chỉ ra
sự gắn bó hữu cơ giữa vấn đề dân tộc, giai cấp, con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh: Nguyễn Duy Quý trong bài viết nêu trên đi theo tiến trình từ khi
Bác ra đi tìm đường cứu nước, đến lúc Người được tiếp cận với Sơ thảo lần
<i>thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, tới Chính </i>


<i>cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn ái Quốc khởi thảo để khẳng định, </i>


với Hồ Chí Minh, “cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc
được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân” 65,14. Lê Sỹ Thắng
<i>trong bài viết Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu tranh trong </i>


<i>con người và tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát những luận giải của Hồ </i>


Chí Minh về sự gắn bó hữu cơ giữa giải phóng dân tộc, giai cấp và con
người và cho rằng “ ở Hồ Chí Minh, lập trường dân tộc và lập trường giai
cấp thống nhất với nhau” 68,55.


Ngoài ra cũng có một số luận án nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
<i>Minh như: Lương Văn Kham với đề tài Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh </i>


<i>trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đoàn Thị Minh Oanh với </i>



<i> ti Vn giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng </i>


<i>nhân văn Hồ Chí Minh. Cũng đề cập tới tư tưởng về dân tộc, giai cấp của </i>


Hồ Chí Minh nhưng trên bình diện lịch sử cịn có luận án của Nguyễn Văn
<i>Khang với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kết hợp nhiệm vụ giải </i>


<i>phãng d©n tộc và giải phóng giai cấp. 1930 1945.... </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân căn bản đưa cách mạng Việt Nam đến thành
công. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa thật sự có một cơng trình chun biệt
nào nghiên cứu về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định
những giá trị của tư tưởng này đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Chúng tôi coi đây là hướng đề tài mở và mạnh dạn đi vào nghiên cứu.


<b> 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>


<i><b>3.1. Mục đích của luận văn</b></i><b> </b>


Luận văn phân tích sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, rút ra ý nghĩa của mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hin nay.


<i><b>3.2. Nhiệm vụ của luận văn</b></i>


<i>Mt l, phõn tích những tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về </i>



vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.


<i>Hai lµ, ph©n tÝch mèi quan hƯ giữa giải phóng dân tộc, gi¶i phãng </i>


giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh


<i>Ba là, rút ra ý nghĩa từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối </i>


quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.


<b> 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b>


<i><b>4.1. C¬ së lý luËn </b></i>


Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những tư tưởng trong các Văn kiện của Đảng, trong các tác phẩm
viết về Hồ Chí Minh.


<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b> 5.Đóng góp của luận văn </b>


Trờn cơ sở đi sâu nghiên cứu mối quan hệ và chỉ ra sự thống nhất
giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn rút ra một số ý nghĩa của tư tưởng này của
Người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.


<b>6. KÕt cÊu cña luËn văn </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Chng 1


<b>Cỏc tin hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về </b>
<b>giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp </b>


<b>và giải phúng con ngi </b>


<b>1.1.Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách </b>
<b>mạng thế giới cuối thế kỷ XIX đầu XX </b>


<i>1.1.1. Truyn thng yờu nc, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân </i>
<i>dân Việt Nam </i>


Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm. Trải qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng nên những truyền
thống văn hoá tốt đẹp, trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nước, gắn bó
cộng đồng trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm và
xây dựng đất nước. Tư tưởng yêu nước từ thời Hùng Vương đã nẩy nở.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, tinh thần yêu nước
đó khơng những khơng bị tàn lụi vì sự đơ hộ của ngoại bang mà còn tiếp tục
được củng cố và phát triển. Đến khi đất nước giành được độc lập, truyền
thống yêu nước tiếp tục được phát triển gắn liền với các đại biểu như: Ngô
Quyền, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi...Truyền thống u nước khơng chỉ là
một tình cảm, một phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý của dân tộc ta, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam qua các thế
hệ. Chủ nghĩa yêu nước cũng chính là động lực to lớn giúp cho dân tộc ta vượt
qua những khó khăn thử thách và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nước còn bị chi phối bởi hệ tư tưởng thống trị của thời đại đó. Trong thời
đại phong kiến, chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa trung quân. Ban đầu,
sự gắn kết đó mang tính tích cực, nhưng dần dần chế độ phong kiến rơi vào
con đường suy thoái và bộc lộ những tiêu cực của nó, chủ nghĩa trung quân
trở nên bảo thủ và độc lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Những bế tắc
và thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân. Hồ Chí Minh xuất thân trong
một gia đình nhà Nho khơng bị ràng buộc bởi tư tưởng trung quân như một
số trí thức đương thời. Tư tưởng yêu nước của Người thấm nhuần những giá
trị dân tộc và nhân bản của đạo lý Việt Nam, gắn nước với dân và lấy đó
làm mục tiêu hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một nhân tố quan
trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

liêng. Nó chỉ rõ sự gắn kết bền chặt không tách rời nhau giữa con người với
làng xóm, dịng họ, q hương, dân tộc.


Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng này ngày càng được
củng cố, phát triển và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tinh thần ấy còn được thể hiện rõ hơn trong cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của nhân nhân ta. Trong lịch sử, dân tộc ta thường phải chống lại
quân giặc với một lực lượng lớn, mạnh hơn lực lượng của ta rất nhiều lần.
Đứng trước thử thách đó, chúng ta càng phải đồn kết gắn bó với nhau, tìm
kế sách để đánh giặc, giữ nước. Với sức mạnh đó chúng ta có thể đánh
thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Chẳng hạn, nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII đã
ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Sở dĩ có chiến thắng đó là
do “ Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức” (Trần Quốc
Tuấn). Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Nguyễn
Trãi chỉ ra nguyên nhân thắng lợi là do tập hợp đoàn kết được lực lượng dân
chúng: nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng. Để tạo nên


sức mạnh thì tướng sỹ phải đoàn kết một lịng, gắn bó với nhau, Nguyễn
Trãi đã nhìn thấy cơng lao và sức mạnh của dân, dân là số đông, là cơ sở
của xã hội, là lực lượng có vai trị quyết định tới sự tồn vong của triều đại...


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Kinh nghiệm nghìn năm lịch sử của dân tộc ta cho thấy, mỗi lần tổ
quốc lâm nguy, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc lại làm bùng lên
trong mỗi người con Việt Nam ý thức sẵn sàng hy sinh vì lợi ích chung:
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Chính chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân
tộc đã làm nên sức mạnh đồn kết. Có thể nói đồn kết tồn dân tộc là nhân
tố quyết định sự thành công của sự nghiệp dựng nước và giữ nước; một dân
tộc nhỏ nhưng biết đồn kết chặt chẽ thì sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn, có
thể đập tan được mọi kẻ thù xâm lược. Khơng có sức mạnh đồn kết thì dân
tộc Việt Nam khơng thể tồn tại và phát triển được. Hồ Chí Minh là người
rất am hiểu lịch sử dân tộc. Người nhận thức được, rằng để giải phóng dân
tộc, giai cấp và con người thì cần phải tập hợp, đồn kết các lực lượng nhân
dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Mặt trận thống nhất là
nơi thể hiện đầy đủ nhất sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoàn thành
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.


Truyền thống dân tộc đã nuôi dưỡng những người con của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những người con lĩnh hội đầy đủ nhất
tinh hoa đó của dân tộc. Người tìm ra mẫu số chung của cả dân tộc Việt
Nam là lịng u nước. Người biết hồ lòng yêu nước của bản thân vào lòng
yêu nước chung của nhân dân, khơi dậy từ đáy lòng mỗi người con Việt
Nam lòng tự tơn dân tộc. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước, tinh thần cố
kết cộng đồng, lịng tự tơn tự hào dân tộc vừa là khởi nguồn vừa là động lực
cho mọi hành động cách mạng. Chính truyền thống q báu đó của dân tộc
đã giúp hình thành những tư tưởng đầu tiên về dân tộc, giai cấp, con người
của Hồ Chí Minh và tiếp thêm sức mạnh cho Người trong suốt cuộc hành
trình tìm chân lý độc lập, tự do cho dân tộc. Có thể nói rằng, ngày hơm nay,


tinh thần nhân đạo, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang trở
thành một phần không thể thiếu của truyền thống yêu nước và cố kết cộng
đồng như một trong những minh chứng hùng hồn cho các thế hệ đi sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

cấp và giải phóng con người, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc xem xét ảnh
hưởng của truyền thống dân tộc đến tư tưởng này của Người từ những điểm
căn bản: chủ nghĩa yêu nước, tính cố kết cộng đồng và tinh thần dân tộc, qua
đó hiểu thêm về lý do thơi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và việc
Người đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
trong một thể thống nhất khi tiến hành lãnh o cỏch mng Vit Nam.


<i>1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế </i>
<i>kỷ XIX đầu thế kỷ XX </i>


<i>Cách mạng Việt Nam </i>


Nm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam khi chế độ
phong kiến nước ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trong
khi nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra chống thực dân Pháp thì nhà
Nguyễn với sự yếu hèn, bạc nhược đã đầu hàng giặc, mặc dù có những ơng
vua cũng rất u nước như : Hàm Nghi, Thành Thái Thơn tính được Việt
Nam, thực dân Pháp tiến hành các biện pháp bóc lột, vơ vét tài nguyên, cai
trị trực tiếp, nô dịch hóa nhân dân:


Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta, áp dụng cả lối bóc lột kiểu phong kiến,
làm cho nhân dân ta, nhất là nơng dân và cơng nhân bị bần cùng hố, làm
cho kinh tế nước ta không thể phát triển.


Về văn hố xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, tuyên truyền


văn hoá thực dân phản động, khuyến khích văn hố nơ dịch, tự ti, kìm hãm
dân ta trong vòng tối tăm để phục vụ sự cai trị của chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

sản, tiểu tư sản bên cạnh các tầng lớp, giai cấp cũ. Giai cấp nông dân Việt
Nam là một trong hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến, giờ đây ngồi
bị bóc lột phong kiến, họ cịn chịu thêm bóc lột thực dân. Thuế khố nặng
nề, lao dịch chồng chất đã làm cho đời sống người nông dân Việt Nam rất
cơ cực. Bị mất ruộng và phá sản, nông dân phải cày thuê cho địa chủ, một
bộ phận phải bỏ làng ra các thành thị kiếm sống hoặc chạy vào các đồn
điền, hầm mỏ làm thuê trở thành đội quân vô sản: giai cấp công nhân Việt
Nam là đại biểu cho sản xuất công nghiệp ở Việt Nam, họ sống tập trung ở
thành thị và trung tâm kinh tế, họ bị tư bản thực dân bóc lột trực tiếp nhất;
giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, họ bị thực
dân chèn ép áp bức, là bộ phận nhỏ bé, yếu ớt, lệ thuộc nặng nề cả về kinh
tế và chính trị vào thực dân... Nhìn chung, cách mạng Việt Nam lúc này gặp
nhiều khó khăn, nhất là về mặt tổ chức lực lượng. Giai cấp nông dân tuy
chiếm trên 90% dân số nhưng vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực vì thiếu tổ chức,
thiếu người lãnh đạo; công nhân tập trung ở các xí nghiệp, hầm lị, có tinh
thần cách mạng triệt để nhất nhưng chưa có tổ chức tập hợp, chưa có tư
tưởng dẫn đường; giai cấp tư sản bị phân hoá thành hai bộ phận đối lập. Bộ
phận tư sản dân tộc đã tiến hành đấu tranh vì độc lập, tự do và dân chủ,
nhưng họ ít về số lượng, yếu về kinh tế, khơng vững về lập trường. Trong
khi đó chúng ta lại chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn để liên kết,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

tư tưởng phong kiến. Lịch sử đã từ bỏ con đường phong kiến đúng vào lúc xuất
hiện một con đường mới, một trào lưu mới – trào lưu dân chủ tư sản.


Hạt giống của trào lưu dân chủ tư sản ở nước ta nảy mầm là do chịu
ảnh hưởng của phong trào vận động cải cách Duy tân của thế giới và khu


vực. Trào lưu dân chủ tư sản đúng ra là do giai cấp tư sản lãnh đạo, nhưng
lúc này tư sản Việt Nam chưa ra đời, nên lãnh đạo phong trào là một bộ
phận tiểu tư sản yêu nước, trí thức tiến bộ. Tuy cùng một con đường nhưng
phương pháp cứu nước của Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là không
giống nhau:


Phan Bội Châu chủ trương chống đế quốc, giành độc lập dân tộc mà
trước mắt chưa chống phong kiến. Ông mong muốn dựa vào Nhật, cầu viện
Nhật để chống thực dân Pháp. Phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi
xướng và lãnh đạo được đông đảo thanh niên yêu nước đương thời đi theo.
Nhưng, Nhật lại thoả hiệp với thực dân Pháp tiêu diệt cách mạng Đông
Dương, lưu học sinh Việt Nam đều bị trục xuất khỏi nước Nhật.


Ngược với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương chống phong
kiến mà chưa chống đế quốc, giành tự do, dân chủ bằng phương pháp ôn
hoà, dựa vào Pháp để chống phong kiến. Phong trào Duy Tân do Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi xướng nhằm đổi mới chính
trị và văn hoá đất nước để đi tới độc lập tự chủ. Phong trào này ra sức phê
phán sự thối nát của vua quan nhà Nguyễn, mặt khác trông mong vào sự
giúp đỡ của đế quốc Pháp nhằm thực hiện “dân quyền”, “dân chủ” ở nước
ta. Nhưng tư tưởng “ỷ Pháp, cầu tiến bộ” đó khơng nhận được sự tin tưởng
và ủng hộ của Pháp. Vì thế nhiều người trong Duy tân hội bị bắt bớ tù đày,
bản thân Phan Châu Trinh cũng nhiều lần phải vào nhà tù đế quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

lên phong trào cứu nước mang sắc thái mới, nhiều hình thức hoạt động đa
dạng đã diễn ra chứ không đơn thuần là vũ trang truyền thống, tiêu biểu là
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền tổ
chức. Mục tiêu của phong trào này là truyền bá nền văn hoá mới để thực
hiện chủ nghĩa yêu nước mới. Lúc đầu thực dân Pháp tưởng rằng phong trào
này chỉ đòi hỏi thực hiện cải lương văn hố nhưng sau đó chúng nhận thấy


tổ chức này có xu hướng chống Pháp nên đã đóng cửa “cái lò phản loạn
ấy”...Có thể thấy, rằng tuy các phong trào yêu nước có xu hướng tư sản đều
đã bộc lộ sự bế tắc, không phát triển được và thất bại nhưng chúng đã góp
phần cổ vũ, thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân, nhất là thanh niên,
trí thức, học sinh.


Như vậy, có thể thấy cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đứng
trước sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng cứu nước, thiếu
giai cấp tiên tiến lãnh đạo, tập hợp, thiếu lý luận tiên tiến dẫn đường. Dân
tộc ta cần một lý luận mới, một bộ phận lãnh đạo có thể giải quyết đúng
đắn những nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai cấp, con người cả trước mắt và
lâu dài trên con đường cách mạng. Nguyễn Tất Thành cũng khơng tìm ra
được ngay lời giải cho những vấn đề ấy mà chỉ nhận thấy sức mạnh của lòng
yêu nước trong nhân dân và ý thức được rằng phải ra đi tìm đường giải phóng
dân tộc. Nhận thức này của Nguyễn Tất Thành khơng phải ngẫu nhiên mà
có, nó là kết quả của sự kết hợp giữa một thanh niên được giáo dục nghiêm
túc, được sống trong một dân tộc có truyền thống yêu nước của và với một trí
tuệ hơn người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Chi Lăng – Xương Giang và một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Cụ
cũng đưa Nguyễn Tất Thành đến nhiều nơi khác, gặp nhiều sỹ phu yêu
nước, cho ngồi nghe các cụ đàm đạo việc nước...Tất cả những việc làm của
một người cha mẫu mực, một nhà Nho vươn khỏi tầm “trung quân” của Nho
giáo để đến với “ái quốc” đã ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng của Người.


Cùng với sự giáo dục của gia đình, truyền thống quê hương anh hùng
cũng là một trong những nền tảng góp phần tạo nên một Nguyễn Tất Thành
với lịng u nước vơ bờ bến. Nghệ An, quê hương Người cũng là quê
hương của nhiều nhà cách mạng lớn như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Cơng
Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu



Nguyễn Tất Thành được rèn luyện trong cuộc sống lao động và đấu
tranh của những người dân mất nước đang phải chịu kiếp nô lệ, được tiếp
xúc với những nhà Nho yêu nước, được tham gia và chứng kiến nhiều
phong trào yêu nước bị đàn áp và thất bại Với một tư chất thông minh,
Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra sức mạnh của dân tộc Việt Nam là ở
truyền thống yêu nước thương nòi. Bản thân Người sau này cũng khẳng
định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III” [55,128].


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...Chúng ta
có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v..Chúng ta phải ghi nhớ công lao
của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh
hùng” [51, 171-172].


Từ thực tiễn cách mạng trong nước, Nguyễn Tất Thành nhận ra, rằng
không thể đi theo vết xe của các vị tiền bối. Mặc dù rất khâm phục các cụ:
Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu...vì:
“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận
ra điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan
Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm chẳng
khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám tuy
thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp nhưng cụ còn nặng cốt cách
phong kiến” [72,11]. Bởi thế, thay vì chờ đợi sự quan tâm của “chính phủ”
để “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” theo quan điểm của Phan Chu
Trinh, hay “Đông du” theo Phan Bội Châu... Nguyễn Tất Thành hiểu rằng,
dân tộc ta chỉ có thể tự mình giải phóng cho mình, muốn vậy, phải tìm được
con đường đúng đắn, con đường khác với sự lựa chọn của các bậc tiền bối.



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

được, rằng cái quan trọng nhất đối với dân tộc mình lúc này là tìm ra “cách
làm cách mạng” rồi mới tính đến sự ủng hộ về vật chất và tinh thần.


Tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang Pháp để thực
hiện hoài bão tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Từ đây, Người chính
thức tham gia vào thực tiễn cách mng th gii.


<i>Cách mạng thế giới </i>


Cui th kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tình hình cách mạng thế giới có
nhiều biến động. Chủ nghĩa tư bản thế giới đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Cục diện thế giới có những biến đổi sâu sắc với sự tranh
giành, phân chia thuộc địa của các nước đế quốc. Thế giới bị phân chia làm
hai khu vực: khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi
là phương Tây và khu vực gồm các nước thuộc địa, thường được gọi là
phương Đông. Vấn đề đặt ra đối với các nước phương Tây lúc này là khai
thác được từ các nước thuộc địa càng nhiều càng tốt để phát triển chính
quốc. Trong khi đó vấn đề đặt ra đối với các nước thuộc địa, trong đó có
Việt Nam là phải làm thế nào để được giải phóng.


Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra làm gia tăng mâu
thuẫn giữa chính các nước đế quốc và hình thành rõ nét một mâu thuẫn mới
đó là: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực
dân. Bên cạnh đó, phương Đông đang “thức tỉnh” với một loạt phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc,
ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđơnêxia Thực tế đó đã đặt những tiền đề đầu tiên
cho phép hình thành liên minh các dân tộc bị áp bức trên thế giới.


Tình hình cách mạng thế giới càng trở nên sôi động khi Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công, lập ra nhà nước công nông binh đầu tiên trên


thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm nức lòng nhân dân thế giới và
làm sáng lên niềm tin vào một tương lai mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

trong tâm trí người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành không phải là
một nước Pháp với nền công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến mà là một nước Pháp
với sự phân hoá xã hội rõ nét, một nước Pháp có người giàu, người nghèo,
người tốt, người xấu. Người nhận ra rằng: “ở Pháp cũng có người nghèo như
bên ta” [72,16] và “ những người ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người
Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo” [72,23]. Căm phẫn trước sự hung ác
của thực dân bao nhiêu, Nguyễn Tất Thành càng đau xót cho tình cảnh của
những người bị bóc lột. Người khẳng định: trước lòng bác ái, máu người
Pháp cũng như máu người Việt, đều đỏ và có “hai nước Pháp”: một nước
Pháp của bọn thực dân đế quốc, của những kẻ thống trị, áp bức bóc lột và
một nước Pháp của những người vô sản, những người lao động nghèo khổ, bị
áp bức bóc lột.


Sau ít tháng dừng chân ở Pháp, cuối năm 1911, Nguyễn Tất Thành
tiếp tục cuộc hành trình đến nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Mỹ.
Trong số các nước đã đến, Người dừng chân khá lâu ở nước Anh và nước
Mỹ. Tại Mỹ, Nguyễn Tất Thành đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập 1776” của
nước Mỹ, trong đó đề cập đến “quyền bình đẳng”, “quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người....Người khâm phục ý chí
giành độc lập, tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục những tư tưởng vĩ đại của
Oasinhtơn, Lincôn, nhưng đồng thời cũng phát hiện ra những nghịch lý:
đằng sau những lời lẽ hoa mỹ về tự do, bình đẳng là sự bất bình đẳng và
nghèo đói của hàng triệu người lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của
người da đen, nạn phân biệt chủng tộc...


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man, các dân tộc thuộc địa đều có
một kẻ thù khơng đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân. Đây có thể coi là


gốc rễ đầu tiên đưa Nguyễn Tất Thành đến với chủ nghĩa quốc tế, hình
thành mầm mống đầu tiên cho ý định liên minh giữa những người bị áp bức
của các dân tộc thuộc điạ và phụ thuộc.


Bước ngoặt lớn trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
<i>phóng dân tộc, giai cấp và con người là khi Người tiếp xúc với Sơ thảo lần </i>


<i>thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. </i>


Nếu bản Luận cương đã làm Nguyễn ái Quốc vui mừng đến phát khóc lên
khi tìm thấy ở đó chân lý giải phóng dân tộc thì với Cách mạng Tháng
Mười, Người khẳng định: “Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối,
cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài
người” [53,558]. Người nhấn mạnh: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách
mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng
triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất” [57,300]. Nghiên cứu Cách
mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận thấy, rằng đây là cuộc cách
mạng vượt xa và khác hẳn các cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử. Mục
tiêu của cuộc cách mạng này không phải chỉ đem lại quyền lợi cho một số ít
người mà là giải phóng tồn thể xã hội. Từ đây, Nguyễn Tất Thành phát
hiện ra, rằng cách mạng Việt Nam cũng phải làm đến nơi như Cách mạng
Tháng Mười Nga mới thoát được áp bức dân tộc, áp bức giai cấp để giải
phóng con người nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

đế quốc chỉ là những lời đường mật cốt để lừa bịp các dân tộc bị áp bức.
Muốn được độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy
trước hết vào lực lượng của bản thân mình; người Việt Nam phải tự giải
phóng lấy mình” [8,21].


Năm 1920, Nguyễn ái Quốc tham gia Đại hội Tua, bỏ phiếu cho


Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.


Như vậy, từ khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) đến Đại hội Tua
(1920) tinh thần yêu nước của Nguyễn ái Quốc càng được củng cố và gắn
liền với quốc tế vô sản, giác ngộ dân tộc gắn với giác ngộ giai cấp. Là một
người dân mất nước, Nguyễn ái Quốc dành tình yêu trước hết cho dân tộc
mình. Khi hồ mình vào cuộc sống của những người cùng khổ khắp năm
châu, Nguyễn ái Quốc đã đồng cảm sâu sắc với họ. ý thức dân tộc dần gắn
với ý thức giai cấp vô sản. Đến đây, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp của Người đã hình thành về căn bản với những điều Người
đúc rút được từ thực tiễn cách mạng. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người tiếp tục được hoàn thiện trong thời
gian Người làm việc tại Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại
Matxcơva (1923). Năm 1924, Người về đến Quảng Châu, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Từ đây về sau, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người của Hồ Chí Minh được hiện thực
hố và ngày càng hồn thiện trong tiến trình cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

cách mạng bao giờ cũng phụ thuộc vào con người sinh ra và vận dụng tư
tưởng đó.


ở Hồ Chí Minh, nổi bật lên là những tư chất và phẩm chất sau: tư
chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham học hỏi, tầm nhìn sâu
rộng, có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn và nhạy bén với
cái mới... Hồ Chí Minh ln mang theo mình những phẩm chất và tư chất
ấy. Điều này cắt nghĩa:


- Tại sao Nguyễn Tất Thành sang Pháp chứ không phải sang Nhật
theo cụ Phan Bội Châu mặc dù cụ Phan có ảnh hưởng rộng, lại rất thân với


cụ Nguyễn Sinh Sắc và yêu mến Nguyễn Tất Thành?


- Tại sao Nguyễn Tất Thành lại chọn nước Mỹ, nước Anh để ở lại
một thời gian trước khi trở về Pháp hoạt động?


- Tại sao đầu thế kỷ XX có rất nhiều người Việt Nam sang Pháp và
cũng khơng phải chỉ có Nguyễn Tất Thành đọc Luận cương của V.I.Lênin,
nhưng chỉ có duy nhất Nguyến Tất Thành trở thành người cộng sản?


- Tại sao Nguyễn Tất Thành kh«ng sang Trung Quèc trong khi
Quảng Châu được coi là cái nôi của cách m¹ng ViƯt Nam?


- Tại sao khi đến Pháp, mặc dù có nhiều người đỡ đầu như: Phan Văn
Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh... nhưng Nguyễn Tất Thành
không ở lại Pari mà tiếp tục đi đến các nước khác?


Như vậy, có thể nói, rằng nhân tố chủ quan trong con người Hồ Chí
Minh đã kết hợp một cách tài tình với điều kiện khách quan để tạo ra cho dân
tộc Việt Nam một Nguyễn ái Quốc, một Hồ Chủ tịch, một vĩ lãnh tụ vĩ đại
sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

thời, sống chung với bè bạn cùng cảnh ngộ trên thế giới trong quá trình tìm
đường cứu nước cũng giúp Người nâng cao nhận thức về giai cấp công
nhân, về quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản
và là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.


Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước, bức xúc giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa quốc tế, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã
tìm thấy ở đó chân lý mà Người mong đợi. Đó là chân lý giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.



<b>1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí </b>
<b>Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con </b>
<b>người </b>


Hồ Chí Minh từng khẳng định chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa
Người đến với V.I.Lênin và tin theo quốc tế III. Người tìm thấy trong “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của V.I.Lênin “cái cần thiết cho chúng ta”, “con đường giải phóng chúng
ta”. Lý luận của V.I.Lênin là sự vận dụng sáng tạo lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể và nâng lý luận ấy lên một tầm cao mới.
Tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác–Lênin được minh chứng bằng kết quả
cách mạng - sự thành lập một nhà nước công nông binh đầu tiên trên thế giới.


Đối với C.Mác, quan niệm về con người được ông nhắc tới nhiều trong
hệ thống lý luận, nhất là khi tiến hành sự phê phán triệt để triết học duy tâm tư
biện của Hêghen và triết học nhân bản của Phoiơbắc về con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

tạo lại giới tự nhiên...Qua đó, C.Mác đã nói tới phương thức tồn tại của con
người với tư cách là toàn bộ hoạt động cải tạo thế giới vật chất của con
người, hoạt động sản xuất của con người. Nhưng hoạt động sản xuất đó
không phải là hoạt động riêng của một cá nhân mà là hoạt động của cả một
cộng đồng người. Cộng đồng người đó có những quy định chung cho các
thành viên. Hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử loài người là


<i>thị tộc (chỉ có khoảng vài trăm người có cùng huyết thống), tiếp theo là bộ </i>
<i>lạc (được hình thành từ nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ </i>


<i>hơn nhân liên kết), sau nữa là bộ tộc (liên kết nhiều bộ lạc trên cùng một </i>
<i>vùng lãnh thổ), cuối cùng là dân tộc (cộng đồng dân cư được hình thành từ </i>


một bộ tộc hoặc từ sự liên kết nhiều bộ tộc trên một vùng lãnh thổ).


C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, rằng tác nhân cơ bản dẫn tới
việc chuyển từ hình thức cộng đồng người trước dân tộc sang dân tộc là tác
nhân kinh tế và dân tộc điển hình là dân tộc tư sản. Dân tộc này bao gồm
các giai cấp, tầng lớp khác nhau; trong đó tư sản và vơ sản đối lập nhau về
địa vị kinh tế, song lại có quan hệ chặt chẽ trong hệ thống kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Hai ông đã nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa để
hiểu bản chất của dân tộc tư sản, rồi quay lại nghiên cứu dân tộc tư sản để
hiểu kỹ hơn bản chất của chủ nghĩa tư bản. Qua đó C.Mác và Ph.Ăngghen
nhận ra, rằng khi chủ nghĩa tư bản trở thành thống trị, “nó buộc tất cả các
dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu
diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là
phải trở thành tư sản” 42,602. Bằng sức mạnh của mình, “nó đã bắt những
dân tộc nơng dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương
Đông phải phụ thuộc vào phương Tây” 42,602. Qua sự phân tích của
mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra sự thống trị của giai cấp tư sản với
dân tộc và với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư
sản hiểu” 42,623-624. Vì thế, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình
thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước
phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”. 42,611


Theo đó, với C.Mác và Ph.Ăngghen, việc giải quyết vấn đề giai cấp có
ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, bởi vì xã hội hiện
tại “chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối


lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” 42,597. Mặt khác, “khi mà sự đối
kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn thì sự thù địch giữa các
dân tộc cũng đồng thời mất theo” 42,624 và “trong các cuộc đấu tranh của
những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ
những lợi ích khơng phụ thuộc vào dân tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ
sản” 42,614. Do vậy, “hãy xố bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ” 42,624 .


Cuối cùng, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, rằng trong khi “xã hội
khơng thể nào giải phóng cho mình được, nếu khơng giải phóng cho mỗi cá
nhân riêng biệt” 43,406 thì cách mạng vơ sản là con đường duy nhất để xoá
bỏ ách áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Để tới được với chủ nghĩa cộng sản,
khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải liên minh trên
phạm vi quốc tế “Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại”. Nó là tiền đề đưa cách
mạng vơ sản đến thắng lợi trên phạm vi quốc tế để hoàn thành sứ mệnh lịch
sử: giải phóng con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

khơng bao hàm nội dung đó. Với C.Mác và Ph.Ăngghen, phát triển con người,
giải phóng con người là mục tiêu cuối cùng mà cả nhân loại hướng tới.


Xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, xem xét con người với tư cách là một
thực thể sinh học – xã hội trong mối quan hệ con người – tự nhiên – xã
hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đi đến khẳng định, rằng giới tự nhiên là thân thể
của con người, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và xã hội chẳng
qua chỉ là sự tác động qua lại giữa người với người, con người vừa là chủ
thể vừa là sản phẩm của lịch sử của chính mình.


C.Mác và Ph.Ăngghen đã lấy tư tưởng vì con người để hướng cả nhân
loại tới chủ nghĩa cộng sản – nơi mà theo các ông là sự giải quyết hiện


thực mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con
người; nơi có những con người mới có khả năng sử dụng một cách tồn diện
năng lực phát triển tồn diện của mình. Như vậy, có thể nói cái cốt lõi trong
học thuyết của Mác là tư tưởng vì con người, giải phóng con người, giải
phóng nhân loại.


Với C.Mác và Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh giải phóng con người là
cuộc đấu tranh với mục đích xố bỏ hiện tượng người bóc lột người, mọi
người đều được bình đẳng, có quyền hưởng tự do và hạnh phúc. Theo các
ơng, giải phóng con người cịn là sự xoá bỏ sự tha hoá của con người. Sự tha
<i>hố này được hai ơng bàn tới nhiều trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết </i>


<i>học 1844. Trong đó, theo C.Mác, tha hố trước hết là một quan hệ xã hội, là </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

ở đây khơng chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm
sự giải phóng tồn thể lồi người” 45,143. Tha hố trong kinh tế là cơ sở
của những hình thức tha hố khác trong lĩnh vực tinh thần. Do vậy, cùng với
việc giải phóng con người khỏi sự tha hoá trong kinh tế các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác cũng nói tới hình thức tha hoá trong lĩnh vực tinh thần.
C.Mác coi việc quy con người, một mặt, thành thành viên của xã hội công
dân, thành cá nhân vị kỷ, độc lập, và mặt khác, thành công dân của nhà
nước, thành pháp nhân là sự “giải phóng chính trị” . Theo đó, giải phóng
chính trị là giải phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về
vị trí của con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con
người. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, giải phóng con người về
chính trị là sự tự giải phóng bản chất lồi của con người khỏi giới hạn chật
hẹp về vị thế của con người trong xã hội. Theo C.Mác, chỉ khi nào con
người nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân”
thành những lực lượng xã hội, không tách lực lượng xã hội dưới dạng lực
lượng chính trị ra khỏi bản thân mình, chỉ khi ấy giải phóng con người mới


được hoàn thiện.


Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề giải phóng con người
là mục tiêu lớn, đồng thời chỉ ra những khía cạnh khác nhau để có được sự
giải phóng tồn diện. Đây là một trong những đóng góp nhân bản nhất của
C.Mác và Ph. Ăngghen. Về sau, khi bàn về vấn đề giải phóng giai cấp, dân
tộc, con người, nhiều học giả đánh giá cao học thuyết về đấu tranh giai cấp
của hai ơng. Cịn bản thân C. Mác, trong thư gửi Vâyđơmaye, ông viết: “Cái
<i>mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ </i>


<i>gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, 2) đấu </i>
<i>tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản, 3) bản thân nền chun </i>


<i>chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội </i>


<i>kh«ng cã giai cÊp” 44,662. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

quan điểm duy vật lịch sử, coi bản chất con người trong tính hiện thực của
nó là tổng hồ các mối quan hệ xã hội, các ơng cho rằng, bản chất đó thể
hiện ra, tồn tại và phát triển trong hoạt động sản xuất, hoạt động chinh phục
tự nhiên và cải tạo xã hội của con người. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, xã hội
tương lai mà nhân loại hướng tới không chỉ tạo ra một cơ sở mới, một nền
tảng vững chắc cho việc phát triển các cá nhân con người, mà còn xây dựng
nên những mối quan hệ tốt đẹp giữa họ với nhau. Lực lượng xã hội có sứ
mệnh thực hiện thành cơng sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng tồn
thể nhân loại là giai cấp vơ sản.


Với lý luận khoa học về hình thái kinh tế - xã hội, giai cấp, đấu tranh
giai cấp và cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác đã cung cấp quan điểm,
phương pháp khoa học để nhận thức vấn đề dân tộc, giai cấp và con người.


Tuy nhiên, vấn đề dân tộc trong học thuyết Mác chủ yếu là vấn đề hình thức
dân tộc của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Trong quan hệ giai
cấp – dân tộc, C.Mác tập trung làm sáng tỏ vai trò quyết định, xét tới cùng
của nhân tố giai cấp đối với nhân tố dân tộc, của việc xoá bỏ nạn người bóc
lột người (giải phóng giai cấp) đối với việc xoá bỏ nạn áp bức dân tộc (giải
phóng dân tộc). Nói cách khác, trong điều kiện lịch sử cụ thể, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề đấu tranh giai cấp lên trước, coi giải phóng giai
cấp là cái quan trọng hơn giải phóng dân tộc và là tiền đề giải phóng nhân
loại và giải phóng con người, bởi áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản,
sâu xa của áp bức dân tộc và mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc lúc này là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản thống trị với giai cấp công nhân bị trị.


V.I.Lênin là người bảo vệ thành công, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Ơng cũng nói đến những vấn đề
giải phóng: dân tộc, giai cấp, con người nhưng dựa trên những tiền đề có
tính lịch sử, thời đại, V.I.Lênin đã đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá mới về
những vấn đề này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

với mục đích phân chia lại thế giới. Nói như V.I.Lênin “Bất cứ nước nào có
một nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển đều tiến rất nhanh đến chỗ
phải đi tìm thuộc địa, tức là tìm những nước mà ở đó người ta có thể tiêu
thụ các sản phẩm cơng nghiệp và thu được những món lãi rất hời” 33,478.
Chính vì thế khơng một nước chậm phát triển nào không bị biến thành
thuộc địa, nửa thuộc địa. Vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc để xây dựng
quốc gia độc lập của các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng trở thành một
trong những vấn đề cấp bách của thời đại.


Vấn đề dân tộc được V.I.Lênin nói tới trên khía cạnh: dân tộc là quốc
gia dân tộc. V.I.Lênin nhận định, rằng trong khi “toàn thế giới phân chia
thành một số lớn những dân tộc bị áp bức và một số ít những dân tộc đi áp


bức, nắm trong tay tài sản khổng lồ và lực lượng quân sự hùng mạnh”
38,290 thì phải coi việc đảm bảo quyền dân tộc tự quyết và thành lập các
quốc gia độc lập là yêu cầu chính trị trung tâm trong vấn đề dân tộc –
thuộc địa. V.I.Lênin viết: “Các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại” 35,375.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

V.I.Lênin đã đánh giá đúng vai trò của cách mạng dân tộc trong thời
đại mới. Trong học thuyết về dân tộc và thuộc địa của mình, lần đầu tiên
V.I.Lênin nêu bật vai trò to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc đối với
sự nghiệp giải phóng nhân loại khỏi chủ nghĩa tư bản. Ông xem phong trào
cách mạng này là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới.
V.I.Lênin tiên đoán, rằng: “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải
chỉ là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cách mạng ở từng nước chống
lại giai cấp tư sản ở nước mình; khơng phải thế, đó sẽ là cuộc đấu tranh của
tất cả các thuộc địa và những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả
các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế.” [39,307].
V.I.Lênin đưa ra khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại.


Lúc này, chủ nghĩa đế quốc, một mặt tạo ra mâu thuẫn dân tộc sâu
sắc, mặt khác, cũng tạo tiền đề để các dân tộc xích lại gần nhau trong khi tại
những nước chưa có độc lập thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất
mới muốn trở thành giai cấp dân tộc, phải đi đầu trong cách mạng giải phóng
dân tộc. Chính trong khi phân tích vấn đề dân tộc, V.I. Lênin cũng đồng thời
nói đến vấn đề giải phóng giai cấp. V.I.Lênin nhấn mạnh, rằng các dân tộc phụ
thuộc và thuộc địa phải biết kết hợp vấn đề dân tộc và giai cấp, phải phân biệt
các trường hợp: nếu giai cấp tư sản trong dân tộc bị áp bức cũng tham gia đấu
tranh chống dân tộc áp bức thì giai cấp vơ sản phải ủng hộ họ, chỉ khi giai cấp tư
<i>sản ấy địi đặc quyền, đặc lợi thì mới cần phải kiên quyết phản đối. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

tế xã hội nhất định” 37,17-18. Cho nên, đấu tranh giai cấp là: “cuộc đấu
tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn
đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu
sản hay giai cấp tư sản” 34,237. Cuộc đấu tranh giai cấp theo nghĩa này
mở rộng ra chính là đấu tranh dân tộc, đấu tranh vì bình đẳng thật sự giữa
người với người, bởi hiện tại các nước chính quốc, bọn tư sản chính là
những người nắm trong tay đặc quyền, đặc lợi trong khi giai cấp vô sản,
nhân dân lao động ở các nước thuộc địa lại khơng có gì cả.


Trên cơ sở phân tích điều kiện thực tế, V.I.Lênin đã dự báo về khả
năng cách mạng có thể thành cơng trước ở một số nước. Ơng cũng chỉ ra sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong vai trò lãnh đạo quần chúng làm
cách mạng. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác, tiến hành cách mạng vô sản thành cơng, đi từ giải
phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.


Có thể nói, đến V.I.Lênin vấn đề giải phóng dân tộc được bàn tới kỹ
hơn. Trong quan niệm của V.I.Lênin, vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp có quan
hệ chặt chẽ với nhau, bởi cuộc cách mạng dân tộc nào cũng cần có một giai
cấp dân tộc lãnh đạo. Mặt khác, dân tộc trong quan niệm của V.I.Lênin hồn
tồn khơng phải chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, ông đã giải quyết vấn đề dân tộc
trên cơ sở gắn nó với giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, từ đó mở rộng phạm vi
dân tộc nhỏ bé ở châu Âu thành vấn đề giải phóng, độc lập cho các dân tộc
trên thế giới. Bởi vậy, những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trở nên có ý nghĩa đối với
tất cả các dân tộc bị áp bức. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu vì sao mùa hè
năm 1920, sau khi đọc Luận cương của V.I.Lênin trên báo “Nhân đạo”, Bác
Hồ của chúng ta đã vui mừng đến phát khóc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

nhất, việc ký kết hoà ước Vecxây của “các nước dân chủ phương Tây” làm
cho “tất cả các dân tộc và các giai cấp bị áp bức trên toàn thế giới thấy được
một cách hết sức sáng tỏ bản chất giả nhân, giả nghĩa trong những lời nói của
bọn dân chủ tư sản” [38,199]. Đây chính là điều ẩn đằng sau những từ dân
chủ, bình đẳng, bác ái mà Nguyễn ái Quốc muốn đến tận nước Pháp để tìm
hiểu; ở điểm (4) của Luận cương giúp Nguyễn ái Quốc hiểu rõ ý nghĩa của
sự đồn kết giữa “những người vơ sản và quần chúng cần lao của tất cả các
dân tộc” [38,199]; điểm (5) của Luận cương đã chỉ ra con đường cứu nước
đúng đắn mà Người mong đợi: “Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt
vấn đề chun chính vơ sản thành vấn đề trước mắt...Tất cả các phong trào
giải phóng dân tộc trong các thuộc địa và trong các dân tộc bị áp bức mà
kinh nghiệm đau đớn đã làm cho họ tin chắc rằng: Khơng có con đường cứu
vãn nào ngồi con đường chính quyền Xơ viết chiến thắng chủ nghĩa đế
quốc thế giới” [38,200]...Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
V.I.Lênin đã góp phần tạo nên sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, hướng Người đi vào con đường của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Để
sau đó diễn ra bước ngoặt cách mạng trong cuộc đời Hồ Chí Minh khi Người
quyết định tham gia Đại hội Tua, bỏ phiếu cho Quốc tế III, trở thành một
trong những người cộng sản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

không thể có được. V.I.Lênin đã tìm ra phương pháp có hiệu quả để tiến
hành có kết quả công tác trong các nước thuộc địa và nhấn mạnh cần phải sử
<b>dụng phong trào cách mạng dân tộc ở những nước này” 47,136. </b>


Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể Việt Nam. Người nói: từng bước một, vừa nghiên cứu lý luận
Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tơi hiểu được rằng chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Theo Hồ Chí
Minh, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác


ngồi cách mạng vô sản. Dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp về căn bản đã hình thành. Trong quan điểm về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh có thể nhận ra những
luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: luận điểm về sức mạnh đoàn kết vơ
sản trong và ngồi nước, luận điểm về một con đường duy nhất để đi đến giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là cách mạng vơ
sản...


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36></div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Chương 2


<b>Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp </b>
<b>và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh và </b>


<b>ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới đất nước </b>


<b>2.1. Quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải </b>
<b>phóng con người </b>


<i>2.1.1 Đặt vấn đề dân tộc giải phóng trên lập trường của giai cấp công nhân </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

dân tộc ở vị trí của giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển hoặc các
nước chính quốc. Theo đó, vấn đề dân tộc nảy sinh như một hệ quả của vấn đề
giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở
chính quốc và chỉ có thể thành cơng khi cách mạng vơ sản ở chính quốc thành
cơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

quyết định vào việc kết hợp với chủ nghĩa xã hội Người đã đặt cách mạng
giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới làm cho chủ nghĩa
yêu nước truyền thống phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, kết hợp


trong đó cả chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Nói cách khác, ở Hồ Chí
Minh khơng có chỗ cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi xa rời quan điểm giai cấp
mà trái lại gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc Việt Nam với giải phóng giai cấp vơ sản thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

quyền. Còn thế giới cách mệnh thì vơ sản giai cấp đứng đầu đi trước”
47,266 nhưng: “trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,
khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường
thoả hiệp” 48,3.


Có thể nói lần đầu tiên, thơng qua tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giải
phóng dân tộc ở Việt Nam được xem xét dưới góc độ giai cấp tiến tiến đứng
ở vị trí trung tâm: giai cấp công nhân. Đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giai cấp mà khơng có Đảng lãnh
đạo thì khơng làm cách mạng được, Đảng mà khơng có giai cấp cơng nhân
cũng khơng làm được gì” [53,295]. Nghĩa là, cách mạng chỉ có thể thành
cơng nếu có Đảng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” Người viết: “....Cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho
dân hiểu....Cách mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược
cho dân....Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có
đảng cách mệnh” [47,267]. Cũng giống như các vĩ nhân và các nhà cách
mạng tiền bối, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Nhưng theo Người, quần chúng nhân dân phải được giác ngộ,
được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn như nhiều
chiếc đũa bó thành một bó, chứ khơng phải mỗi chiếc một nơi. Đảng phải
làm nhiệm vụ trọng đại đó. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết phải có
đảng cách mệnh để trong thì vận động, ngồi thì liên hệ với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Hồ Chí Minh chỉ ra: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời
đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể” 54,282.
Để kêu gọi đoàn kết quốc dân đồng bào, Hồ Chí Minh đã phân tích tình
hình và chỉ ra, rằng trong lúc cần đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh
là một điều ngu ngốc và Người khẳng định: “ Trong lúc này quyền lợi dân
tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế
quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sơi lửa nóng. Hỡi
đồng bào u q !Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều
phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm” 48,198.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

hiện đại đồn kết. Thậm chí đối với những người trước đây chống chúng ta,
nhưng nay khơng cịn chống nữa thì khối đại đồn kết vẫn dang tay đón họ.


Với tư tưởng đại đồn kết toàn dân tộc, người đã chủ trương đại đoàn
kết rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nam nữ, lứa tuổi,...nhưng không phải là một tập
hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên tự phát, mà là một khối đồn kết chặt chẽ, có tổ
chức trong mặt trận thống nhất rộng rãi, nhưng phải lấy liên minh cơng,
nơng, trí thức làm nền tảng và do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong cuộc vận động yêu nước chống Pháp, Phan Bội Châu cũng nói đến
đồn kết, nêu khẩu hiệu “toàn dân đoàn kết”, chủ trường tập hợp rộng rãi từ
phú hào đến quan tước, sĩ tịch, bếp bồi, thông ký, lính tập..., nhưng riêng
cơng nhân và nơng dân chiếm số đơng thì khơng thấy nói đến. Nhưng quan
trọng hơn, dù chủ trương đoàn kết rộng rãi thế nào mà không hình thành
được một tổ chức tập hợp quần chúng lại thì cũng vẫn chỉ là kêu goi suông,
không tạo ra được sức mạnh trong thực tế. Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại
đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác” 52,438.



</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

lượng rất to lớn vững chắc; với trí thức, tính từ học trị đến cơng chức, thầy
thuốc, họ có trình độ văn hố tương đối cao , song vì khơng có tổ chức,
thiếu người lãng đạo, cho nên họ dám nghĩ mà không dám nói. Sau khi
phân tích tình hình, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời đại ngày nay, giai
cấp cơng nhân là độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng trên cơ sở liên minh với các giai cấp, tầng lớp
khác trong xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

phát hiện ra yếu tố tương đồng đó đã trở thành kim chỉ nam cho việc phát
hiện những yếu tố khách quan, quốc tế và trong nước quy định tiến trình
của cách mạng Việt Nam và đảm bảo cho sự thành công của cách mạng
Việt Nam. Trong những yếu tố đó, yếu tố hàng đầu là lực lượng cách mạng
bao gồm “khối đại đoàn kết toàn dân” được tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của
bộ phận ưu tú nhất là Đảng Cộng sản. ở đây, Hồ Chí Minh đã vận dụng
triệt để lý luận của chủ nghĩa Mác về những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan cho sự ra đời của một cuộc cách mạng. Người khơng chỉ nhận
thấy vai trị quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn làm sáng
tỏ hơn nữa sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân thơng qua vai trị lãnh đạo
của đảng Cộng sản. Một cuộc cách mạng được xác định đủ về lực lượng tiến
hành cách mạng, mục tiêu cách mạng cũng như phương pháp tiến hành cách
mạng là một cuộc cách mạng tuân theo quy luật, tất yếu sẽ thành công. Để đến
được thắng lợi cuối cùng Việt Nam không làm cách mạng giải phóng dân tộc
rồi để đấy mà phải tiến đến thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa hay từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.


<i>2.1.2 Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

trên phương diện đạo đức mà đúng cả trên phương diện lịch sử. Trong điều
kiện bình thường, lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi


những mục đích của mình, nhưng ở những bước ngoặt, những điểm nút của
lịch sử, đối với đại đa số nhân dân thì cái riêng trùng hợp với cái chung, cái
chung không được giải quyết thì cái riêng cũng khơng thể tồn tại và phát
triển được. Giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước nhảy vọt
lớn trong lịch sử Vịêt Nam. Quyền lợi tối cao của tổ quốc, lợi ích sống còn
của nhân dân phải được đặt lên trên hết, phải được đảm bảo trước hết. Đó
cũng là lý do chiến đấu của người cách mạng, người cộng sản. Nhận thức
sâu sắc, đúng đắn điều đó sẽ là cơ sở để giải quyết lợi ích chung và lợi ích
riêng. Đặt lợi ích của từng cá nhân vào trong lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân
tộc Việt Nam vào trong lợi ích của thế giới, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng sự
nghiệp giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vơ sản và q
trình cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định chúng ta “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” 48,1 và “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”
57,305. Nhưng khi ở giai đoạn giải phóng dân tộc về mặt chính trị, quyền
lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp là nhất trí, cịn sang giai đoạn giải phóng
dân tộc về mặt kinh tế thì quyền lợi chính trị là thống nhất, nhưng quyền lợi
kinh tế của các giai cấp lại không đồng nhất, thậm chí có khi mâu thuẫn.
Tuy nhiên, khơng được vì thế mà xa rời lý tưởng độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, cũng không được tách rời giải phóng dân tộc khỏi giải
phóng giai cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

người ta cắt bánh” 11,26. Như vậy, hai giai đoạn cách mạng theo quan điểm
của Hồ Chí Minh khơng có sự ngăn cách mà nằm trong tiến trình cách mạng
khơng ngừng, giai đoạn sau hoàn thành những nhiệm vụ chưa làm xong của giai
đoạn trước, giai đoạn trước khi có điều kiện có thể làm một số nhiệm vụ của
giai đoạn sau. Người cũng chỉ rõ mỗi giai đoạn cách mạng đều có những nhiệm
vụ cấp bách riêng và phải ưu tiên giải quyết những nhiệm vụ cấp bách trước.



Theo tiến trình lịch sử, căn cứ theo nhiệm vụ cấp bách để phân chia thì
cách mạng nước ta được chia làm hai giai đoạn lớn: một là, giai đoạn tiến hành
cách mạng dân tộc dân chủ với nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc xâm lược và phong
kiến tay sai; hai là, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được đặt tiền đề bởi
việc phát triển chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng và kiến thiết đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Hồ Chí Minh cho rằng, muốn giải phóng người lao động thì phải có
đấu tranh giai cấp, muốn xố bỏ chế độ người bóc lột người thì tất yếu phải
xố bỏ giai cấp bóc lột với tính chất là giai cấp thống trị nhưng ở ta “cuộc
đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, “sự xung đột về
quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”
46,464. Mặt khác, việc xoá bỏ giai cấp thống trị khơng có nghĩa là xố
bỏ, tiêu diệt những cá nhân, những con người thuộc giai cấp bóc lột. Người
phê phán sự vận dụng cứng nhắc quan điểm đấu tranh giai cấp: “nghe người
ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà
khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” 40,272.
Người phân tích những mâu thuẫn hiện có và chỉ ra, rằng mâu thuẫn căn
bản, chủ yếu cần giải quyết đối với một dân tộc mất nước lúc này là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc tay sai.


Theo Hồ Chí Minh, trong lúc này “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn
của đất nước” 46,466 bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử,
vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thực dân nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu, nhưng chưa triệt để
và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc
vẫn là động lực vĩ đại và duy nhất. Do đó, để hồn thành sự nghiệp giải


phóng con người chúng ta phải bắt đầu từ vấn đề giải phóng dân tộc chứ
khơng phải bắt đầu từ giải phóng giai cấp. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh
đã nhận thức đúng và giải quyết sáng tạo mối quan hệ dân tộc, giai cấp.
Đây là tiền đề đầu tiên đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định khơng chịu làm
nơ lệ” nhân dân ta đã đồn kết để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.


Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã giải quyết tốt vấn đề quan hệ giữa giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc
và giải phóng nơng dân khỏi ách phong kiến trong điều kiện đại bộ phận
lực lượng kháng chiến là nông dân và 80% dân số là nông dân nghèo. Mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp tìm được hướng giải quyết khi trong
kháng chiến chủ trương chung là: từ giảm tô, giảm tức, chỉ tịch thu ruộng
đất của việt gian phản quốc đến tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện
người cày có ruộng thực sự kết hợp lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc để
huy động, bồi dưỡng mọi lực lượng cho cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời
hạnh phúc” 55,17. Nội dung đó đã bao hàm mối liên hệ thống nhất giữa
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người như là mục
tiêu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

nhận định của đồng chí Lê Khả Phiêu: “ Nhìn lại sự hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh qua cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy cả một hệ
thống quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Đó là đi từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên
chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là một cuộc cách mạng thuộc địa
từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng con người tiến lên


chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam” 62,23.


<i>2.1.3 Độc lập cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị áp bức </i>


H Chớ Minh nhận thức sâu sắc được rằng giải phóng dân tộc, giành
độc lập cho dân tộc là điều kiện tiên quyết để giải phóng người lao động
Việt Nam bị áp bức. Sẽ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng, trong một dân tộc đang
chịu kiếp nô lệ mà người dân lao động được giải phóng, được hưởng tự do.
Chỉ khi nào giành được độc lập cho dân tộc, đưa người dân từ thân phận nơ
lệ lên vị trí làm chủ thì mới có những tiền đề cơ bản để xác lập sự giải
phóng con người. Nghĩa là, sự giải phóng con người phải bắt đầu từ chỗ trả
cho người lao động quyền tự do, quyền sống và quyền phấn đấu vì một
cuộc sống tốt đẹp hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Khi ra đi tìm đường tìm đường cứu nước, cứu dân vấn đề giải phóng
dân tộc và giải phóng con người trong nhận thức Hồ Chí Minh mới còn ở
phạm vi đất nước mình. Hồ Chí Minh khẳng định “Tơi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành” 49,161. Theo Người, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc,
bảo vệ quyền bình đẳng của con người, của nhân dân ta là cuộc đấu tranh
“hợp lẽ tự nhiên” cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn
lịch sử. Nó hướng theo và tuân thủ những giá trị nhân văn mà loài người đã
nhận thức được qua nhiều thế kỷ tồn tại – phát triển và đã được ghi trong
những văn bản pháp lý thế giới. Mọi người sinh ra và sống tự do và bình
đẳng về các quyền: quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Điều đó có nghĩa là tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp
đều có một số nét chung, một số nhu cầu chung xuất phát từ bản tính con
người. Hồ Chí Minh đã chỉ ra cái bản tính chung cơ bản nhất của con người
bằng cách dẫn ra những luận đề bất hủ của bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ


và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp, đó là quyền bình
đẳng của mọi dân tộc, mọi con người. Người phát triển ý tưởng trên cụ thể, rõ
ràng hơn: “Suy rộng ra...tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [49,1].


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

giải phóng con người đã thúc đẩy Hồ Chí Minh đến khẳng định, rằng: “Vậy
là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật
mà thơi: tình hữu ái vơ sản” 46,266. Người tin tưởng, rằng mặc dầu các dân
tộc bị áp bức là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo nhưng
tất cả đều đấu tranh vì một lý tưởng chân chính: giải phóng và giành độc lập
cho tổ quốc mình. Bởi vậy, trong cuộc chiến đầy cam go để giải phóng dân
tộc chúng ta khơng đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc khác ủng hộ.
Người khẳng định: “ Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách
mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả” 47,301.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

cuộc giải phóng hồn tồn con người trên thế giới. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cơng cuộc giải phóng các nước và của các dân tộc bị áp bức là một
bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả
năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc
thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”
53,567. Người đã ví: “chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám
vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản
ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia sẽ tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra” [46,298]. Cũng như vậy, cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính
quốc và thuộc địa giống như hai cánh của một con chim, một cánh vỗ ở
thuộc địa, một cánh vỗ ở chính quốc.



Có thể thấy, vì mục tiêu giải phóng con người bị áp bức, Hồ Chí
Minh quán triệt nguyên tắc dân tộc tự quyết của V.I.Lênin đồng thời kêu
gọi liên minh giữa các dân tộc bị áp bức và liên minh giữa những người lao
động trên khắp thế giới. Người đặt tất cả mọi người trong một cuộc cách
<i>mạng lớn, thế giới cách mệnh. Ngay trong tác phẩm Đường cách mệnh, </i>
Nguyễn ái Quốc đã sớm nhận ra có hai loại cách mệnh, Người chia cách
mệnh làm:


“a. Như An Nam đuổi Pháp, ấn Độ đuổi Anh, Cao Ly đuổi Nhật,
Philíppin đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để giành lấy quyền tự
do, bình đẳng, của dân nước mình ấy là dân tộc cách mệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Dân tộc cách mệnh đem lại tự do cho từng dân tộc, thế giới cách
mệnh đưa nhân loại tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định: “Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết ấm no
trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hồ bình, hạnh phúc” 46,
461. Chính ở đây, một lần nữa Hồ Chí Minh đặt giải phóng dân tộc trong
sự gắn bó thống nhất với giải phóng con người, gắn với chủ nghĩa xã hội.


Như vậy, với lý tưởng cách mạng của mình, Người đã đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở đó con đường chân chính. Nghiên cứu lý
luận, khảo sát thực tế trong và ngoài nước, tận mắt chứng kiến nhiều thành
công và thất bại của các phong trào cách mạng Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam khẳng định
mục tiêu của cách mạng Việt Nam chỉ có một, đó là độc lập dân tộc, tiến
tới giải phóng con người một cách toàn diện theo đúng nghĩa. Câu nói
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do” của Người đã trở thành chân lý bất hủ
của thời đại. Người đặt hẳn vấn đề giải phóng dân tộc không những ở Việt


Nam mà trên phạm vi toàn thế giới. Người đã làm công việc liên hiệp các dân
tộc bị áp bức, rồi đi vào tổ chức chứ không phải chỉ trong ý thức, tư tưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

bức, coi tất cả là bầu bạn của cách mạng Việt Nam. Từ mong muốn giải
phóng cho các dân tộc bị áp bức Người đến với chân lý giải phóng và phát
triển tồn diện con người như một tất yếu. Nói cách khác, đối với Hồ Chí
Minh, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
khơng chỉ là vấn đề của dân tộc mình mà còn là vấn đề phải được giải quyết
trên phạm vi toàn cầu; phải kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc và giải
phóng con người, giữa giải phóng dân tộc và phát triển con người.


<i>2.1.4 Giải phóng dân tộc gắn với mục tiêu phát triển tồn diện con người </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yếu tố con người trong
giải phóng dân tộc đến yếu tố con người trong giải phóng con người theo
đúng nghĩa đã có sự phát triển và thay đổi về chất. Trong suốt chiều dài ấy,
không lúc nào Hồ Chí Minh tách độc lập dân tộc với mục tiêu phát triển
toàn diện con người. Người cũng khơng chủ trương giải phóng dân tộc rồi
mới phát triển nhân tố con người mà hai công cuộc ấy tiến hành cùng lúc.
Với Hồ Chí Minh, xây dựng con người là xây dựng lực lượng cho cách
mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc thành công sẽ giải
quyết những nhu cầu căn bản cho con người và là tiền đề đưa họ đến với cơ
hội phát triển toàn diện ở xã hội cộng sản chủ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh rất thành cơng trong việc huy
động cả sức mạnh lý tưởng lẫn động lực lợi ích của tồn dân tộc cũng như
mỗi cá nhân. Nhân dân ta chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do – vì những
giá trị làm người, đồng thời cũng cịn vì ruộng đất, cơm áo – vì những nhu
cầu vật chất của đời sống hàng ngày. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt
Nam để đi đến thắng lợi cuối cùng không thể không khơi dậy sức mạnh từ


nhân dân. Muốn khơi dậy sức mạnh đó, phải tác động cả vào mặt vật chất
và tinh thần. Cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải chiến thắng giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Muốn chiến thắng giặc ngoại xâm phải làm cho
dân có ăn và phải được giác ngộ cách mạng, cho nên cùng với việc chăm lo
đời sống vật chất cho dân còn phải thức tỉnh họ, bồi dưỡng họ, đưa họ vào
vịng quay của cách mạng chân chính. Theo Hồ Chí Minh: “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”[49,8] mà vừa đói, vừa dốt thì làm sao tiến hành được
cách mạng, làm thế nào để tự giải phóng? Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu
dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi;
Nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ
có lỗi” [52,572]. Nghĩa là, Đảng và Chính phủ phải chăm lo mọi mặt cho
nhân dân. Khơng để dân đói, rét, ốm, dốt...Có thể coi đây là điểm khởi phát
đầu tiên của tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh.


Trong giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam, khi “quyền lợi giải
phóng dân tộc cao hơn hết thảy” [48,198], Hồ Chí Minh vẫn không quên
nhắc nhở phải chăm lo, bồi dưỡng nhân dân bằng những chính sách hợp lý
để vừa huy động được nhân lực, vật lực từ dân và góp phần đưa họ hướng
đến với cuộc sống mới, tốt đẹp hơn. Sau khi giành chính quyền, Hồ Chí
Minh khẳng định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam vẫn là
những vấn đề liên quan trực tiếp đến phát triển con người. Người chỉ thị:


“Chóng ta ph¶i thùc hiƯn ngay:
1. Làm cho dân có ăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

4. Làm cho dân được học hành. [49,152]


Khi min Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh một lần nữa nhấn mạnh sự cần thiết phải “nâng
cao dần mức sống của nhân dân trước hết là của công nhân, bộ đội và công


chức, đồng thời giảm nhẹ dần sự đóng góp của nơng dân” [53,48]. Trong
điều kiện cả nước hướng về miền Nam, tập trung cho miền Nam để thống
nhất đất nước, Hồ Chí Minh vẫn hết sức quan tâm đến việc ăn, ở, mặc, đi lại
của nhân dân. Người đặt vấn đề “ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm
bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn mặc của dân được tốt hơn
nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá” [53,271]...


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

[49,212]. Con người được phát triển toàn diện về thể lực và trí lực sẽ là lực
lượng căn bản đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.


Gắn giải phóng dân tộc với phát triển toàn diện con người hay với
mục tiêu là giải phóng con người theo đúng nghĩa, Hồ Chí Minh ln phê
phán mọi thứ độc lập, tự do giả hiệu, Người khẳng định: “Nếu nước độc lập
mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” 49,56. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Chúng ta tranh được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng khơng làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ” 49,152. Với lý tưởng của mình, Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ nghĩa xã
hội những khả năng thực hiện mục tiêu giải phóng con người theo đúng
nghĩa ấy. Chủ nghĩa xã hội là gì? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội
trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” 55,17;
“là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân phải
được ta đặc biệt chú ý” [49,48]. Nhưng muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
có những con người xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, đó là những người
vừa có sức khoẻ, vừa có tài đức, hồng thì phải đến nơi, chuyên thì phải đến
chốn; chẳng những thạo về chính trị, mà cịn phải giỏi về chuyên môn; hiểu
biết lý luận, chính sách, tình hình trong nước và thế giới; có đạo đức cần
kiệm, liêm , chính, chí cơng, vơ tư, một lịng một dạ phục vụ nhân dân, phục
vụ tổ quốc...



</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

là con người nhân bản (C.Mác gọi là con người thuần tuý) mà con người
lịch sử gắn với cộng đồng trực tiếp là dân tộc mình, giai cấp mình và sự giải
phóng cho con người phụ thuộc vào sự giải phóng dân tộc và giai cấp. Chủ
thể của sự giải phóng là bản thân con người, với tư cách là cộng đồng người
giác ngộ lý tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, đoàn kết chặt chẽ và
nghiêm túc tuân thủ kỷ luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghĩa là, Hồ Chí
Minh đã đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
trong một thể thống nhất, không chỉ thống nhất về mặt hình thức mà còn
thống nhất ở mặt nội dung: đối tượng đấu tranh, giai cấp lãnh đạo, động lực,
lực lượng, phương hướng, phương pháp, bước đi cho đến mục tiêu và mục
đích cách mạng. Bởi vậy, trong giải phóng dân tộc đã có giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Sự nghiệp giải phóng dân tộc càng tiến hành triệt
để bao nhiêu thì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người càng
được thuận lợi bấy nhiêu. Công cuộc ấy xét cho cùng là giải phóng con
người, đem lại cho con người nói chung cơ hội phát triển toàn diện.


Với Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng con người được thực hiện một
phần trong cách mạng giải phóng dân tộc và chỉ thực hiện được hoàn toàn
với sự thắng lợi của cơng cuộc giải phóng giai cấp vơ sản. Điều này thể hiện
mối quan hệ gắn bó giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

chính trị và kinh tế, thì độc lập của các dân tộc sẽ bền vững hơn bao giờ hết.
Chính ý tưởng giải quyết triệt để và kết hợp chặt chẽ giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người đã đưa Hồ Chí Minh vượt qua
tầm nhìn của những nhà ái quốc tiền bối và cả những người đương thời. Khi
đã tiếp thu được chủ nghĩa Mác – Lênin trên lập trường của giai cấp vô
sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện ý tưởng ấy một cách sáng tạo ở Việt Nam.



Sự vận động của thế giới trong thế kỷ XX đã chứng minh tính đúng
đắn của luận điểm về ba giải phóng của Hồ Chí Minh. Vấn đề giải phóng
dân tộc được thực hiện bằng thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc;
hầu hết các dân tộc thuộc địa đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân cũ; đến năm
1960, Liên hợp quốc đã ra Nghị quyết về xố bỏ chủ nghĩa thực dân. Cịn
vấn đề giải phóng giai cấp và giải phóng con người đã được đặt ra và từng
bước được thực hiện ở Liên Xô từ năm 1917 và ở một loạt các nước xã hội
chủ nghĩa từ những năm 1945 -1950. Nhưng sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 1980 và đầu những năm
1990 đã làm hai cuộc giải phóng này thụt lùi một bước. Chỉ có ở một số
nước, trong đó có Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng bằng cải cách, đổi
mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa để tiếp tục hai cuộc giải phóng
giai cấp và con người. Hai cơng cuộc giải phóng này chỉ có thể được thực
hiện bằng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người vào sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.


<b>2.2. ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải </b>
<b>phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong sự </b>
<b>nghiệp đổi mới đất nước hiện nay </b>


Nghiên cứu, khẳng định ý nghĩa của tư tưởng về mối quan hệ giữa
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người của Hồ Chí
Minh trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải xuất phát từ thực tiễn của tình
hình thế giới và trong nước để xem xét những nguy cơ, thách thức, xu
hướng phát triển của dân tộc trong thời đại mới và nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


<i>2.2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

“Trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh
tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn yếu
tố bất trắc khó lường. Tồn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng những yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn
cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển....Khoa học và công nghệ
sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại
vẫn rất gay gắt...”[12,73-74].


Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ nêu ra một số đặc điểm
tiêu biểu có tác động mạnh tới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong
thời gian tới.


<i>Một là, sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu </i>


kết thúc trật tự thế giới cũ nhường chỗ cho trật tự mới đang xuất hiện nhưng
vẫn chưa định hình. Sự thay đổi trật tự thế giới lần này khác với những lần
trước là không thông qua chiến tranh thế giới mà là sau sự sụp đổ, tan rã của
một siêu cường Liên Xơ, chỉ cịn lại Mỹ là siêu cường duy nhất, đã tạo ra lợi
thế cho Mỹ và các nước tư bản phương Tây. Chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm
vào thoái trào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i>Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghƯ tiÕp tơc ph¸t triĨn víi </i>


tốc độ nhanh, với trình độ ngày càng cao trong thế kỷ XXI. Tác động của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại dẫn đến sự cấu trúc lại nền


kinh tế thế giới, trong đó cơ cấu sản xuất của các nước công nghiệp phát
triển được chuyển dịch sang các ngành có hàm lượng lao động trí tuệ cao.
Cuộc cách mạng đó đã thúc đẩy nhanh chóng q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong mỗi nước cũng như trên thế giới, quốc tế hố nền xản xuất và
sự phân cơng lao động xã hội, phá vỡ nhiều quan niệm cũ, phương pháp tư
duy cũ, thể chế cũ và quan hệ cũ trên tất cả các bình diện: kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội...ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.


Có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại mang đặc trưng chủ yếu là khoa học đã trở thành lực
lượng sản suất trực tiếp. Nó là thành quả sáng tạo của bộ óc con người và nó
được vật chất hố. Con người là trung tâm, chủ thể là lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại. Tri thức khoa học được kết tinh trong các
yếu tố của lực lượng sản xuất, thâm nhập vào sản xuất, phục vụ cho sản
xuất. Vì vậy, khoa học đã bộc lộ khá nhanh chóng tiềm năng của mình là
một lực lượng cách mạng hố, biến đổi căn bản diện mạo và tính chất của
sản xuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Việt Nam) và chậm phát triển cần phải có những hướng đi như thế nào cho
phù hợp, để tránh tụt hậu so với các nước phát triển trên thế giới.


<i>Ba là, xu hướng tồn cầu hố kinh tế hiện nay đang tạo ra những điều </i>


kiện thuận lợi để các nền kinh tế kém phát triển từng bước hội nhập vào nền
kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, tồn cầu hố cũng đi liền với sự phân công
lao động quốc tế sâu hơn. Sự phân công lao động quốc tế vơ hình trung hình
thành trật tự kinh tế quốc tế với ba cấp không đồng đều nhau: 1) Nền kinh
tế phát triển ở trình độ cao; 2) Nền kinh tế của các nước công nghiệp mới;
3) Nền kinh tế các nước đang phát triển và chậm phát triển với nền công
nghiệp cịn lạc hậu (trong đó có Việt Nam). Tình hình đó vừa gây bất lợi


đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển vừa làm nảy sinh nguy
cơ về sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị một cách khiên cưỡng, đe doạ
làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá, các dân tộc. Trong lịch
sử, nhờ khẳng định giá trị hệ tư tưởng của dân tộc, CuBa ngay từ đầu đã
cảnh giác với Khu vực tự do thương mại châu Mỹ – dự án chiến lược của
Mỹ nhằm củng cố sự thống trị và đảm bảo cho Mỹ một thị trường rộng lớn.
Các tổ chức chín trị và xã hội CuBa khẳng định nếu để dự án chiến lược này
thành công: Chúng ta sẽ khơng cịn là chúng ta nữa và sẽ một lần nữa bị
thực dân hoá; nền văn hoá chung của chúng ta sẽ mai một đi khi Mỹ hóa
tồn châu lục....Sau CuBa, nhiều nơi trên thế giới cũng phản đối “phong
trào văn hóa đại chúng” và lối sống Mỹ thâm nhập vào khu vực thông qua
hoạt động kinh tế và giao lưu văn hố. Như vậy, tồn cầu hố có hai mặt
sáng, tối, nó đòi hỏi các quốc gia, dân tộc khi hội nhập vào xu thế chung
của nhân loại buộc phải xuất phát từ định hướng xây dựng đất nước đúng
đắn với hệ tư tưởng tiên tiến, đường lối, chủ trương phù hợp...để tận dụng được
thời cơ và vượt qua được thách thức và khẳng định vị thế của dân tộc mình.


<i>Bốn là, hiện nay mặc dù hầu hết các quốc gia đã giành được độc lập </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

chất của cuộc đấu tranh trong thế kỷ XXI không giống như các thế kỷ
trước: “Các nước đều mong muốn giải quyết mọi bất đồng bằng thương
lượng hồ bình trên ngun tắc hai bên cùng có lợi; đối ngoại thay cho đối
đầu; cạnh tranh kinh tế thay cho xung đột, chiến tranh chạy đua quân sự
toàn cầu; chính sách mở rộng và đa dạng hoá quan hệ đối ngoại thay thế
chính sách khép kín hay mở cửa từ một phía. Các quốc gia lớn nhỏ có chế
độ chính trị xã hội, có trình độ phát triển kinh tế khác nhau tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh
vực khác. Sự khác nhau về ý thức khơng cịn là bức tường ngăn cách sự hợp
tác, liên kết rộng rãi...Tuy nhiên, chiến tranh cục bộ vẫn diễn ra, có nơi
khốc liệt, kéo dài và xu hướng tăng cường vũ trang vẫn có chiều hướng gia


<i>tăng” [20,347]. Điều này đòi hỏi các quốc gia dân tộc một mặt, phải đấu </i>
<i>tranh, bảo vệ và giữ vững nền độc lập của mình; mặt khác, mỗi dân tộc </i>
cũng cần mở rộng hợp tác quốc tế vì khơng thể đứng ngoài khối liên kết
khu vực cũng như các xu thế chung của thời đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu
tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ
nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực
hiện âm mưu diễn biến hồ bình, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài
dân chủ, nhân quyền hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [12,75].
Bên cạnh đó, có những cá nhân, tổ chức, cán bộ, đảng viên... do không nắm
rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, không hiểu rõ thực chất và
ý nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đi đến
những quan điểm sai lầm. Họ cổ vũ cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc dân
tộc theo nghĩa dân tộc thiểu số, họ tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, tuyên
truyền cho ý thức hệ của giai cấp tư sản...gây rối loạn nội bộ, mất đoàn kết,
tạo điều kiện cho bọn cơ hội chống phá nhà nước ta từ nhiều phía.


Tóm lại, bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay đang có nhiều biến
động và thay đổi lớn, nhất là so với thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và
hoạt động. Tuy nhiên, những biến động và thay đổi của thế giới khơng
<i>những khơng bác bỏ mà càng khẳng định tính đúng đắn của học thuyết hình </i>


<i>thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác. Sự vận động chung theo quy luật </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>2.2.2 Một số ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh </i>
<i>về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng </i>
<i>con người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. </i>



Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, từ bối cảnh thời
đại và thực tiễn đất nước, chúng tôi rút ra một số ý nghĩa của tư tưởng này
trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay:


<i>Một là, trong điều kiện hiện nay, khi bối cảnh trong nước và thế giới </i>


còn nhiều biến động, vấn đề giải phóng dân tộc cần tiếp tục được coi là vấn
đề ưu tiên số một, lợi ích quốc gia là lợi ích cao nhất.


Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã giành
được độc lập, nhưng trên thực tế, cuộc đấu tranh cho một nền độc lập thực sự
vẫn chưa chấm dứt. Các nước thế giới thứ ba trong đó có Việt Nam vẫn đang
phải đấu tranh nhằm thốt khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị đối với các
nước tư bản phát triển. Do đó, vấn đề giải phóng dân tộc của Việt Nam nói
riêng và các quốc gia đã giành được độc lập nói chung trong thời đại ngày nay
cần được hiểu với tinh thần biện chứng duy vật tức là kiên quyết giữ vững độc
lập dân tộc, phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, coi đó là cội nguồn và
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ và phát triển đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

chức. Trong xu thế hội nhập của thế giới hiện nay, nếu khơng có lịng u
nước và tinh thần dân tộc thì rất dễ đánh mất chủ quyền quốc gia, sẽ rơi vào
nguy cơ “tái thuộc địa hoá” ở dạng mới. Bởi vì mưu đồ của các thế lực thù
địch đối với các nước đang phát triển là qua con đường tự do hoá thương
mại, hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ hịng áp đặt chính trị tư sản, thực hiện
diễn biến hồ bình làm thay đổi các chế độ xã hội theo hướng thân Mỹ và
phương Tây. Mục tiêu, chính sách đối ngoại của các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam là xây dựng một trật tự thế giới hồ bình, ổn định, hợp
tác, phát triển trên cơ sở các quốc gia dân tộc đều có quyền làm chủ vận
mệnh của mình và đều được đối xử bình đẳng trong các quan hệ quốc tế.



Đi theo ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, Việt Nam cần tận dụng thời cơ để vượt qua thách thức bằng việc phát
huy nội lực, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên cơ sở cùng có lợi và
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chính tư tưởng về việc phát
huy nội lực, tranh thủ ngoại lực đã từng được Người nhắc nhở khi đặt cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong quỹ đạo của cách mạng vơ sản thế
giới, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

nản, thờ ơ với thời cuộc, với công cuộc đổi mới của đất nước. Nhận định về
vấn đề này, mới đây nhất, Đại hội X chỉ rõ: “Tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận khơng
nhỏ cán bộ cơng chức cịn diễn ra nghiêm trọng” [12,48]. “Những biểu hiện xã
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục” [12,325].... Cho nên
“trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
[12,19].. Đây là bài học lớn đầu tiên trong năm bài học lớn mà Đảng và Nhà
nước đã rút ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.


<i>Hai là, trước sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp, trong </i>


thời kỳ đổi mới đất nước phải giải quyết hài hồ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội với lợi ích dân tộc và lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp với nhau.


Bên cạnh việc đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, coi giải phóng
dân tộc là điều kiện tiên quyết để giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Hồ Chí Minh cũng khơng qn giải quyết từng bước lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Với Người, vấn đề ba giải phóng nằm trong một thể
thống nhất cho nên trong lúc giải quyết vấn đề dân tộc đã từng bước giải quyết


vấn đề giai cấp và con người. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh trong điều kiện
hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị định hướng trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan tới lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

sinh mâu thuẫn mới. Trước tình hình đó, chúng ta phải nhìn vào cái chung,
phải lấy lợi ích chung làm cơ sở để hoạch định đường lối và chính sách. Đồng
thời cũng phải quan tâm nhiều hơn đến lợi ích riêng của từng giai cấp, tầng lớp
trong khả năng và phạm vi có thể.


Coi trọng lợi ích dân tộc, vì lợi ích dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa vì nó có lợi cho nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, cơ
chế kinh tế ở nước ta trong thời kỳ này không phải là cái gì khác hơn nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này, bên cạnh những
hạn chế của nó, cũng góp phần giải phóng sức sản xuất, khơi dậy các tiềm
năng trong nhân dân...đóng góp vào việc xố đói, giảm nghèo, tạo động lực
cho việc phát triển kinh tế xã hội nói chung.


Nhìn chung, trong thời điểm hiện tại, mặc dù có sự chuyển dịch cơ cấu
giai cấp trong xã hội, song không tồn tại mâu thuẫn gay gắt giữa lợi ích dân
tộc và lợi ích giai cấp với nghĩa là mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu. Đại hội IX của
Đảng nhận định: nội dung chủ yếu của mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc...Tuy nhiên, khơng vì thế mà chúng ta
coi nhẹ lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp. Về điều này, ngay trong thời kỳ ác
liệt nhất của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn khơng qn
nhắc nhở phải chú ý đến ưu điểm, nhược điểm và lợi ích của các giai cấp, tầng


lớp trong xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

hạn chế, khắc phục sự khác biệt xã hội, thiết lập công bằng xã hội nhưng không
được làm triệt tiêu động lực lợi ích của các giai tầng xã hội, phải “kết hợp hài hồ
lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích tồn xã hội” [12,117]


<i>Ba là, trước những âm mưu chống phá, gây chia rẽ, mất đoàn kết dân </i>


tộc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, cần tiếp tục củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ
đổi mới.


Khi đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
trong sự thống nhất, Hồ Chí Minh coi đại đồn kết là chiến lược xuyên suốt
tiến trình cách mạng Việt Nam. Người đòi hỏi mỗi người, trước hết là đảng
viên phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất như “giữ gìn con ngươi của mắt
mình”, bởi đó là một trong những nhân tố hàng đầu để giành và giữ độc lập
dân tộc, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong các kỳ đại hội, Đảng ta ln giương
cao ngọn cờ đồn kết của Hồ Chí Minh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

thêm của cơ cấu giai cấp – xã hội đòi hỏi phải nhận thức đúng dắn vị trí và
vai trị của mỗi giai cấp cũng như cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã lấy độc
lập dân tộc làm sợi dây liên kết tất cả các tầng lớp nhân dân vào một mặt trận
thống nhất. Tương tự như vậy, ngày nay chúng ta cũng cần có tham số chung
để đoàn kết toàn dân. Đảng ta khẳng định: “Lấy mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất của tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ,
văn minh làm điểm tương đồng gắn bó đồng bào các dân tộc, các tơn giáo, các


tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngồi”


[12,116]. Nói cách khác, tuy tình hình xã hội có nhiều thay đổi song sự nghiệp


đổi mới đất nước khơng nằm ngồi mục tiêu đưa dân tộc ta tiến lên chủ nghĩa xã
hội, góp sức vào cơng cuộc giải phóng con người trên phạm vi thế giới. Với tính
đặc thù của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định phải tiếp
tục xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm phát huy hết các nguồn nội lực, sử
dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn ngoại lực. Đây được coi là điều kiện
quan trọng cho việc hoàn thành sự nghiệp đổi mới ở nước ta.


<i>Bốn là, trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường như </i>


tạo ra tâm lý chạy theo đồng tiền, lối sống hưởng thụ, làm phai nhạt các giá trị
truyền thống...cần tiếp tục bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, coi sự phát triển tồn diện con người vừa là công cụ, vừa
là mục tiêu của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Tuy nhiên, trong những năm đổi mới vừa qua sự chênh lệch giữa thực tế
với mục tiêu phát triển con người tồn diện là rất lớn. Có thể nói chính sự yếu
kém trong việc hiện thực hố tư tưởng phát triển con người tồn diện của Hồ
Chí Minh và của Đảng, Nhà nước trong quá trình đổi mới đã dẫn đến sự phát
triển mất cân đối, thiếu hài hồ, thậm chí lệch lạc của một bộ phận khá lớn
dân cư, nhất là thế hệ trẻ hiện nay.


Các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực đã cho
thấy: tình trạng sức khoẻ của một số lượng lớn dân cư còn ở mức yếu, tỉ lệ trẻ
em suy dịnh dưỡng cao, năng lực hiểu biết về tự nhiên và xã hội của mỗi người
không đều, khoảng cách giữa học với hành, giữa nhận thức lý luận, kiến thức
chung với hoạt động thực tiễn khá xa, tình trạng chú trọng phát triển trí tuệ,


xem nhẹ thể lực, đạo đức, lối sống vẫn phổ biến ...Số người thật sự có sức khoẻ
và năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay cịn rất ít.
Các kết quả điều tra cũng cho thấy cùng với quá trình mở cửa hội nhập,
giao lưu với quốc tế định hướng giá trị, thang giá trị của Việt Nam cũng biến
đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh mặt tích cực định
hướng vào các giá trị chung của nhân loại như: hồ bình, tự do, an ninh, học
vấn, gia đình, việc làm..., các giá trị truyền thống của dân tộc như: lịng u
nước, nhân ái, tính cộng đồng, hiếu học, cần cù...đã xuất hiện xu hướng xem
nặng giá trị vật chất, sùng bái đồng tiền và các giá trị văn hoá ngoại lai, chạy
theo lối sống hưởng thụ, cá nhân...Chính vì vậy, khắc phục sự sai lệch, sự
không phù hợp giữa mục tiêu đúng đắn với sự phát triển con người toàn diện
là một vấn đề lớn, cấp bách đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Theo đó con người cơ sở, là xuất phát điểm và cũng là mục tiêu của sự nghiệp
đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay.


Để tạo cho con người sự phát triển toàn diện, để phát huy nhân tố con
người, phải có một chiến lược toàn diện từ giải quyết việc làm, chăm lo sức
khoẻ, đời sống vật chất tinh thần đến đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, sử
dụng đúng đắn đối với khả năng của con người và xây dựng một đội ngũ kế
cận có sức khoẻ, có chun mơn, có lịng nhiệt tình cơng việc đi đơi với việc
giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lập trường chính trị, phẩm chất đạo
đức cho họ. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai, khoá VIII chỉ
rõ: xây dựng những con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng; có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại; có ý
thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân; làm chủ tri thức khoa
học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có
tác phong cơng nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ, là những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xa hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn


của Bác Hồ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<b>KÕt luËn </b>


Nghiên cứu sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tơi rút ra
một số kết luận sau đây:


1. Mỗi tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của thời đại, chịu sự chi
phối và phản ánh thời đại đã sinh ra nó. Đồng thời nó lại là sản phẩm của sự
sáng tạo của chính chủ thể nên cũng chịu sự quy định bởi nhân tố chủ quan
của chủ thể ấy. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người là kết quả kết hợp của quá
trình một người con được nuôi lớn trong truyền thống hào hùng của dân tộc,
tham gia vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX với một trí tuệ vượt bậc, hơn người. Trong thực tiễn
cách mạng, Hồ Chí Minh nhận ra sức mạnh tiềm ẩn của dân tộc là lòng yêu
nước, Người cũng tìm ra con đường duy nhất để giải phóng dân tộc là con
đường cách mạng vô sản.


2. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đều có một mục đích
chung là xố bỏ chế độ áp bức, bóc lột, giải phóng nhân loại và tạo cơ hội
cho con người có khả năng phát triển toàn diện. Con đường mà C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin chỉ ra là cách mạng vô sản để tiến tới chủ nghĩa
cộng sản.


C.Mác và Ph.Ăngghen đứng ở thời điểm lịch sử là giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh với mâu thuẫn chủ yếu giữa hai giai cấp vô
sản và tư sản, cho rằng mấu chốt của cách mạng vô sản là đưa giai cấp vô
sản lên nắm quyền. Theo đó, con đường giải phóng con người về cơ bản là


đi từ giải phóng giai cấp đến giải phóng nhân loại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

những cơn bão táp dưới “chế độ dân chủ”, thì ở châu á đã bắt đầu phát sinh
một nguồn mới những cơn bão táp cực kỳ lớn của thế giới...Chúng ta đang
sống chính trong thời đại những cơn bão táp ấy mà những cơn bão táp ấy
đang “dội ngược trở lại châu Âu. V.I. Lênin đánh giá cao vai trò của cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, coi nó là một
bộ phận của cách mạng thế giới, giúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc
giành thắng lợi. “Giai cấp vô sản chiến thắng của nước đó, sẽ đứng lên
chống lại cái phần thế giới tư bản chủ nghĩa cịn lại, lơi cuốn những giai cấp
bị áp bức ở các nước khác theo mình, thúc đẩy họ nổi dậy chống bọn tư
bản, chống lại các giai cấp bóc lột và nhà nước của chúng” 36,447. Mặc
dù vậy, giải phóng dân tộc ở Lênin vẫn nảy sinh như một hệ quả tất yếu từ
giải phóng giai cấp. Điều này bị quy định bởi điều kiện xã hội lúc đó, mặt
khác Lênin chưa có điều kiện thâm nhập vào thực tiễn các nước phương
Đông nên chưa thấy hết tiềm năng cách mạng ở những nước này. Từ đó, tuy
Lênin nhấn mạnh quan hệ giữa cách mạng vơ sản chính quốc với cách
mạng giải phóng thuộc địa nhưng vẫn trên cơ sở đặt vấn đề dân tộc phụ
thuộc vào vấn đề giai cấp. Cách mạng giải phóng thuộc địa chỉ có thể thắng
lợi sau khi cách mạng chính quốc thắng lợi, chỉ có giải phóng giai cấp mới
giải phóng được dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

3. Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể
Việt Nam, Hồ Chí Minh lấy vấn đề giải phóng dân tộc làm trung tâm để
nhìn nhận, giải quyết vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Người khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng
Tháng Mười Nga, là một phần của cách mạng vô sản.


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.


Trong suốt tiến trình cách mạng, Người đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong mối liên hệ hưu cơ không
thể tách rời. Giải phóng dân tộc được coi là vấn đề cấp bách, then chốt để đi
tới giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người đã giải quyết vấn đề
dân tộc giải phóng trên lập trường của giai cấp công nhân – giai cấp tiên
tiến và triệt để cách mạng nhất. Chính nhờ vậy mà vấn đề dân tộc giải
phóng của Người khác hẳn với các bậc tiền bối và càng xa lạ với thứ chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Hiểu khát vọng của con người, Hồ Chí Minh cũng hiểu khát vọng
độc lập dân tộc là khát vọng chung của tất cả các dân tộc bị áp bức. Người
mong muốn độc lập cho dân tộc Việt Nam và độc lập cho tất cả các dân tộc
bị áp bức. Người đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo cách mạng vơ
sản để giành thắng lợi hồn tồn trong cơng cuộc ba giải phóng đồng thời
góp sức vào cơng cuộc ba giải phóng trên phạm vi thế giới. Xét đến cùng,
đích chung của cả ba cuộc giải phóng ấy là giải phóng và đem lại cơ hội
phát triển toàn diện cho con người. Để phát triển toàn diện con người, phải
bắt đầu từ việc quan tâm tới những điều căn bản để làm người. Hồ Chí
Minh đã làm như vậy khi đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người trong một thể thống nhất, từng bước tạo lập những yếu tố
đầu tiên cho việc phát triển toàn diện con người ngay trong những thời kỳ
khó khăn nhất của cách mạng.


4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người cho thấy trí tuệ vượt bậc cộng
với một tinh thần nhân văn của Người. Trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, chính việc kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người là chìa khố vàng đưa tới thành cơng. Tư tưởng
này của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh đổi
mới và phát triển đất nước. Cụ thể:



<i>Một là, trong điều kiện hiện nay khi bối cảnh trong nước và thế giới </i>


cịn nhiều biến động, vấn đề giải phóng dân tộc cần tiếp tục được coi là vấn
đề ưu tiên số một, lợi ích quốc gia là lợi ích cao nhất.


<i> Hai là, trước sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp, </i>
trong thời kỳ đổi mới đất nước phải giải quyết hài hồ lợi ích giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội với lợi ích dân tộc và lợi ích giữa các giai cấp,
tầng lớp với nhau.


<i>Ba là, trước những âm mưu chống phá, gây chia rẽ, mất đoàn kết dân </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong
thời kỳ đổi mới.


<i> Bốn là, trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường </i>
như tạo ra tâm lý chạy theo đồng tiền, lối sống hưởng thụ, làm phai nhạt
các giá trị truyền thống...cần tiếp tục bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, coi sự phát triển toàn diện con người vừa là
công cụ, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

danh mục tàI liệu tham khảo


<i>[1]. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1964), Văn kiện Đảng 1929-1935, </i>
Nxb. Sự thật, Hà Nội.


<i>[2]. Bảo tàng cách mạng Việt Nam (2005), Bản án chủ nghĩa thực dân </i>


<i>Pháp ở Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. </i>



<i> [3]. Nguyễn Đức Bình (2003), Về chủ nghĩa xà hội và con đường đi lên </i>


<i>chủ nghĩa x· héi ë ViƯt Nam, Nxb. ChÝnh trÞ qc gia, Hµ Néi. </i>


<i>[4]. Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt </i>


<i>Nam, Nxb. Th«ng tin lý ln, Hµ Néi. </i>


<i>[5]. Danh nhân Hồ Chí Minh (2000), t.1, Nxb. Lao động, Hà Nội. </i>
<i>[6]. Danh nhân Hồ Chí Minh (2000), t.2, Nxb. Lao động, Hà Nội. </i>


<i>[7]. Thành Duy (2004), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam dưới </i>


<i>ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội </i>


[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1975), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêủ sử
và sự nghiệp, Nxb. Sự thật.


<i>[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, toµn tËp, t. 6, </i>
Nxb. ChÝnh trị quốc gia, Hà Nội.


<i>[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, toàn tập, t.7, </i>
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội


<i>[11]. Đảng Céng s¶n ViƯt Nam (2001), Văn kiện Đảng, toàn tập, t.12, </i>
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


<i>[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006),Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn </i>



<i>quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quèc gia, Hµ Néi. </i>


<i>[13]. Nguyễn Đức Đạt (2005), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Nxb. </i>
Chính trị quốc gia, H Ni.


<i>[14]. Phạn Văn Đồng (1970), Chđ tÞch Hå ChÝ Minh tinh hoa vµ khÝ </i>


<i>phách của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb. S tht, H Ni. </i>


<i>[15]. Phạm Văn Đồng (1973), Tỉ qc ta nh©n d©n ta sù nghiƯp ta vµ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<i>[16] Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên </i>


<i>con đường dân giàu nước mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>[17]. Ngun Minh §øc (2004), Hå ChÝ Minh víi cuéc kháng chiến </i>


<i>chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội. </i>


<i>[18]. Trần Đương (2004), Hồ Chí Minh nhà dự báo thiên tài, Nxb.Thông </i>
tấn, Hà Nội.


<i>[19]. Võ Nguyên Giáp (2001), Những bài viết và nãi chuyÖn chän läc </i>


<i>trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>[20]. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con ng </i>


<i>cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>



<i>[21]. Vừ Nguyờn Giáp (2004), Một số vấn đề nghiên cứu tư tưởng H </i>


<i>Chí Minh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Néi. </i>


<i>[22]. Trần Văn Giầu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí </i>


<i>Minh, Nxb Khoa häc xà hội, Hà Nội. </i>


<i>[23]. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc </i>


<i>Việt Nam, Nxb Khoa häc x· héi, Hµ Néi. </i>


<i>[24]. Nguyễn Bích Hạnh (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết </i>


<i>và mặt trận đoàn kết dân tộc, Nxb. Lao ng, H Ni. </i>


<i>[25]. John Lê Văn Hoá (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong </i>


<i>t tng cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb Hà Nội. </i>


[26]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Hồ Chí Minh và
<i>các lãnh tụ của Đảng (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết với </i>


<i>vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, </i>


Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

[28]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia (2003),


<i>Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>



<i>[29]. Đặng Xuân Kỳ (1990), Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb </i>
Thơng tin lý luận, Hà Nội.


<i>[30]. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, </i>
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.


<i>[31]. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn </i>


<i>hố và con người, Nxb. Chính trị quốc gia, H Ni. </i>


[32]. Lê Thế Lạng (2006), Quá trình hình thành và hoàn chỉnh đường lối
<i>cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng cộng sản Việt Nam, Tạp </i>


<i>chí Xây dựng Đảng, số 2, Hà Nội. </i>


<i>[33]. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, t.4, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. </i>
<i>[34]. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, t.7, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. </i>
<i>[35]. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.25, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. </i>
<i>[36]. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.26, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. </i>
<i>[37]. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, t.39, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. </i>
<i>[38]. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, t.41, Nxb. TiÕn bé, Matxc¬va. </i>
<i>[39]. Bïi B¸ Linh (2005), Quan niệm của C.Mác và Ph.ăngghen vỊ con </i>


<i>người và sự nghiệp giải phóng con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>[40]. Nguyễn Bá Linh (2004), Chủ Tịch Hồ Chí Minh những cèng hiÕn vÒ lý </i>


<i>luận và thực tiễn trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình độc lập dân tộc dân </i>
<i>chủ và tiến bộ xã hội trong thế kỷ 20, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. </i>



<i>[41]. Nguyễn Bá Linh (2004), Cương lĩnh đầu tiên của đảng ngọn c c lp </i>


<i>dân tộc và chủ nghĩa xà hội Hồ Chí Minh, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i>[47]. Hå ChÝ Minh (2000), Toµn tËp, t.2, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[48]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[49]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.4, Nxb.Chính trị quèc gia, Hµ Néi. </i>
<i>[50]. Hå ChÝ Minh (2000), Toµn tập, t.5, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[51]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.6, Nxb.Chính trị quốc gia, Hµ Néi </i>
<i>[52]. Hå ChÝ Minh (2000), Toµn tËp, t.7, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[53]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.8, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[54]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.9, Nxb.Chính trị quèc gia, Hµ Néi. </i>
<i>[55]. Hå ChÝ Minh (2000), Toµn tập, t.10, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[56]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.11, Nxb.Chính trị quốc gia, Hµ Néi. </i>
<i>[57]. Hå ChÝ Minh (2000),Toµn tËp, t.12, Nxb.ChÝnh trị quốc gia, Hà Nội. </i>
<i>[58]. Hồ Chí Minh (1998), Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xà hội, </i>


<i>và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb Chính trị quèc gia. </i>


<i>[59]. Furata Motoo (1997), Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới, </i>
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


<i>[60]. Nguyễn Di Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb </i>
Chính trị quốc gia, Hà Nội.


[61]. Trịnh Nhu (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách
<i>mạng giải phóng dân tộc, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 8-9, Hà Nội. </i>


<i>[62]. Lê Khả Phiêu (2000), Tư tưởng Hồ Chớ Minh soi sỏng con ng ng </i>



<i>ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị qc gia, Hµ Néi. </i>


<i> [63]. Bùi Đình Phong (2004), Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh </i>


<i>sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


<i>[64]. Hồ Sỹ Quý (2003), Con người và phỏt trin con ngi trong quan </i>


<i>niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

[66]. Nguyễn Văn Son (2005), Kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
<i>Minh, Tạp chí Cộng sản, số 14, Hà Nội. </i>


<i>[67]. Trần Phúc Thăng (2005), Giai cấp và đấu tranh giai cấp- một số </i>


<i>vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. </i>


[68]. Lê Sĩ Thắng (1993), Về dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu
<i>tranh trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học, số 2. </i>
<i>[69]. Hùng Thắng-Nguyễn Thành (1985), Chủ tịch Hồ Chí Minh người chiến sĩ </i>


<i>tiên phong trên mặt trận giải phóng dân tộc, Nxb. Khoa häc x· héi, Hµ Néi. </i>


<i>[70]. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb.Lý luận </i>
Chính trị, Hà Nội.


<i>[71]. Tỉnh uỷ Nghệ An (2004), Hồ Chí Minh thời niên thiếu, Nxb. Nghệ An. </i>
<i> [72]. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ </i>



<i>Chủ Tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội. </i>


[73]. o Duy Tùng (1992), Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh,


<i>Tạp chí Cộng sản, số 5, Hà Nội. </i>


<i>[74]. Từ điển Hồ Chí Minh sơ giản (2001), Nxb. Trẻ, Hµ Néi. </i>


<i> [75]. Viện nghiên cứu con người (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh phương </i>


<i>pháp luận nghiên cứu con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. </i>


[76]. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
<i>(1995), Một số vấn đề triết học Mác-Lênin với công cuộc đổi mới, Hà Nội. </i>
<i> [77]. Viện Mác Lênin-Thành uỷ Hà Nội (1990), Chủ Tịch Hồ Chí Minh </i>


<i>người chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào </i>
<i>cộng sản và cơng nhân quốc tế, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội. </i>


<i>[78]. Hồ Kiếm Việt (2002), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học </i>


<i>Hå ChÝ Minh, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi </i>


<i>[79]. Lê Văn Yên (1998), Hồ Chí Minh với chiến lược đồn kết quốc tế </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

trong điều kiện hiện nay, khi bối cảnh trong nước và thế giới còn
nhiều biến động, vấn đề giải phóng dân tộc cần tiếp tục được coi là vấn đề
ưu tiên số một, lợi ích quốc gia là lợi ích cao nhất. Vì tuy hầu hết các quốc
gia trên thế giới đã giành được độc lập, nhưng trên thực tế, cuộc đấu tranh


cho một nền độc lập thực sự vẫn chưa chấm dứt. Các nước thế giới thứ ba
trong đó có Việt Nam vẫn đang phải đấu tranh nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc
về kinh tế, chính trị đối với các nước tư bản phát triển. Do đó, vấn đề giải
phóng dân tộc của Việt Nam nói riêng và các quốc gia đã giành được độc lập
nói chung trong thời đại ngày nay cần được hiểu với tinh thần biện chứng duy
vật tức là kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc, phát huy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, coi đó là cội nguồn và động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ và
phát triển đất nước.


</div>

<!--links-->

×