Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.17 KB, 6 trang )


MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 1
I-/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GÍA THÀNH TẠI
CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 1.
Từ những ngày đầu bước vào sản xuất kinh doanh với nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo và đội ngũ
cán bộ công nhân viên toàn công ty, sự quan tâm của Bộ Xây dựng. Công ty xây dựng số 1 luôn xứng
đáng là một trong những đơn vị đứng đầu trong cả nước về xây dựng. Công ty đã, đang và sẽ xây dựng
nhiều công trình có tầm quan trọng trong nền kinh tế.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế về công tác quản lý công tác kế toán nói chung, công tác quản lý hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành công tác xây lắp nói riêng, em nhận thấy công ty là một đơn vị
hạch toán kinh tế độc lập thuộc doanh nghiệp Nhà nước tuy nhiều mặt còn chịu sự chỉ đạo quản lý của
Nhà nước cũng như chịu sự chỉ đạo của Tổng công ty xây dựng Hà Nội, nhưng công ty đã xây dựng
được mô hình quản lý và hạch toán hợp lý, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, chủ động
hoạt động kinh doanh. Từ công việc hạch toán ban đầu, việc kiểm tra hợp lý, hợp lệ các chứng từ các
chứng từ được tiến hành khá cẩn thận, đảm bảo số liệu hạch toán có căn cứ pháp lý tránh được sự phản
ánh sai lệch nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc lập và luân chuyển chứng từ theo đúng chế độ hiện
hành, cung cấp khá kịp thời số liệu cho kế toán nhật ký chung làm nhiệm vụ cập nhật.
Với bộ máy quản lý gọn nhẹ, các phòng ban chức năng đủ đáp ứng nhu cầu chỉ đạo và kiểm tra các
hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty đã đảm bảo quản lý và hạch toán các yếu tố chi phí của quá
trình sản xuất một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Cụ thể công ty đã quản lý lao động có trọng tâm và
luôn động viên khuyến khích đối với lao động có tay nghề cao. Ngoài ra, công ty còn chia lao động
thành lao động trong danh sách và lao động ngoài danh sách để động viên, huy động lao động được
linh hoạt.
Phòng kế toán công ty (gồm 11 người) được bố trí một cách gọn nhẹ, với đội ngũ kế toán có trình độ, có
năng lực, nhiệt tình và trung thực đã xây dựng được hệ thống sổ sách kế toán - cách thức ghi chép, phương
pháp hạch toán một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với yêu cầu - mục đích của chế độ kế toán mới, tổ chức
công tác kế toán quản trị, kế toán tài chính rõ ràng, khoa học ... giảm bớt được khối lượng công việc ghi sổ
kế toán, đáp ứng được đầy đủ thông tin hữu dụng đối với từng yêu cầu quản lý của công ty và của các đối
tượng liên quan khác.
Cụ thể :


+ Công ty đã mở những sổ kế toán phản ánh cho từng công trình, hạng mục công trình, từng đơn vị
đảm bảo cho việc theo dõi khá sát sao cho từng công trình và đơn vị thi công đó.
+ Do việc lập các sổ chi tiết nên tạo điều kiện thuận lợi cho trưởng phòng kế toàn cùng ban lãnh đạo
công ty trong việc phân tích hoạt động kinh tế. Công tác này được tiến hành khá tốt nên đã đưa ra
quyết định kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh của toàn công ty.
1

Về công tác tập hợp chi phí và giá thành, kế toán công ty đã hạch toán chi phí sản xuất cho từng công
trình, hạng mục công trình trong từng tháng, từng quý một cách rõ ràng đơn giản phục vụ tốt cho yêu
cầu quản lý chi phí sản xuất, quản lý và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Công tác kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang được tổ chức một cách khoa học, cung cấp số liệu chính
xác phục vụ cho công tác tính giá thành.
Về việc sử dụng máy vi tính trong công tác kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí tính giá thành
nói riêng cũng góp phần không nhỏ giảm được các chi phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả của
công tác kế toán.
+ Đã lập được chương trình kế toán riêng trên máy vi tính theo hình thức kế toán nhật ký chung.
+ Đã đưa toàn bộ phần kế toán tài chính và kế toán quản trị vào máy vi tính.
+ Có thể đưa ra báo cáo kế toán vào bất kỳ thời điểm nào cần.
+ Cung cấp đầy đủ, kịp thời các số liệu kế toán cho ban lãnh đạo, phục vụ công tác quản lý.
II-/ MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM Ở CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 1
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu hạch toán chủ yếu trong công tác kế toán
của doanh nghiệp sản xuất. Nghiệp vụ kinh tế phát sinh của nó được phản ánh bằng nhiều loại chứng
từ gốc bắt nguồn từ tổ, đội sản xuất qua các cán bộ kỹ thuật, thủ kho, lao động tiền lương rồi mới đến
kế toán xí nghiệp để phân loại, tổng hợp chứng từ và chuyển về phòng kế toán để kiểm tra hạch toán.
Đối với ngành xây dựng cơ bản, chủ yếu giá thành sản phẩm xây lắp được xác định trước khi sản xuất
ra sản phẩm. Để bù đắp chi phí sản xuất và đảm bảo có lãi, trong quá trình sản xuất công ty luôn phải
đối chiếu giữa chi phí thực tế phát sinh với giá trị dự toán.
Xuất phát từ tính chất phức tạp của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như đã trình bày ở trên, thiết nghĩ nó cần được đổi mới. Nếu

nghiên cứu một cách đầy đủ các khiếm khuyết và hữu hiệu thì đòi hỏi phải có một đề tài nghiên cứu
nghiêm túc và sâu sắc mới thực sự tương xứng với tầm vóc của nó. Chính vì vậy, với sự hiểu biết còn
nhiều hạn chế lại qua một thời gian thực tập ngắn, chưa thể hiểu hết các công tác kế toán liên quan tới
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhưng em cũng mạnh dạn nêu một số ý kiến về
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé khắc phục được những
hạn chế trong công tác kế toán tại công ty xây dựng số 1.
Như đã đề cập, theo chế độ kế toán hiện hành, đối với kế toán XDCB thì các khoản trích BHXH,
BHYT, KPCĐ tính theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp, không được hạch toán vào khoản mục
chi phí nhân công trực tiếp mà phải được phản ánh vào TK 627 “Chi phí sản xuất chung”.
Để đảm bảo hạch toán chính xác chi phí nhân công trực tiếp, Công ty cần tách riêng các khoản trích
nàytheo tỉ lệ quy định (25%) trong đó 19% do Công ty trích cho công nhân và tính vào chi phí kinh
doanh còn 6% trừ qua lương của công nhân viên trên tổng số tiền lương phải trả công nhân viên trực
tiếp).
2

Lấy công trình Trần Quang Khải làm ví dụ, tháng 12 năm2002 tiền lương của công nhân trực tiếp phát
sinh.
+Lương công nhân trực tiếp sản xuất: 115.178.000
+Các khoán trích theo lương: 3.882.000
Công ty đã hạch toán :
Nợ TK 622 119.050.000
Có TK 334(1,2) 115.178.000
Có TK 338(2, 3, 4) 3.882.000
Hạch toán theo kiến nghị:
Nợ TK622 115.178.000
Có TK 334(1, 2) 115.178.000
Nợ TK 627(6271) 3.882.000
Có TK 338(2, 3, 4) 3.882.000
Mặc dù hạch toán của công ty không làm thay đổi giá thành công trình song sơ cấu khoản mục giá
thành lại thay đổi hợp lý, cụ thể: Chi phí nhân công trực tiếp tăng lên 3.882.000 còn chi phí sản xuất

chung giảm đi 1 lượng tương ứng là 3.882.000. Theo tôi kế toán Xí nghiệp nên hạch toán theo đúng
chế độ, tránh rắc rối khi kiểm toán sau này.
Trên thực tế, quá trình tập hợp chi phí của công ty được phân loại theo khoản mục chi phí nhưng trong
khi lập giá thành dự toán, Công ty không lập theo khoản mục chi phí mà lại lập theo đơn giá tổng hợp.
Việc lập giá thành dự toán theo đơn giá tổng hựp không làm thay đổi tổng giá thành công trình nhưng
gây khó khăn cho việc đánh giá, phân tích giữa các khoản mục chi phí thực tế với dự toán. Nếu như
lập gía thành dự toán theo cách phân loại chi phí thì không những khi công trình hoàn thành ta có thể
so sánhvà biết được khoản chi phí nào tăng, giảm so với dự toán để từ đó tìm ra nguyên nhân, biện
pháp khắc phục mà còn là cơ sở để trong quá trình hình thành thi công Xí nghiệp dự đoán lượng lao
động, vật tư…cần dùng, tránh lãng phí, dư thừa và hao hụt. Vậy theo tôi, Xí nghiệp nên lập giá thành
dự toán theo khoản mục chi phí vì như vậy sẽ phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí đồng thời cũng
cung cấp những thông tin kịp thời tạo điều kiện tốt cho công tác quản lý, ra quyết định của nhà quản
trị.
Ngoài ra đối với chi phí nguyên vật liệu trong doanh nghiệp xây lắp chiếm tỷ trọng rất lớn nên
tiết kiệm vật tư là cần thiết. Tiết kiệm ở đây không có nghĩa là cắt xén, mua vật tư kém chất lượng...
mà thực chất là xuất dùng đúng việc, không lãng phí, bừa bãi, có kế hoạch bảo quản rõ ràng, tránh mất
mát, hư hỏng cũng như giảm chất lượng vật tư. Xí nghiệp nên cử ra một số cán bộ có trình độ, năng
lực, trung thực nhạy bén, chuyên nghiên cứu về thị trường vật tư bởi việc cung ứng vật tư phụ thuộc
rất nhiều vào tình hình biến động của thị trường. Hơn thế, công ty có nhiều công trình nằm dải dác
khắp nơi do đó đối với những công trình lớn, có thời gian thi công dài xí nghiệp nên tiến hành đấu
thầu cung ứng vật tư. Yếu tố chi phí vận chuyển vật tư cũng cần quan tâm, công ty phải có kế hoạch
vận chuyển vật tư sao cho có hiệu quả nhất tức là khoảng cách từ nhà cung cấp đến kho hoặc đến chân
công trình phải có giá cả phù hợp, tránh vận chuyển nhiều gây hư hỏng, hao hụt... Trường hợp công ty
3

phải thuê xe ngoài thì nên thuê những xe phù hợp với nhu cầu vận chuyển... Bên cạnh đó công ty cần
phải tìm kiếm những nguyên vật liệu mới, có sử dụng hiệu quả cao, phù hợp với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và tất nhiên giá cả phải phù hợp với yêu cầu công trình.
Nói chung chi phí nguyên vật liệu chiếm khoảng 75% giá trị công trình bởi vậy xí nghiệp cần
có những biện phát thích ứng với điều kiện, tình hình cụ thể để có những biện pháp kịp thời nhằm

giảm chi phí đến mức có thể.
Công nhân thi công các công trình của xí nghiệp chủ yếu là lao động thuê ngoài, do đó xí
nghiệp phải theo dõi, quản lý chặt chẽ cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Quản lý về số lượng sẽ đảm
bảo lượng lao động cần thiết để hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp, tránh để công việc bị
gián đoạn do thiếu nhân công cũng như để nhân công phải chờ việc. Còn quản lý chất lượng tức là
những công nhân tham gia xây lắp công trình phải có chuyên môn, tay nghề cao. Công tác quản lý
nhân công cần phải có khoa học nghệ thuật biết dùng đúng người, đúng việc sẽ góp phần nâng cao
năng suất lao động, chất lượng công trình và cũng đảm bảo sử dụng thời gian hợp lý .
Bên cạnh những giải pháp trên xí nghiệp cần phải giảm những chi phí không cần thiết đến
mức tối thiếu. Có như vậy, công tác tiết kiệm chi phí và giảm giá thành sản phẩm mới mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
KẾT LUẬN
Trong suốt quá trình thực tập tại XNXD 101- Công ty xây dựng số 1 thuộc Tổng công ty xây dựng Hà
Nội, em nhận thấy rằng thực hành sinh ra hiểu biết, chỉ dựa vào những kiến thức đã học ở trường là
chưa đủ. Bởi vậy đây là thời gian cho em thử nghiệm những kiến thức mình đã học khi còn ngồi trên
ghế nhà trường vào công tác thực tế.
Mặt khác, quá trình thực tập giúp em hiểu sâu hơn, đúng hơn những kiến thức mình đã học. Tất nhiên
con người chỉ biết nhiều hay biết ít, khó có thể biết cho đủ. Song em cảm thấy mình chững chạc lên rất
nhiều và hiểu rằng lý luận phải đi đôi với thực tiễn mới làm chúng ta trưởng thành. Hiểu được tầm
quan trọng đó, em đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu học hỏi thêm về lý luận cũng như thực tế các công
tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp áp dụng kế toán mới ở nước ta.
Được sự giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, tận tâm của Cô giáo Trần Thu Phong và các thầy cô ở
trường, các bác, các cô, các anh chị trong công ty mà đặc biệt là phòng kế toán XNXD 101, nên em đã
hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở
Xí nghiệp 101-Công ty xây dựng số 1”
Trong chuyên đề này, em xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến nhỏ với nguyện vọng để công ty tham
khảo nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở
công ty.
Do trình độ và kiến thức bản thân còn hạn chế, nên trong bài luận văn này không tránh khỏi những sai
sót, hạn chế nhất định. Em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô giáo để nhận thức của

em được tiến bộ hơn nữa.
4

Một lần nữa em xin chân thành cám ơn sự nhiệt tình giúp đỡ chỉ bảo của Cô giáo Trần Thu Phong và
các thầy cô giáo trong trường, các bác, các cô, các anh, chị trong XNXD 101- Công ty xây dựng số 1
đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
5

×